Thứ Bảy, 8 tháng 1, 2022

20220109. BÀN VỀ BỔ NHIỆM VÀ TỪ CHỨC

 ĐIỂM BÁO MẠNG

KẾ SÁCH 'BÌNH THƯỜNG HÓA' VIỆC TỪ CHỨC

PHẠM MẠNH HÙNG/ TVN 6-1-2022

Ở nước ta hiện nay, dù thực tế xảy ra không ít vụ việc nổi cộm liên quan đến sai phạm hay thuộc chức trách của người đứng đầu khiến dư luận dậy sóng nhưng ít thấy ai từ chức. Làm sao để từ chức trở thành “lẽ thường”?

Nhìn ra thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển, từ chức là văn hóa hành xử, trách nhiệm của người có chức, có quyền, được dư luận xã hội chấp nhận. Khi sai phạm xảy ra, quan chức thấy không còn xứng đáng với chức vụ mình đảm nhiệm thì đệ đơn từ chức, là việc nên làm và phải làm.  

Kế sách 'bình thường hóa' việc từ chức
Cho đến nay, trên thực tế thì từ chức rất hiếm

Nhìn vào lịch sử Việt Nam, hiện tượng từ quan cũng không phải là hiếm, có những ông quan tài năng xuất chúng, đạo đức sáng ngời nhưng do nhiều nguyên nhân đã “treo ấn từ quan" như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Sau khi từ quan, họ vẫn cống hiến cho xã hội với cách thức khác và để lại tiếng thơm cho muôn đời sau.

Trong suốt nhiều năm qua, vấn đề từ chức được bàn luận sôi nổi, nhất là mỗi khi có vụ việc nổi cộm liên quan đến trách nhiệm người đứng đầu. Năm 1997, vấn đề từ chức đã được Đảng đề cập tại nghị quyết hội nghị TƯ 3 khóa 8. Đến năm 2009, Bộ Chính trị ban hành quy định số 260-QĐ/TW về “Việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức của cán bộ”.

Luật Cán bộ, công chức năm 2008 tại điều 7 giải thích: “Từ chức là việc cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý đề nghị được thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm”. Điều 30, điều 54 cũng quy định về các trường hợp từ chức đối với cán bộ, công chức. Ngày 3/11/2021, Bộ Chính trị ban hành quy định số 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ thay thế quy định 260, quy định rõ về các đối tượng từ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc từ chức.

Thực tế từ chức rất hiếm

Cho đến nay, quy định về từ chức không còn chung chung mà đã khá cụ thể trong các văn bản của Đảng và Nhà nước nhưng trên thực tế thì từ chức lại rất hiếm. Có thể khái quát thành 4 nguyên nhân chủ yếu.

Kế sách 'bình thường hóa' việc từ chức
Khi sai phạm xảy ra, quan chức thấy không còn xứng đáng với chức vụ mình đang đảm nhiệm thì đệ đơn từ chức, là việc nên làm và phải làm

Một là, cơ chế tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý còn nhiều bất cập, chưa lựa chọn được nhiều người có thực tài, trong sạch, đáp ứng tốt yêu cầu vị trí lãnh đạo, quản lý trong khi để lọt lưới không ít trường hợp tài hèn đức mọn, cơ hội. Tình trạng chạy chức, mua quan nhức nhối trong xã hội. Nó giống như phi vụ làm ăn nên phải thu hồi cả vốn và lãi. Với những chức vụ “béo bở” có “giá” cao thì việc bỏ vốn đầu tư có thể là một nhóm người. Do vậy, lợi ích không phải của cá nhân, mà là lợi ích nhóm, nên không thể tự quyết được.

Hai là, cơ chế sử dụng, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đủ chặt chẽ để sàng lọc những người chưa xứng; Chưa định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, tiêu chí đánh giá mù mờ nên người dân hoặc các tổ chức, cơ quan giám sát rất khó để đánh giá rõ ràng. Cũng bởi vậy, dù hoàn thành nhiệm vụ tốt xấu thế nào nhưng nếu không quá nghiêm trọng thì vẫn yên vị. Thậm chí có những lãnh đạo giữ trọng trách nhưng kết quả hoạt động yếu kém, để xảy ra nhiều sai phạm vẫn bám ghế và không sao cả.  

Ba là, quan niệm về sự thành đạt trong sự nghiệp vẫn nặng về chức tước đạt được. Làm quan được xem là sự thành đạt cao nhất mà chưa coi trọng đúng mức trình độ, năng lực chuyên môn trong hoạt động nghề nghiệp. Thậm chí không ít người còn có tư tưởng “hữu danh” là trên hết, bất chấp tất cả, sẵn sàng đánh mất liêm sỉ để đạt được chức vụ.

Bốn là, nhận thức xã hội đối với từ chức còn mang tính tiêu cực, hệ thống giá trị xã hội chưa tôn trọng việc từ chức.

‘Đơn thuốc’ từ chức  

Trong tình hình cụ thể ở nước ta hiện nay, để từ chức trở thành “lẽ thường” thì một mặt, cần thiết lập “bộ lọc” đủ mạnh để sàng lọc những cán bộ lãnh đạo, quản lý không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, thực hiện cơ chế cạnh tranh bình đẳng để tuyển chọn những người xuất sắc nhất làm lãnh đạo, quản lý.

Áp dụng cơ chế ký giao kết nhiệm vụ rõ ràng đối với người đứng đầu các cơ quan, tổ chức. Ví dụ, hàng năm, người đứng đầu các bộ, ngành và chủ tịch các UBND tỉnh, thành ký giao kết nhiệm vụ với Thủ tướng, thống nhất về những mục tiêu, kết quả cụ thể, thang đo và cách đo mục tiêu, kết quả cũng như kế hoạch cụ thể để hoàn thành với Quy trình như ở hình 1.

Hình 1. Quy trình ký giao kết nhiệm vụ   

Kế sách 'bình thường hóa' việc từ chức

Thành lập Hội đồng chuyên môn giúp người đứng đầu trong việc đánh giá, kiểm tra. Hội đồng gồm các đại biểu dân cử (Quốc hội hoặc HĐND) có chuyên môn, các chuyên gia, nhà khoa học có uy tín cao. Hội đồng này được thành lập khi đến kỳ đánh giá, kiểm tra, sau đó giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.

Kết quả đánh giá dùng làm căn cứ để ban thưởng, cất nhắc hay cho thôi chức vụ đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Người đứng đầu những cơ quan, tổ chức đạt kết quả xuất sắc, vượt mức chỉ tiêu thì được thưởng, cất nhắc lên chức vụ cao hơn và ngược lại, cho thôi chức vụ đối với người đứng đầu có kết quả kém, không đạt chỉ tiêu tối thiểu.

Việc đánh giá được thực hiện hàng năm vào dịp cuối năm và công khai kết quả trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân tiện theo dõi, giám sát. Biểu thị kết quả bằng đồ thị với màu sắc bắt mắt, trực quan sinh động để cán bộ, nhân dân có thể thấy rõ hiện trạng của mỗi cơ quan, tổ chức đang phát triển hay thụt lùi so với năm trước trên mỗi chỉ tiêu, tiêu chí…

Như vậy, những người không đủ sức, đủ tài gánh vác nhiệm vụ buộc phải tự đứng sang một bên, tự nguyện xin rút khỏi vị trí trong danh dự, nhường chỗ cho người tài giỏi. Những người tài hèn đức mọn cũng không dám chạy chức quyền vì lo sợ không thu hồi đủ vốn, thậm chí mất trắng.  

Cùng với đó, thực hiện cơ chế cạnh tranh bình đẳng để tuyển chọn những người tài giỏi, trong sạch làm lãnh đạo, quản lý. Cơ chế này không những tuyển chọn được những cá nhân xuất sắc mà còn tạo cho những người vượt qua được sự cạnh tranh khốc liệt cảm thấy tính chính danh, niềm kiêu hãnh.

Do vậy, họ càng yêu quý, trân trọng và có trách nhiệm hơn đối với chức trách của mình. Đồng thời ngăn chặn những kẻ giả tài luồn lách, leo cao, luồn sâu trong bộ máy công quyền gây tổn hại uy tín, năng lực của bộ máy công quyền. Cơ chế này cũng khắc phục được chủ nghĩa thân hữu và nạn tiêu cực chạy chức quyền.

Với các vị trí lãnh đạo trong Đảng, thực hiện cơ chế tranh cử công khai với Quy trình như hình 2.

Hình 2. Quy trình tranh cử đối với các vị trí lãnh đạo trong Đảng 

Kế sách 'bình thường hóa' việc từ chức

Đối với các vị trí quan trọng, các ứng viên có thể cần tranh cử trực tiếp trên truyền hình địa phương hoặc quốc gia tùy theo vị trí tranh cử. Trước hết, thử nghiệm việc tranh cử công khai đối với vị trí huyện ủy viên, tỉnh ủy viên, sau đó rút kinh nghiệm và nếu thành công, thực hiện tranh cử công khai đối với vị trí ủy viên TƯ Đảng.

Đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý hành chính nhà nước, thực hiện cơ chế thi tuyển cạnh tranh, công khai với Quy trình như hình 3.

Hình 3. Quy trình thi tuyển cạnh tranh đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý hành chính nhà nước 

Kế sách 'bình thường hóa' việc từ chức

Cơ chế tuyển chọn này cho phép bất cứ ai cũng có thể tham gia nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn và kết quả thi là tiêu chí duy nhất công nhận trúng tuyển. Thời gian và địa điểm thi được quyết định trên cơ sở tạo sự thuận tiện nhất cho ứng viên.

Thông tin về cuộc thi được công bố trong thời gian đủ dài để nhiều người biết đến và ứng viên có đủ thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng. Minh bạch hóa về số chức vụ, tiêu chuẩn trình độ, cách các ứng viên xuất sắc nhất được lựa chọn ra sao và vào lúc nào… Chỉ tổ chức thi tuyển khi đáp ứng tiêu chí cạnh tranh. Cần có quy định về các chức vụ xác định và tỷ lệ % tối thiểu số cán bộ được tuyển chọn từ cơ chế này.

Xúc tiến các hoạt động nhằm thay đổi nhận thức xã hội về từ chức theo hướng xem từ chức là một điều bình thường, cần định hướng để dư luận xã hội không nặng nề “nhìn vào bình phẩm” chắc cùng đường rồi mới phải từ chức mà cần ủng hộ sự tự nguyện từ chức. Chỉ những loại người từ chức để trốn trách nhiệm, trốn tội thì mới đáng lên án.

Với những cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng người từ chức, cần nhìn nhận theo hướng tích cực, nhìn nhận khách quan và có cách dùng người từ chức hợp tình, hợp lý. Một người có thể không làm tốt ở vị trí lãnh đạo, quản lý nhưng vẫn có thể làm tốt ở công việc khác.

Với bản thân người từ chức, cần nhận thức rõ ràng rằng trong cuộc đời, ngoài con đường quan chức còn có nhiều cách khác đóng góp hữu ích cho xã hội. Sự từ chức đúng lúc làm nên phẩm chất, uy tín, cốt cách của người biết buông bỏ quyền lực, trọng danh dự và dám chịu trách nhiệm.  

Trong tình hình nước ta hiện nay, cần thiết lập “bộ lọc” đủ chặt chẽ và “chế tài” đủ mạnh để sàng lọc những cán bộ lãnh đạo, quản lý không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong khi tuyển chọn được những người tài giỏi, trong sạch làm lãnh đạo, quản lý. Đây là những bước đi then chốt khởi đầu cho một cách làm mới để việc từ chức trở thành “lẽ thường”.

Phạm Mạnh Hùng 


THĂNG CHỨC VÀ TỪ CHỨC TRONG BỘ MÁY

 CÔNG QUYỀN

ĐINH DUY HÒA/TVN 10-1-2022

Đọc xong bài Kế sách "bình thường hóa" việc từ chức của TS. Phạm Mạnh Hùng, tôi thấy nhiều vấn đề đúng và hay, nhưng quả thật cũng còn rất phân vân.

Mặc dù rất đồng tình với tác giả phải có cách nào đó để sàng lọc các vị có chức sắc trong bộ máy nhà nước, nếu không đủ năng lực thì sẽ loại ra và làm cho từ chức trở thành “lẽ thường", không còn là “của hiếm", nhưng liệu các kế sách tác giả nêu có khả thi để bình thường hóa việc từ chức hay không?


Thăng chức và từ chức trong bộ máy công quyền
Bàn đến từ chức là chuyện không đơn giản

Lấy ngay một ví dụ là cuối năm đánh giá công chức thì liệu cả nước ta có thể căn cứ vào đó buộc thôi việc được mấy công chức? Hầu như không có mấy ai. Công chức thường còn không loại được thì liệu thông qua đánh giá bằng nhiều cách như tác giả đề xuất có thể loại được vị lãnh đạo nào, để rồi bảo thôi ông tự từ chức đi cho đẹp mặt cả tổ chức lẫn cá nhân ông nhé. Cho nên bàn đến từ chức là chuyện không đơn giản.

Thăng chức trong bộ máy

Đã bàn đến từ chức lại không nói gì đến thăng chức thì quả là bất ổn, bởi 2 cái này liên quan khá mật thiết với nhau.

Cho dù tính chất của hệ thống chính trị Việt Nam có những điểm khác biệt lớn so với nhiều nước khác, nhưng câu chuyện thăng chức và từ chức không khác gì nhiều lắm so với các nước.

Điều giống nhau về cơ bản là đảng cầm quyền lựa chọn người của đảng mình bố trí vào các chức vụ của Chính phủ. Đảng CSVN làm như vậy từ bao năm nay và các đảng chính trị ở các nước khác theo hệ thống nghị viện một khi thắng cử trong bầu cử nghị viện cũng làm như vậy. Vậy ai là những người được đảng của mình “thăng chức“ vào bộ máy hành pháp?

Đến đây, tôi lại nhớ đến TS. Wolfgang Franz khi ông sang Việt Nam làm việc với tư cách cố vấn dự án của CHLB Đức hỗ trợ Chính phủ Việt Nam về cải cách hành chính mà tôi kiêm Giám đốc dự án giai đoạn 1998-2001. Sau này, trở lại Đức, ông có tặng tôi một cuốn sách của ông với chủ đề chính là sự thăng chức trong bộ máy hành chính của Đức.

Ông kể cho tôi những khó khăn khi hết nhà xuất bản này tới nhà xuất bản kia từ chối xuất bản tác phẩm này. Các nhà xuất bản rất ngại bởi TS. Wolfgang Franz mô tả khá rõ quá trình thăng chức trong bộ máy chính phủ liên bang và chính phủ các bang. Sự mô tả này không phải là chung chung, mà là nêu những con người thật với tên tuổi rõ ràng, quá trình hoạt động trong đảng ra sao.

Điều dễ nhận ra qua cuốn sách là những ai hoạt động trong bộ máy đảng, trong các tổ chức thanh niên của đảng có cơ hội thăng chức nhanh hơn, cao hơn so với các công chức đang làm việc tại các bộ của Đức.

Kết luận rút ra ở đây là ai đi theo con đường công chức chuyên nghiệp thì chức vụ cao nhất có thể đạt đến là vụ trưởng, hãn hữu lắm mới được thứ trưởng, trong khi có những người khi đảng mình thắng cử, tuổi còn rất trẻ nhưng có quá trình hoạt động  trong bộ máy đảng lập tức được thăng chức thứ trưởng, thứ trưởng nghị viện một bộ. Đấy là không kể đến đã vào vị trí bộ trưởng thì phải là chính trị gia có những tố chất nhất định của đảng.

Ẩn ý của tác giả cuốn sách khá rõ, đó là có sự không bình đẳng trong thăng quan, tiến chức trong hệ thống hành chính của Đức. Rất nhiều vụ trưởng giỏi, có uy tín cao nhưng đến lúc về hưu vẫn chỉ là vụ trưởng trong phần lớn các bộ.

Nhưng làm sao mà tránh được điều đó. Đảng cầm quyền lựa chọn người của mình theo những tiêu chí nhất định và tiêu chí này người bình thường, công chức đang ở các bộ rất khó có thể thấu hiểu.

Điều này cũng tương tự như ở nước ta. Ai có thể thăng chức bộ trưởng? Trong số 22 bộ trưởng nhiệm kỳ Chính phủ hiện tại, có 11 vị từng là bí thư tỉnh. Cơ hội từ vụ trưởng lên thứ trưởng rồi lên bộ trưởng trong hệ thống chính trị Việt Nam cao hơn so với các nước. Tuy nhiên, kiểu gì thì số lượng các vị bí thư tỉnh được thăng chức bộ trưởng cũng gần như tương đương với số bộ trưởng đi từ cấp vụ lên thứ trưởng, rồi luân chuyển và cuối cùng quay về trở thành bộ trưởng.

Cũng chưa có số liệu chính thức về quá trình thăng quan, tiến chức, về những lĩnh vực công tác của những người được thăng chức ở nước ta để có thể so sánh với hệ thống các nước.

Từ chức tự nguyện do lòng tự trọng

Lâu nay nhiều người ở ta nói hoài phải xây dựng văn hóa từ chức, rồi lại bảo ở nước ngoài chuyện từ chức là hết sức bình thường.

Tôi rất hoài nghi về cái gọi là văn hóa từ chức. Liệu có thể xây dựng, tạo lập ra những giá trị, quan niệm chung được cả xã hội chấp nhận và sẵn sàng áp dụng về câu chuyện thăng quan, tiến chức và đặc biệt là về sự từ chức?

Xét về tâm lý, về tham vọng, một khi con người ta có được một chức vụ nào đó trong hành chính, kể cả trong doanh nghiệp thì họ đều cố gắng vươn lên có được chức vụ cao hơn và bất đắc dĩ lắm mới bằng lòng với chức vụ hiện có. Với tâm lý, quan niệm như vậy, giờ bảo người ta từ chức đi quả là khó.

Cho nên, tôi tạm chia ra có 2 loại từ chức.

Loại thứ nhất tạm gọi là từ chức tự nguyện. Có rất nhiều lý do để từ chức trong loại này, nhưng cái đặc trưng quan trọng nhất ở đây là sự tự nguyện. Có lẽ phần đông các trường hợp từ chức tự nguyện có lý do từ lòng tự trọng.

Triều nhà Trần, Chu Văn An sau khi dâng Thất trảm sớ lên vua Trần Dụ Tông đòi chém 7 viên quan, không được nhà vua chấp nhận đã cáo quan. Lòng tự trọng không cho phép ông tiếp tục cùng làm quan với những “vị quan“ đáng ra phải chém vì có quá nhiều tội lỗi với dân, với nước. Từ chức do lòng tự trọng còn hàm ý sâu xa sự phản đối của ông với triều đình.

Từ chức tự nguyện do lòng tự trọng cũng xảy ra khi ai đó cảm thấy mình không đủ năng lực hoặc không đủ sức khỏe để tiếp tục gánh vác trọng trách được giao.

Từ chức tự nguyện như trường hợp ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư TP Hội An, Quảng Nam năm 2015 dù còn 2 năm nữa mới đến tuổi nghỉ hưu lại có nguyên nhân sâu xa là nhường chỗ cho lớp trẻ với hy vọng họ sẽ làm tốt hơn ông, làm cho Hội An phát triển vững bền. Thử tìm xem có mấy ai trong hệ thống chính trị hiện tại làm được như Nguyễn Sự. Thực tiễn cho thấy từ chức tự nguyện xưa cũng như nay là của hiếm.


Đinh Duy Hòa 


TỪ CHỨC DO SỨC ÉP: BỘ TRƯỞNG ANH NGOẠI

 TÌNH, BỘ TRƯỞNG ĐỨC ĐẠO VĂN

ĐINH DUY HÒA/ TVN 11-1-2022


Đây chính là dạng từ chức khá phổ biến ở phần lớn các nước, mặc dù xét về bề ngoài thì có vẻ giống với từ chức tự nguyện, bởi người giữ chức vụ nào đó trong chính phủ tự tuyên bố từ chức. Chính điểm này làm khá nhiều người ở ta nhầm tưởng ở các nước có văn hóa từ chức và ta nên học theo.

Tìm mọi cách biện minh để giữ ghế

Trường hợp từ chức do sức ép mới đây nhất ở Anh là của Bộ trưởng Y tế Matt Hancock vào tháng 6/2021. Châm ngòi cho sự việc là câu chuyện báo chí đăng ảnh ông ôm hôn nữ cộng sự thân tín vốn học cùng Đại học Oxford và khi ông lên chức Bộ trưởng đã kéo về Bộ làm việc.

Từ chức do sức ép: Bộ trưởng Anh ngoại tình, Bộ trưởng Đức đạo văn
Bộ trưởng Y tế Anh Matt Hancock và nữ Bộ trưởng Giáo dục Đức Annette Schavan

Ban đầu, Bộ trưởng Y tế Anh coi đây là vi phạm quy định giữ khoảng cách trong đại dịch Covid-19 do chính Bộ ông ban hành. Quả đúng là bài đánh lạc hướng dư luận khôn ngoan và ông không hề có ý định từ chức. Nên nhớ rằng không chỉ ở Anh, mà ở nhiều nước khác, đã là chính khách mà có quan hệ ngoài luồng với phái nữ ở đâu đó bị phát hiện thì phần lớn đều phải từ chức.

Thủ tướng Boris Johnson ban đầu cũng bảo vệ Bộ trưởng Y tế, nhưng do sự phản đối mạnh từ đảng đối lập và cả những đảng viên trong đảng của mình nên cuối cùng buộc phải đi đến quyết định không thể tiếp tục chống lưng nữa. Việc gì phải đến đã đến. Bộ trưởng Y tế Anh tuyên bố từ chức.

Rõ ràng đây là từ chức do sức ép. Sức ép từ chính đảng của mình, từ đảng phái đối lập và nếu ai đó không từ chức thì uy tín, danh dự của đảng cầm quyền sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Có thể kể ra rất nhiều ví dụ khác: Việc từ chức của Thủ tướng Thụy Điển Loefven tháng 8/2021 do khủng hoảng chính trị dẫn đến chính phủ liên minh thiểu số của ông bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đáng ra Loefven còn dự định ra tranh cử vào năm nay, nhưng cuối cùng do sức ép, ông buộc phải từ chức.

Tiếp theo là việc từ chức của Bộ trưởng Môi trường Brazil Ricardo Salles vào tháng 6/2021. Điều lý thú ở đây là vị Bộ trưởng này bị cáo buộc buôn lậu gỗ, tham nhũng và chính trong thời gian ông tại chức, diện tích rừng của Brazil giảm sút nghiêm trọng do khai thác gỗ mạnh mẽ. Ngay từ tháng 7/2020, Tổng công tố viên đã yêu cầu vị bộ trưởng từ chức, nhưng ông ta không hề có ý định này. Chỉ đến khi dư luận và sức ép đủ mạnh mới buộc ông làm việc đó.

Chuyện từ chức bộ trưởng liên bang do đạo văn làm luận án tiến sỹ là khá điển hình ở Đức, đó là các trường hợp Bộ trưởng Quốc phòng Karl Theodor zu Gutenberg, nữ Bộ trưởng Giáo dục và Nghiên cứu Annette Schavan, nữ Bộ trưởng Gia đình Franziska Gifey. Các vị này buộc phải từ chức vì uy tín cá nhân sa sút nghiêm trọng, vì giữ uy tín cho đảng cầm quyền và cũng vì sức ép đến từ phe đối lập và dư luận xã hội.

Sơ bộ có thể nói từ chức tự nguyện có thể xảy ra, nhưng rất ít khi xuất hiện, còn từ chức do sức ép là phổ biến hơn nhiều. Đằng sau hình bóng một vị bộ trưởng, thứ trưởng nào đó tuyên bố từ chức chính là đảng cầm quyền. Nói ngắn gọn, cả ta lẫn tây đều là đảng cầm quyền “thăng chức“ cho anh và khi cần thiết cũng sẽ cho anh “từ chức“.

Từ chức do sức ép có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có một điểm chung là nếu người giữ chức vụ không từ chức sẽ ảnh hưởng tai hại tới uy tín của đảng cầm quyền, nghiêm trọng hơn trong kỳ bầu cử sắp tới có thể làm giảm số phiếu bầu cho đảng của mình.

Các vị giữ các chức vụ này về cơ bản không hề muốn từ chức, tìm mọi cách để biện minh, giải thích cho hành động của mình để giữ ghế. Và khi đó, ban lãnh đạo đảng của chính các nhân vật này phải ra tay, tạo sức ép, hãy từ chức đi vì lợi ích của đảng.

Thực tiễn chính trị nước ta cho thấy từ chức do sức ép còn rất hiếm. Tuy nhiên, từ chức do sức ép từ kinh nghiệm các nước cho thấy vẫn là một giải pháp hay, loại trừ được những vị lãnh đạo không xứng, qua đó tạo lập và củng cố uy tín, vai trò của đảng cầm quyền.

Đinh Duy Hòa


NGƯỜI TỐT KHÔNG CÒN NÊN CHẲNG CẦN,

 CHỈ CẦN CHỌN HƯỚNG ĐÚNG!


TRẦN VĂN CHÁNH/ viet-studies 7-1-2022


Đề cập việc trị nước an dân xây dựng xã hội tốt lành mà nói không cần người tốt hay nhà lãnh đạo có đạo đức thì quả là một nghịch lý, một lối nói thậm chí có thể gọi ngụy biện, rất dễ bị mọi người nhao nhao lên đả kích không thương tiếc.

Bởi một chân lý chung cổ kim đều thừa nhận: người lãnh đạo chính trị-xã hội phải có cả tài năng lẫn đức độ, mà bây giờ quen nói theo giọng thời thượng, phải vừa có tâm vừa có tầm.

Nhưng khổ nỗi, một sự thật rất phũ phàng không thể phủ nhận cần phải trung thực nói lên, dù rất đau lòng, đó là nhân dân Việt Nam trong nhiều chục năm nay đã phải sống trong tình trạng xã hội hủ nát mà đại đa số quan lại tức giới lãnh đạo đều trở nên gian tà ở những mức độ khác nhau do cái thể chế độc tài toàn trị phi dân chủ gây nên.

Nói cách khác, tình trạng rất đáng bi quan như hiện nay trong một xã hội xuống cấp toàn diện không phải do từng cá thể xấu riêng lẻ cộng lại, mà do nó được sinh ra một cách tất yếu từ thể chế độc tài toàn trị hiện hữu. Trong hệ thống chính trị này, những người được cất nhắc lên chức vụ cao lãnh đạo đại đa số đều không có tâm lẫn không có tầm, bởi nếu có tâm mà sống trung thực lành mạnh dám ăn ngay xổ thẳng không a dua cấp trên thì dù muốn lên tới chức cỡ chủ tịch phường xã quèn cũng đã thiên nan vạn nan, do phương thức bổ nhiệm con người không căn cứ vào đức độ tài năng mà theo “quy hoạch-cơ cấu”, chủ yếu dựa trên lý lịch (con ông cháu cha…) và bè đảng. Nên có thể nói, hầu hết quan to hiện nay đều là những kẻ ít nhiều tệ hại, và mức độ tệ hại này của quan chức thường tỉ lệ thuận với các chức quyền mà họ được nắm giữ, có nghĩa càng cao càng tệ. Bên cạnh hạng người này là số ít người cũng có chức quyền kha khá và tương đối trong sạch, đôi khi có cả tâm cả tầm lẫn lý tưởng phục vụ, nhưng lực bất tòng tâm, họ đành phải sống cầu an, ngậm miệng ăn tiền, vô tình đồng lõa với cái xấu.

Cách nay chừng một tháng, lần đầu tiên có một quan chức cấp ủy viên trung ương dám lên tiếng phê bình thẳng tính cách bất công vô lý của phương thức bổ nhiệm nhân sự theo quy hoạch-cơ cấu từ Đoàn TNCS hoặc từ cái gọi là “cấp ủy”, trong một cuộc hội thảo về vấn đề liên quan do ông này chủ trì. Đó là một nhân vật cách nay khoảng bốn tháng được đột ngột điều chuyển công tác từ TP. HCM ra Hà Nội làm việc, hiện vẫn đang còn được rảnh rang ngồi uống trà chờ thời mỗi ngày ở Ban Kinh tế Trung ương.

Tình trạng tham nhũng tiêu cực và thoái hóa biến chất của giới quan lại chức quyền vì thế và vì nhiều nguyên nhân khác nữa thì không bút mực nào tả xiết mà nói mãi nghe cũng nhàm chán như “chuyện thường ngày ở huyện”, nhưng một số biểu hiểu hiện cụ thể đập vào mắt gây bức xúc dư luận thì người dân thường nào cũng biết: số cán bộ cấp bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, tướng tá quân đội cấp từ ủy viên trung ương trở lên “vào lò” ngày càng nhiều, mà mới đây nhất, gây kinh ngạc và sự phẫn nộ trong dân ngoài sức tưởng tượng là vụ  test kit trong đại dịch Covid-19 với chủ trương “phong tỏa”, “thần tốc xét nghiệm diện rộng” có sự thông đồng câu kết rất đúng quy trình và hợp pháp từ cấp chỉ đạo chống dịch cao nhất cho đến một số bộ, ngành chức năng, mà cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an đã hứa với dân là sẽ vào cuộc làm rõ, không có vùng cấm. Nhưng trọng vụ động trời này, thay vì “tội quy ư trưởng” (tội quy cho người đứng đầu) vì “tội này tội cả triều đình”, thì lại thấy các ông trưởng chỉ ra uy lệnh cho cơ quan chức năng phải điều tra vạch tội trừng trị các cấp dưới…

Ngoài ra, vẫn còn không ít quan chức đã phạm tội làm bậy mà chưa bị lộ. Dân chúng bên ngoài tuy được phong cho chức làm chủ nhưng ít ai biết gì về những hành vi mờ ám của họ. Chính nhờ có tình trạng đấu đá nội bộ tranh giành quyền lực vạch mặt lẫn nhau mà qua hệ thống truyền thông nhà nước và qua Internet chúng ta thấy được phần nào nội tình thối nát, từ đó nhận ra cái chế độ độc tài toàn trị đã và đang áp đặt lên đất nước chúng ta là không đáng tồn tại kéo dài.  

Người dân mới đầu nghe nói “đốt lò” thì mừng, nhưng lần lần nhận ra đằng sau những lò lửa cháy rực dường như lấp ló những chuyện phức tạp gì khác, liên quan đến vấn đề đấu đá phe phái để tranh giành quyền lực và quyền lợi giữa một số phe nhóm chính trị nào đó. Nạn chạy chức chạy quyền và sử dụng bằng dỏm bằng giả trong giới lãnh đạo cấp cao là rất phổ biến, mà vụ án Đại học Đông Đô ở Hà Nội là một minh chứng thật hùng hồn cụ thể. Tư pháp không độc lập, các vụ án lớn về kinh tế cũng như về chính trị hầu hết đều thuộc loại “bỏ túi” rất trắng trợn. Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án đều không đáng tin cậy. Vai trò của luật sư kể như con số không to tướng… Văn hóa, giáo dục, y tế… xuống cấp. Ngành nào bộ nào sở nào cũng có nạn tham nhũng…

Vậy nên dân chúng vẫn còn rất nghi ngờ về khả năng chống tham nhũng tiêu cực của những biện pháp đã và đang được áp dụng, mặc dù trông bề ngoài có vẻ quyết liệt, vì gốc của tham nhũng tiêu cực chính là do từ thể chế độc tài toàn trị mà ra, trong đó các nhánh quyền lực chẳng những không được kiểm soát mà còn kết nối thành một hệ thống chặt chẽ, thực chất chỉ là để “chia quyền tham nhũng” một cách hợp pháp, dưới hình thức sân sau của các quan chức cấp cao hoặc tối cao.

Trong điều kiện rất tồi tệ này, các cơ quan thanh tra kiểm tra của chính quyền, vốn chỉ có quyền theo quy định trên văn bản nhưng chẳng có thực quyền độc lập, chúng không chỉ bất lực mà còn trở thành những ổ tham nhũng bất khả xâm phạm, có quyền bóc lột lại những kẻ đã tham nhũng của nhân dân. Tiền bạc thu hồi từ những vụ án tham nhũng hầu như không đáng kể, mà số thu hồi được ít ỏi (chừng 20% theo báo cáo) do ai quản lý dùng vào việc gì thì ít ai thật sự biết rõ.

Quốc hội, và hội đồng nhân dân các cấp nói là có trách nhiệm giám sát nhưng thực tế chỉ ăn theo nhà cầm quyền, được cấu tạo bằng những cuộc bầu cử phi dân chủ một cách cực kỳ lố bịch.  Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khác thì cũng chẳng thể đặt hi vọng gì cao hơn. Báo chí thay vì là “đệ tứ quyền” góp phần kiểm soát phát hiện hiệu quả các hành vi tiêu cực, trái lại đã luôn biến thành cái loa của Ban tuyên giáo Trung ương, như trong vụ kid test Việt Á, khi nói vầy lúc nói khác, tráo trở khôn lường. Tựu trung, tất cả cùng là một giuộc như nhau, trong cái hệ thống chính trị độc tài toàn trị.

Dân gian nói “Nhà dột từ nóc”, “Thượng bất chính hạ tắc loạn”… Lại  còn nói  “Dòi từ trong xương dòi ra”…, nếu chỉ bôi thuốc ngoài mặt vết lở loét thì chẳng ăn thua, một lũ dòi phục sẵn trong ổ mủ sẽ tiếp tục bò ra lổn nhổn ngày một thêm đông đảo…

Nhưng “nước vô đạo” từ lúc nào và từ đâu mà ra?

Xin thưa: Từ rất lâu rồi và từ thể chế chính trị độc tài toàn trị mà ra.

Chẳng phải từ năm 1969, cách nay hơn nửa thế kỷ, nhà thơ Việt Phương (1928- 2017) đã từng bức xúc:   


Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ


 Thụy Sĩ


Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào


Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn 


trăng nước Mĩ


Sự thơ ngây đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao


Một phần tư thế kỉ qua đi và có lẽ bây giờ ta biết


Thế nào là yêu thương thế nào là chém giết


Ta đã thấy những chỗ lõm chỗ lồi trên mặt trăng sao


Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao


…Gió từ cửa vịnh thổi vào cửa vila



Có còn nhìn thấy gì đâu khi từ đó nhìn ra…

      

(Cửa mở, 1970)

 

Bốn câu trích dẫn chót chứng tỏ “nhà đã dột từ nóc” là chuyện không mới. Mấy câu đầu còn cho thấy bệnh giáo điều và óc nô lệ rất ngu xuẩn của nhà cầm quyền thời đó. Và cũng từ đó dẫn dắt cho đến tận hôm nay. Nhà thơ tài ba Thái Bá Tân đã không chút kiêng kỵ viết thẳng:

Chúng, chính quyền, thật xấu.


Vừa ác vừa bất minh,


Đến mức không muốn nghĩ


Đó là chính quyền mình.

 

Theo cách “quy hoạch cơ cấu” như trên đã nói thì tất cả thường dân Việt Nam không có lý lịch đỏ đều trở thành công dân hạng hai, xã hội dân sự coi như đứng chầu rìa, bao nhiêu lớp trẻ tài năng tâm huyết đều phải bị thui chột, để phải đứng ngồi không yên nhìn đám quan tham thối nát như một bầy sâu tha hồ thao túng, “ăn không chừa một thứ gì”, như họ đã thao túng rất dữ trong vụ kid test Việt Á vừa xảy ra đang còn nóng hổi.       

Bị loại ra khỏi vòng đua bất công bằng, một bộ phận lớp trẻ cũng xuôi ra chạy theo đám đông người lớn hư hỏng, chăm chăm kiếm tiền mà chẳng cần biết gì đến tương lai chung của toàn xã hội. Văn hóa đạo đức xuống cấp, con người trong bộ máy công quyền thường sống hai mặt, giả dối chà đạp lẫn nhau trong sự nghi kỵ. Một tầng lớp trí thức nô dịch được nhà cầm quyền trọng dụng đã vô tình hay hữu ý trở thành những kẻ đồng lõa cho cái xấu.

Ai muốn giữ lòng trong sạch, phải can đảm dám cáo quan trước tuổi về hưu, chấp nhận sống cuộc đời có thể thiếu thốn bấp bênh không chỗ dựa.

Tình trạng tệ hại không phải do một sớm mà nên. Kinh Dịch là một sách triết lý tổng hợp của Trung Hoa đã từng nói: “Bầy tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không phải một sớm một chiều, mà nguồn gốc của nó là dần dần phát sinh ra, do không sớm nhận rõ thấy chân tướng vậy” (Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ, do biện chi bất tảo biện dã).

Thực tế lịch sử cho thấy, chế độ toàn trị tại nước ta được coi như khởi đầu xây dựng từ năm 1954 của thế kỷ trước, dẫn đến cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất sát hại oan uổng hàng chục ngàn nông dân và vụ Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt tự do dân chủ trong văn nghệ và các phần tử trí thức tinh hoa. Sau năm 1975, chính trị tiếp tục đi theo con đường toàn trị, lĩnh vực kinh tế tuy có phần cải tiến theo hướng thị trường, đạt được một số thành tích đáng kể, nhưng bộ máy nhà nước thì ngày càng rệu rã bất lực mất kiểm soát, trong khi bất công xã hội thì ngày một gia tăng, tình trạng tham ô tham nhũng thoái hóa biến chất, đặc biệt trong giới lãnh đạo cấp cao, cũng ngày càng trầm trọng đến vô phương cứ chữa! 

Tại sao vậy?

Thật ra, con người Việt Nam nói chung và cán bộ công chức Việt Nam nói riêng từ trong bản chất chẳng phải tự nhiên xấu xa hơn người của các dân tộc khác, mà sự tha hóa xấu xa với đỉnh cao nguy hại nhất là quốc nạn tham nhũng chủ yếu đều do thể chế chính trị toàn trị mất dân chủ nhào nặn nên.

Trong một luận văn viết riêng về thói hư tật xấu của người Việt (“Tổng thuật thói hư tật xấu của người Việt”, đã đăng tạp chí và in thành sách), tôi đã dành một phần riêng để kể ra những thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” bao gồm hết thảy những cán bộ công nhân viên chức tham gia làm việc trong bộ máy nhà nước. Theo đó, căn bệnh nặng nhất của người Việt công quyền là bệnh xơ cứng giáo điều cả về mặt tư tưởng lẫn hành động, khiến hầu hết họ đều không dám công khai nói thẳng sự thật hay mở mũi đột phá khi cần thiết cho công việc vì luôn sợ bị chụp mũ về quan điểm lập trường, dẫn tới tình trạng ai cũng nhếch nhác rụt rè, giữ gìn ý tứ, từ đó triệt tiêu tất cả mọi sự thông minh và tính độc lập sáng tạo của cá nhân.

Phương thức quyết định tập thể dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể. Nguyên tắc “quốc doanh chủ đạo” dẫn đến việc biến tài sản của chung thành “của chùa” mạnh ai nấy xà xẻo. Bộ máy hành chính công quyền để quản lý xã hội hoạt động kém hiệu quả, trong điều kiện việc thực thi luật pháp thiếu minh bạch, đã gây nên quốc nạn tham nhũng gồm cả tham nhũng lớn lẫn tham nhũng vặt. Tham nhũng lớn liên quan số tiền hoặc tài sản trị giá hàng trăm/ hàng ngàn tỉ đồng, thường do các nhóm quan chức đặc quyền tương đối lớn câu kết với nhau; tham nhũng vặt phổ biến tại mọi tỉnh thành trên cả nước làm cho cả dân tộc hèn đi, được thực hiện dưới hình thức “lót tay”, “phong bì”, “bồi dưỡng”…   

     Ngoài những thói xấu/ khuyết tật/ chứng bệnh nặng nêu trên, ở “người Việt công quyền”, còn có nhiều thứ khác, rất phổ biến, có thể kể ra hàng loạt: Thói giữ bí mật (không công khai nói ra cho dân biết, che giấu những sự thật không tốt); Chủ nghĩa lý lịch-thành phần; Bổ nhiệm nhân sự theo quan hệ người thân (họ hàng, bạn bè, “một người làm quan cả họ được nhờ”…); Bệnh sùng bái cá nhân; Óc gia trưởng; Bệnh tham quyền cố vị; Không có văn hóa từ chức; Sợ tới tuổi về hưu; Tha hóa quyền lực (dân tốt khi có chức quyền trở thành quan xấu…); Bệnh kết bè kéo cánh (óc bè phái/ phe đảng); Thói nịnh trên nạt dưới; Phê bình tố cáo kẻ vạch nhau chuyện tủn mủn để tranh giành quyền lực/ quyền lợi (moi móc đời tư để hạ bệ nhau…); Óc cục bộ địa phương; Tư túi/ thu vén cá nhân; Sống giả dối hai mặt (ở cơ quan nói khác, về nhà nói khác…); Sử dụng bằng dỏm bằng giả; Bám sống theo cái nôi cơ quan nhà nước; Bệnh quan liêu hình thức; Thói quan liêu cửa quyền; Trấn áp dân chủ (không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, bài trừ “ý kiến khác”…); Đì kẻ có tài hoặc có quan điểm khác với mình về; Can thiệp vào hoạt động tư pháp (chỉ đạo xét xử, gởi gắm…); Sử dụng nhiều thủ đoạn đôi khi cả với dân; Bao che, câu kết kiểu phủ huyện bênh nhau; Nghi kỵ, rình rập, vạch lỗi của nhau trong quan hệ công tác; Hô khẩu hiệu suông; Hội họp triền miên; Báo cáo láo; Bệnh thành tích; Xử lý nội bộ (không xử phạt dựa trên luật pháp); Ngụy biện (ưa dùng những cụm từ như “căn bản tốt”, “hoàn thành căn bản”, “nơi này nơi khác vẫn còn không ít khuyết điểm”, “một số không nhỏ”…); Máu xôi thịt; Hám tổ chức những ngày lễ kỷ niệm và ăn theo cuộc lễ; Hám danh hão; Hám bằng khen, huân chương và các loại danh hiệu (thường xuyên tổ chức những cuộc thi đua khen thưởng); Sử dụng công quỹ bừa bãi sai mục đích; Thi hành công vụ/ giải quyết công việc trên bàn nhậu; Nhậu nhẹt trong giờ làm việc; Đãi đằng cấp trên (để mua chuộc tình cảm, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ…); Quà cáp cho cấp trên (đặc biệt trong những ngày lễ tết)… (xem Vương Trí Nhàn - Trần Văn Chánh, Người xưa cảnh tỉnh, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr. 267-270).      

Cứ xem vào đoạn phân tích mô tả như vừa kể trên, sẽ thấy con người hoạt động trong tổ chức cầm quyền độc tài toàn trị mà muốn được thăng tiến chức vụ, tài sản tất yếu sẽ phải bị tha hóa ít nhiều về mặt đạo đức, và mức độ tha hóa này là tỉ lệ thuận với chức quyền mà họ được cất nhắc bổ nhiệm trong hệ thống chính trị hiện hữu.

Suy ra trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao và tối cao hầu như không thể còn người tốt, hoặc chỉ còn một số ít người tương đối trong sạch trong bộ máy cầm quyền nhưng cũng đều trở thành lực lượng lượng đồng lõa, thường giữ các chức vụ trung gian từ cấp tỉnh thành trở xuống. Đây là lý do khiến cho cái đầu đề bài viết này được nêu ra như một sự khẳng định: người tốt không còn nên chẳng cần, chỉ cần chọn hướng đúng!.

Điều này có nghĩa, trước mắt chúng ta chỉ cần những nhà lãnh đạo có tài năng bản lĩnh và tư tưởng đúng đắn tiến bộ dám phát động công cuộc cải cách thể chế chính trị hợp thời vụ và hợp với nền văn minh chung của nhân loại theo đường hướng dân chủ hóa đời sống xã hội một cách thực chất nhằm đưa cả dân tộc Việt Nam đi về phía ánh sáng. Điều này cũng có nghĩa chúng ta tạm thời chấp nhận sự lãnh đạo của một số người tên X tên Y nào đó tay đã lỡ dính chàm, trên cơ sở chấp nhận một sự thật phũ phàng là không thể còn tìm ra được ai khác vừa trong sạch vừa tài năng và đủ bản lĩnh để thực hiện cải cách chính trị, trên cái nền thể chế từ lâu đã suy thoái lạc hậu mà chính họ cũng là sản phẩm. Trong chiều hướng suy nghĩ này, tôi cho rằng ý tưởng chỉ chấp nhận người đạo đức trong sạch không tham nhũng và không có tham vọng chính trị được vào “trung ương” chỉ là một loại ảo tưởng hoàn toàn xa rời thực tế nếu không muốn nói điên rồ.

Và chúng ta cũng không được quên một chân lý cực kỳ đơn giản, mà lịch sử loài người đã chứng minh rất rõ rệt, đó là một người đạo đức trong sạch trong thời tranh tối tranh sáng sẽ không bao giờ làm chính trị thành công, dù theo bá đạo hay vương đạo, nếu không muốn nói anh ta sẽ bị đồng đội gồm toàn những kẻ tham lam lật đổ rất nhanh trong một sớm một chiều!

Nghĩ được một cách đau đớn như vậy rồi, kẻ ưu tư thời cuộc sẽ không còn thắc mắc hoặc hi vọng chờ có được một bậc minh vương trong thời buổi “nước vô đạo” này.

Nhưng một khi thể chế chính trị đã được cải cách đi vào thực chất chiều sâu, nền dân chủ pháp trị được xây dựng phát triển vững chắc trên cơ sở thực thi đúng và đủ hiến pháp, với các quyền tự do dân chủ (như tự do bầu cử ứng cử, tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình…) đã quy định, thì một khoảng dư địa rộng rãi sẽ được tạo ra cho xã hội dân sự dần dần thâm nhập một cách tự nhiên, chính là điều kiện căn bản để phát triển chính đáng con người và giải phóng mọi công dân gồm cả cán bộ nhà nước ra khỏi sự tha hóa do sự kiềm kẹp khắc nghiệt của thế chế độc tài toàn trị, mà người CS đã tạo ra nó với tư cách tội đồ nhưng cũng vừa là nạn nhân của chính nó: họ mất hết mọi quyền tự do sáng tạo và cũng không thể trở thành người trung thực được sống theo ý mình.

Trên phương diện đối ngoại, chọn hướng đúng cũng có nghĩa là chọn hợp tác nhiều hơn với các quốc gia dân chủ tiến bộ mà Việt Nam cũng đã và đang có chủ trương ngày càng rõ nét. Còn đối với một vài nước bạn đã lỡ cùng mình đi theo chế độ độc tài vì những lý do ngoắt ngoéo của lịch sử, thì vẫn phải tiếp tục hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học… để cùng nhau phát triển, nhưng nên đi trước một bước để dần dần tách ra khỏi những ảnh hưởng không tốt về mặt chính trị, thay vì tiếp tục câu kết nhau với tư cách đồng chế độ chính trị, để cùng áp bức nhân dân trong mỗi nước.

Riêng đối với nước láng giềng lớn Trung Quốc, dân tộc Việt Nam luôn tin tưởng có thừa khả năng và kinh nghiệm để đối phó thành công trong mọi tình huống, cũng bằng đường lối hòa bình hữu nghị hợp tác, trên cơ sở bình đẳng các bên cùng có lợi. Tuyệt đối tránh xung đột bằng bạo lực để sinh linh của cả hai bên không bị tàn sát.

Đối với Hoa Kỳ, nhiều người cho rằng người Mỹ “thực dụng” mà tỏ ra quá e dè ngán ngại. Nhưng thực chất lịch sử đã có những diễn biến mới và thời đại đã khác, vấn đề cốt lõi hiện nay là biết khai thác những khía cạnh tương quan quyền lợi giữa các bên để mang lại lợi ích cho nhân dân trong nước, đồng thời cũng là chiến lược để tạo nên thế trận cân bằng trong trường ngoại giao quốc tế vốn đang còn tồn tại những mối xung đột giữa đôi ba cường quốc.

Chơi thân với những nước giỏi hơn bao giờ cũng có lợi, đây cũng là tấm gương của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc mà Việt Nam nên lấy làm bài học tham khảo.

Chúng ta không từ bỏ CNXH nhưng phải là một thứ CNXH cải cách, biết tôn trọng nhân quyền và dân chủ, có thể noi gương mô hình CNXH cải lương (socialisme réformiste) hoặc CNXH lý tưởng (socialisme idéal) kiểu một số nước ở Bắc Âu, nơi có thu nhập đầu người rất cao và hầu như không có tham nhũng, không có nhà tù.

Nên phóng thích ngay tất cả các tù nhân chính trị, những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ nhằm tạo ra một bầu không khí tươi mới, kích thích tinh thần hòa giải hòa hợp đoàn kết dân tộc.    

Giải quyết rốt ráo một số vấn đề khó khăn của đất nước, trong đó có quốc nạn tham nhũng, chủ yếu bằng con đường cải cách chính trị chứ không phải chỉ bằng giải pháp trừng phạt theo kiểu “đốt lò”, vì đốt lò tuy bất đắc dĩ phải làm nhưng rất dễ làm phát sinh một số hiệu ứng phụ gây mất đoàn kết nội bộ.      

Ai trong số các nhà lãnh đạo cấp cao dù tay đã lỡ dính chàm nhưng mong muốn làm ra được sự nghiệp cải cách chính trị bằng giải pháp hòa bình và chọn theo đường hướng tiến bộ hòa nhập với thế giới văn minh, người đó chắc chắn sẽ được đa số nhân dân ủng hộ, đích thực trở thành vĩ nhân của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới hôm nay.   

                                                                                           TVC

                                                                                           Tác giả gởi cho viet-studies ngày 7-1-22


GEN...QUY HOẠCH

XUÂN DƯƠNG/GDVN 11-1-2022

Nhiều phát biểu gần đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dành cho công tác cán bộ, trong đó nổi bật là những chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng…

Mỗi nhiệm kỳ, hội nghị lần thứ tư thường tập trung bàn về công tác xây dựng Đảng với trọng tâm là công tác cán bộ cùng với các hoạt động kinh tế, xã hội.

Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 10 họp từ ngày 15/10/2007 đến ngày 24/10/2007 đã thảo luận một số vấn đề về sắp xếp, kiện toàn bộ máy, tổ chức các ban đảng và các cơ quan nhà nước, văn kiện hội nghị nhấn mạnh:

“Đây là một vấn đề có tính khoa học về tổ chức, nhằm tạo ra cơ chế vận hành thông suốt trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề hết sức hệ trọng, nhạy cảm, cần được nghiên cứu, thảo luận để đi đến các quyết định đúng đắn”. [1]

Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 11 (tháng 12/2011), tập trung thảo luận, cho ý kiến đối với một số đề án, báo cáo về công tác xây dựng đảng, phát triển kinh tế - xã hội.

Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Từ ngày 04/10/2021 đến ngày 07/10/2021, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 13 đã họp tại Hà Nội, bên cạnh các nội dung về kinh tế, xã hội, phòng chống dịch Covid-19, Hội nghị khẳng định “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sửa đổi, bổ sung quy định về những điều đảng viên không được làm; và một số vấn đề quan trọng khác”.

Ảnh minh hoạ: Tuyengiao.vn

Gần 4 nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương (từ khoá 10 đến khóa 13) kéo dài khoảng 20 năm, trong thời gian đó nhiều nghị quyết, văn kiện về công tác cán bộ đã được Trung ương công bố, đặc biệt là quyết tâm của các vị lãnh đạo cấp cao nhất thể hiện qua phát biểu và chỉ đạo thực tế.

Công tác cán bộ dịp Đại hội Đảng lần thứ 13 được coi là chặt chẽ, bài bản nhất từ trước đến nay, tuy vậy chỉ sau gần một năm đã có không ít người được quy hoạch, được lựa chọn giao trọng trách lại trở thành tội phạm bị khởi tố như Phan Mạnh Cường - Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy thành phố Thái Nguyên; bị khai trừ khỏi đảng như Lê Hùng Sơn - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy huyện Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, Đàm Quang Vinh - Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai;

Hai tháng cuối năm 2021, cơ quan chức năng đã tiến hành xem xét, kỷ luật hàng loạt Giám đốc sở như Đinh Quý Nhân, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình, Nguyễn Thanh Tú - Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai, Hoàng Văn Nhu - nguyên Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Hà Giang, Trần Hồng Thắm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Cần Thơ, bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo do các sai phạm trong thời gian giữ chức Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Cần Thơ,…

Vụ thổi giá kit xét nghiệm Covid-19 của Công ty Cổ phần công nghệ Việt Á vào cuối năm 2021 đã dính đến hàng loạt cán bộ các tỉnh, thành phố và cơ quan cấp bộ. Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cho biết:

Theo lời khai ban đầu của Phan Quốc Việt: Việt đã “bắt tay” với các đối tác nâng khống giá kit xét nghiệm lên khoảng 45%, số tiền Việt Á thu về trong vụ này là trên 500 tỷ đồng; số tiền “hoa hồng” cho các “đối tác” là gần 800 tỷ đồng. [2]

Một bài đăng ngày 25/11/2021 trên báo Quân đội Nhân dân điện tử (Qdnd.vn) viết:

“Điều đáng lưu ý là có rất nhiều cán bộ cấp cao, cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đã bị kỷ luật Đảng, bị pháp luật xử lý. Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao còn thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng”. [3]

Nhận định trên Qdnd.vn cho thấy sự quyết tâm không ngừng nghỉ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ gần 20 năm qua vẫn chưa mang lại kết quả mong đợi.

Những người làm khoa học tự nhiên sau nhiều thử nghiệm không thành công thường sẽ bỏ cách cũ, tìm cách mới. Trong thời đại kỹ thuật số, sẽ không có nhiều thời gian cho sự chờ đợi bởi thời gian là tiền bạc, là phát triển hay phá sản, là dẫn đầu hay theo đuôi.

Liệu đã nên xem xét lại tính “truyền thống” của công tác cán bộ, tính khoa học của “Quy trình” xây dựng đội ngũ cán bộ được áp dụng nhiều năm qua?

Nếu quy trình là khoa học, là đúng đắn thì chắc chắn phải dẫn tới thành công.

Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn dò cán bộ:

“Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. [4]

Có thể thấy các vị lãnh tụ, lãnh đạo cao nhất ngay từ khi thành lập Đảng đã luôn đặt công tác cán bộ lên hàng đầu, tuy nhiên bên cạnh ý kiến trên Qdnd.vn, một bài đăng trên Tạp chí Cộng sản tháng 10/2020 đã phải viết:

“Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng vẫn chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển”. [5]

Suy nghĩ của người viết có đôi chút khác biệt, những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để có đột phá lớn về đổi mới công tác cán bộ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong bài đăng trên Báo Nhân Dân số 2147, ra ngày 03/02/1960 dưới bút danh Trần Lực, đó là nguyên tắc “Nhân dân giao quyền cho cơ quan nhà nước thông qua bầu cử”, cụ thể: [6]

“Chế độ tuyển cử của chúng ta thực hiện dân chủ đồng thời thực hiện sự đoàn kết toàn dân, mọi công dân từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử. Việc tuyển cử tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.

Hiểu một cách chính xác lời Hồ Chủ tịch “Nhân dân giao quyền cho cơ quan nhà nước thông qua bầu cử” nghĩa là bầu cử nhân sự toàn bộ “cơ quan nhà nước” chứ không chỉ các cơ quan dân cử (Quốc hội hoặc Hội đồng Nhân dân).

“Cơ quan nhà nước” theo cách hiểu chung nhất bao gồm ba loại:

1. Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất; Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương;

2. Cơ quan hành chính Nhà nước: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân;

3. Cơ quan tư pháp: Tòa án, Viện kiểm sát.

Như vậy, việc lựa chọn cán bộ cho “cơ quan nhà nước” thực hiện đúng theo giáo huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải theo hướng “bầu cử bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.

Trong trường hợp đặc thù có thể thay thế bầu cử bằng cách thi tuyển công khai, minh bạch các chức danh lãnh đạo, làm được như vậy tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp…” không thể xuất hiện.

Vậy “quy trình” đang áp dụng bao gồm “quy hoạch, bồi dưỡng, luân chuyển” cán bộ có phải là biện pháp duy nhất đúng để bảo đảm tuyển chọn được cán bộ đủ tâm và đủ tầm?

Dễ nhận thấy hiện tượng một cán bộ muốn được bổ nhiệm vào chức vụ nào đó thì phải được quy hoạch vào vị trí đó, quá trình này không liên quan đến thi tuyển hoặc bầu cử và cũng không diễn ra chỉ trong một vài ngày.

“Quy hoạch” cán bộ là quá trình diễn ra hàng năm trời trước bầu cử, bầu cử là sự hợp lý hóa quy hoạch đã dự kiến.

Chính giai đoạn “quy hoạch” này khiến không ít người đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên để đẹp lòng từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Không ít người được quy hoạch mong các “ông tiềm năng” bị đẩy đi chỗ khác, đi đâu, đi thế nào không cần biết, miễn là… đi.

Quy hoạch diễn ra không phải chỉ trong một vài tháng mà có thể trong một hoặc vài năm, vì vậy chỉ những người có tham vọng mới đủ kiên nhẫn trụ vững, và lẽ nào trong quá trình đó những thứ bị “thiếu” lại không cần chạy cho đủ?

Chạy xong đương nhiên phải thu hồi vốn, đây là kinh tế thị trường mà.

Khi mới nhận chức, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, cựu tướng Công an Nguyễn Đức Chung phát biểu: “Chúng ta phải trả giá vì đã làm quy hoạch băm nát Hà Nội”.

Ông Chung muốn nói lỗi do vị Chủ tịch - Kiến trúc sư tiền nhiệm hay do chính … Quy hoạch?

Tài liệu tham khảo:

[1] https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=779

[2] http://bocongan.gov.vn/tin-tuc-su-kien/tin-an-ninh-trat-tu/bo-cong-an-thong-tin-ve-ket-qua-dieu-tra-lien-quan-den-cong-ty-co-phan-cong-nghe-viet-a-d22-t30828.html

[3] https://www.qdnd.vn/phong-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/chong-tham-nhung-tieu-cuc-xay-dung-con-nguoi-678509

[4]https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/817028/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-can-bo-va-cong-tac-can-bo.aspx

[5] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/817028/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-can-bo-va-cong-tac-can-bo.aspx

[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 375 “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họ thứ 11 Quốc hội khoá 1 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. (Trần Lực – Báo Nhân Dân số 2147, ngày 03/02/1960)

Xuân Dương















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét