Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

20181230. NHẬN ĐỊNH KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018

ĐIỂM BÁO MẠNG
10 DẤU ẤN KINH TẾ NỔI BẬT NĂM 2018

PV CP/ cafef 29-12-2018
10 dấu ấn kinh tế nổi bật 2018

Năm 2018 là năm thành công toàn diện của kinh tế Việt Nam, khi cả 12/12 chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra. Nhiều kỷ lục mới được thiết lập, không chỉ ghi nhận những thành tựu quan trọng của kinh tế Việt Nam, mà còn góp phần khẳng định những cố gắng, nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành chủ động, quyết liệt, đồng bộ, sáng tạo của Chính phủ. Báo điện tử Chính phủ phối hợp với Báo Đầu tư lựa chọn những dấu ấn nổi bật của kinh tế Việt Nam 2018.

1. Tăng trưởng GDP đạt mức kỷ lục, ước đạt 7,08%, cao hơn mục tiêu 6,7% đề ra và cũng cao hơn mọi dự báo
Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua, kể từ năm 2008, sau khi Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 10 năm, tăng trưởng GDP của Việt Nam mới lại chạm ngưỡng 7%, cho thấy nền kinh tế đã từng bước hồi phục vững chắc hơn.
Có được mức tăng trưởng ngoạn mục này là nhờ ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nỗ lực chỉ đạo, điều hành các bộ, ngành, địa phương thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp của Nghị quyết số 01, sát sao trong xây dựng và thực hiện các kịch bản tăng trưởng cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm, không để tình trạng “cha chung không ai khóc”, hoặc điều hành chung chung, không cụ thể…
Điều đáng ghi nhận là, dù tăng trưởng GDP ở mức cao, song nền kinh tế vẫn bảo đảm ổn định vĩ mô, chỉ số giá tiêu dùng ở mức 3,54% - đảm bảo mục tiêu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng dưới 4%, nợ công giảm so với năm 2017...
2. Kim ngạch xuất nhập khẩu thiết lập kỷ lục mới, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả năm ước đạt trên 482,23 tỷ USD. Đặc biệt, lần đầu tiên, Việt Nam đạt mức xuất siêu 7,2 tỷ USD.
Đây là con số mà trước nay Việt Nam chưa bao giờ đạt được. Như vậy, Việt Nam đã có 3 năm liên tục xuất siêu với con số năm sau luôn cao hơn năm trước, là kết quả ấn tượng so với mục tiêu cân bằng cán cân thương mại đặt ra cho năm 2020. Xuất siêu lớn không chỉ góp phần quan trọng gia tăng dự trữ ngoại hối của Việt Nam, mà còn góp phần ổn định tỷ giá hối đoái.
Có được kim ngạch xuất nhập khẩu kỷ lục này là nhờ thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, qua đó tạo cơ hội để thúc đẩy dòng chảy thương mại. Việc ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến, chế tạo toàn cầu của mình ở Việt Nam cũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng xuất siêu cho Việt Nam.
Nhưng không chỉ là các mặt hàng chế biến, chế tạo (ngành tăng trưởng lớn nhất với mức 12,3%, đóng góp 9,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung của chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp), năm 2018 cũng ghi nhận kỷ lục mới của xuất khẩu nông sản với giá trị được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ước tính đạt trên 40 tỷ USD, góp phần đưa Việt Nam trở thành cường quốc về xuất khẩu nông sản trên thế giới. Việt Nam hiện đứng thứ 15 toàn cầu về xuất khẩu nông sản.

3. Dự trữ ngoại hối đạt mức kỷ lục, ước đạt 60 tỷ USD, tăng 3,3 lần so với cách đây 3 năm, khi Chính phủ bắt đầu nhiệm kỳ mới
Có rất nhiều nguyên nhân khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2018 tăng mạnh, như vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng, làn sóng cổ phần hóa diễn ra mạnh mẽ, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, kiều hối tăng mạnh…
Nguồn dự trữ ngoại tệ kỷ lục đã giúp Ngân hàng Nhà nước chủ động hơn trong can thiệp thị trường tỉ giá. Nhờ vậy, dù năm 2018, thị trường tài chính thế giới biến động rất mạnh, đặc biệt là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất 4 lần, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc diễn ra..., khiến nhiều nước trong khu vực phải điều chỉnh mạnh giá đồng nội tệ, song tỉ giá đồng Việt Nam chỉ tăng hơn 2%. Tỉ giá, thị trường vàng, ngoại tệ, giá trị đồng Việt Nam ổn định, tạo niềm tin cho nhà đầu tư, tiền đề cho kinh tế nước ta tiếp tục phát triển.
Một trong những nguyên nhân khiến dự trữ ngoại hối tăng vọt là kiều hối về nước cũng đạt kỷ lục. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), kiều hối của Việt Nam năm 2018 đạt 15,9 tỷ USD. Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm những nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới, trung bình mỗi năm, kiều hối về Việt Nam tăng 10% (năm 2017, kiều hối của cả nước đạt 13,8 tỷ USD).

4. Môi trường kinh doanh, đầu tư được cải thiện mạnh mẽ, thúc đẩy các kế hoạch đầu tư lớn của khu vực kinh tế tư nhân
Sau năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ đã ghi các dấu ấn đặc biệt trong cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, đưa niềm tin kinh doanh của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài lên cao. Năm 2018 ghi nhận kỷ lục về cắt giảm điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành sau gần 20 năm thực hiện. Đây cũng là năm đầu tiên, Chính phủ có nghị quyết riêng về cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Số doanh nghiệp thành lập mới năm 2018 xác lập kỷ lục mới, với 131.275 doanh nghiệp.
Đáng chú ý, năm 2018 là năm của các dự án quy mô lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô, xe máy điện VinFast, với tổng vốn đầu tư 3,5 tỷ USD, quy mô 335 ha, đã đi vào hoạt động sau hơn 1 năm xây dựng. Sân bay Quốc tế Vân Đồn do Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư đã chính thức đón chuyến bay thương mại đầu tiên…

5. Tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài
, Chính phủ khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn của khu vực này đối với kinh tế-xã hội Việt Nam, như thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm, bổ sung vốn cho phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế…
Đồng thời, Chính phủ cũng đề ra chiến lược mới trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới, với mục tiêu tối ưu hóa lợi ích của dòng vốn này, tập trung thu hút vốn đầu tư của các tập đoàn lớn, sử dụng công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0, gia tăng liên kết với doanh nghiệp trong nước để tạo sức lan tỏa đối với nền kinh tế.
Bên cạnh đó, năm 2018 cũng tiếp tục ghi nhận những thành công nổi bật của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư cấp mới, tăng thêm và cả vốn đầu tư qua góp vốn, mua cổ phần là trên 35,46 tỷ USD. Đặc biệt, vốn đầu tư nước ngoài giải ngân đã đạt mức kỷ lục, với 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm trước đó. Cuối năm, Dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn, vốn đầu tư trên 9 tỷ USD, đã chính thức vận hành thương mại. Sự kiện này đã một lần nữa khẳng định, Việt Nam chính là một điểm đến đầu tư hấp dẫn.
6. Việt Nam đăng cai Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018 (WEF ASEAN)
Đây là dấu ấn quan trọng nhất trong công tác đối ngoại của Việt Nam năm 2018. Hình ảnh Việt Nam năng động, cởi mở, hiếu khách và tràn đầy cơ hội đầu tư - kinh doanh đã được lan tỏa rộng rãi.
Với chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng công nghiệp 4.0”, chủ nhà Việt Nam đã có nhiều sáng kiến thiết thực, như xây dựng quy tắc của ASEAN về hợp tác chia sẻ dữ liệu, hòa mạng di động một giá cước của ASEAN; kết nối mạng lưới giáo dục và xây dựng hệ thống học tập suốt đời cho các nước ASEAN, xây dựng chuẩn kỹ năng chung trong ASEAN về công nghệ thông tin…
Năm 2018 cũng là năm ghi nhận nhiều dấu ấn chính sách liên quan đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam. Chiến lược Quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được hoàn tất. Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam đã được ra mắt với sự tham gia của 100 trí thức người Việt trên toàn cầu. Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia đang được xây dựng với thể chế vượt trội...
Đặc biệt, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam đang bước sang giai đoạn phát triển mới với sự tham gia của các doanh nghiệp lớn trong vai trò nhà đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển...

7. Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã chính thức phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Với việc đã có 7 thành viên thông qua, trong đó có Việt Nam, CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018, với nội dung gần như giữ nguyên so với TPP dù 22 điều khoản được hoãn thực thi chủ yếu liên quan tới sở hữu trí tuệ nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa 11 nước thành viên.
Việc Việt Nam sớm phê chuẩn CPTPP đã thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á-Thái Bình Dương, thực sự nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Tham gia CPTPP mở ra cơ hội lớn để Việt Nam kết nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới, thúc đẩy thương mại và đầu tư. Theo tính toán, CPTPP có thể giúp GDP và xuất khẩu của Việt Nam tăng tương ứng 1,32% và 4,04% đến năm 2035. Tổng kim ngạch nhập khẩu có thể tăng thêm 3,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu, nên tác động tổng thể đến cán cân thương mại là thuận lợi. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt cũng sẽ phải đối mặt sức ép cạnh tranh rất cao trong “cuộc chơi” CPTPP này.

8. Kinh tế nông thôn phát triển với nhiều kết quả tích cực

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, năm 2018, cả nước đã đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới và phát triển sản phẩm nông nghiệp đặc thù (Mỗi xã một sản phẩm - OCOP), hướng đến mục tiêu hoàn thành toàn bộ các tiêu chí nông thôn mới vào năm 2020.
Nhờ có Nghị quyết mà xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào rộng khắp, được người dân ủng hộ. Đến nay, cả nước đã có 42% số xã đạt tiêu chí là xã nông thôn mới. Cũng nhờ triển khai thực hiện Nghị quyết, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh và tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm mạnh, bình quân 1,5%/năm. Riêng miền núi, vùng đồng bào dân tộc những năm gần đây giảm 4%/năm. Diện mạo khu vực nông thôn có nhiều thay đổi, đời sống người nông dân được cải thiện mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam và cả nước ngoài cũng đã đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Những chuyển biến tích cực này đã mang lại thành tựu lớn cho ngành nông nghiệp, đặc biệt là con số kỷ lục 40 tỷ USD xuất khẩu nông sản trong năm 2018. Nông nghiệp cũng đã thực sự trở thành bệ đỡ, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế.

9. Kỷ lục đón 15 triệu lượt khách quốc tế
Đây là lần đầu tiên, du lịch Việt Nam đạt được con số này, đánh dấu bước tăng trưởng vượt bậc của ngành du lịch. Sau 3 năm, tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp đôi (tăng 3 triệu lượt so với năm 2017 và 5 triệu lượt so với năm 2016), duy trì mức tăng xấp xỉ 22% so với năm 2017.
Năm 2018, du lịch Việt Nam được Tổ chức Du lịch thế giới đánh giá xếp thứ 6/10 quốc gia tăng trưởng khách du lịch cao nhất. Việt Nam cũng được ghi nhận là điểm đến du lịch hàng đầu khu vực châu Á trong lễ trao giải của World Travel Awards và là điểm đến chơi golf hàng đầu châu Á trong lễ trao giải của Golf World Travel Awards.
Cùng với dấu mốc đón 15,5 triệu lượt khách, năm 2018, ngành du lịch cũng phục vụ khoảng 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 620.000 tỷ đồng (26 tỷ USD). Điều này góp phần khẳng định Việt Nam đang và sẽ là một điểm đến hấp dẫn, an toàn và thân thiện trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là tiền đề để du lịch Việt Nam phấn đấu mục tiêu định hướng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
10. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt động, trở thành đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty lớn với số vốn 1 triệu tỷ đồng, tài sản trị giá 2,3 triệu tỷ đồng.
Sau 20 năm đổi mới doanh nghiệp nhà nước, sự ra đời Ủy ban là bước đi quan trọng trong thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong Lễ ra mắt Ủy ban, Thủ tướng Chính phủ tin tưởng, với việc Ủy ban chính thức đi vào hoạt động, sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước được kỳ vọng sẽ cao hơn, hoạt động doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hơn, công khai, minh bạch hơn, đóng góp vào sự phát triển đất nước. Hoạt động hiệu quả của Ủy ban cũng là chìa khóa cho việc khơi thông, tìm kiếm các động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
Theo PV
Chinhphu.

NHỮNG KỶ LỤC KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2018 QUA NHỮNG CON SỐ

N.DƯƠNG/ trithuctre/ cafef 28-12-2018

GDP đạt 7,08%, cao nhất trong 10 năm trở lại đây


Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 1.
Tốc độ tăng của chỉ số IIP thấp hơn năm 2017
Ngành chế biến chế tạo tiếp tục vai trò chủ chốt, tăng trưởng thấp hơn năm 2017 nhưng cao hơn các năm 2012 – 2016


Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 3.
Ngành khai khoáng tiếp tục tăng trưởng âm, đạt -2%
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 4.
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động gây chú ý khi tăng gần 50% so với năm 2017
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 5.
Đơn vị: %
Đa số doanh nghiệp ngành công nghiệp lạc quan về sản xuất kinh doanh trong quý I/2019 
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 6.
Tổng số vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm giảm 13,9% so với năm 2017
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 7.
Đơn vị: triệu USD
Đầu tư nước ngoài tại 38 quốc gia, vùng lãnh thổ
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 8.
Ngân sách thặng dư lần đầu tiên trong 13 năm
Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 9.
Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt kỷ lục


Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 10.
Đơn vị: tỷ USD
5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD
Đơn vị: tỷ USD
4 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD


Những kỷ lục của kinh tế Việt Nam năm 2018 qua các con số  - Ảnh 12.
N.Dương
Theo Trí thức trẻ

VIỆT NAM: NHÌN NHẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ 2018 VÀ DỰ BÁO 2019

TS PHẠM QUÝ THỌ/ BBC/ BVN 1-1-2019
 

Biển hiệu chào mừng ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam được dựng lên hàng năm. HOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
Chuyển động kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay được phản ánh bởi hai hướng có vẻ trái ngược về tính chất: kinh tế theo hướng thị trường hơn và chính trị theo hướng tập trung quyền lực cao hơn.
Hai xu hướng này khởi đầu từ việc ứng phó với suy giảm kinh tế trong các năm 2009 - 2015, mạnh lên từ 2016 và hỗ trợ nhau để tạo nên tăng trưởng kinh tế cao năm 2018, sẽ giao động không lớn năm 2019. Việc phân tích khái quát về hai hướng này được minh chứng bằng những sự kiện và số liệu gần nhất, cải cách thể chế thực chất cần được nhấn mạnh là dư địa tiềm tàng cho tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
Về kinh tế
Tăng trưởng GDP không chỉ là thước đo về thành tích kinh tế mà còn là sự biểu thị tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam và nỗ lực điều hành của Chính phủ, nên nó đặc biệt quan trọng thu hút sự quan tâm.
Tổng cục thống kê vừa công bố tỷ lệ tăng GDP của cả nước là 7,08% với tỷ trọng vượt trội của nhóm ngành sản xuất, chế biến. Một số số liệu liên quan như chỉ số giá, tín dụng, tăng thu ngân sách… cũng được đưa ra để phản ánh sự thay đổi tích cực của chỉ tiêu này. Truyền thông nhà nước bình luận đây là một trong 10 sự kiện kinh tế đáng chú ý của năm sau một thập kỷ tính từ 2008.
Ngay sau đó, trong phiên họp cuối năm ngày 28/12/2018 của Chính phủ có sự tham dự của Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các lãnh đạo chủ chốt các ban ngành và địa phương, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: "… niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng … chưa bao giờ lớn và sâu sắc như lúc này". Sự phấn khởi này là có thể hiểu được.
Kết quả tăng GDP cao năm 2018 là sự tiếp nối của xu hướng khắc phục sự suy giảm trong giai đoạn trước và ứng phó với tình hình mới. Sự điều hành tích cực của Chính phủ bởi chính sách kinh tế thích ứng đã tạo nên động lực thúc đẩy. Chính sách này được vận hành từ đầu năm 2016 với sự cam kết mạnh mẽ của 'Chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ người dân và doanh nghiệp'.
Các hoạt động của Chính phủ theo hai hướng chính, một là khuyến khích tự do kinh kinh doanh, từ khởi nghiệp doanh nghiệp đến thúc đẩy đầu tư tại các địa phương trong nước và nước ngoài, và hai là giảm thiểu, loại bỏ các rào cản từ bộ máy hành chính quan liêu trong điều kiện thể chế còn nhiều bất cập.
Chính sách nêu trên với nội hàm kinh tế trọng cung và mang tính thực dụng có ba đặc điểm chủ yếu. Thứ nhất, nó không những tạo được sự khác biệt với người tiền nhiệm với cách tiếp cận thực tế hơn mà còn hướng tới khắc phục những hậu quả nặng nề về kinh tế và thể chế do khủng hoảng từ thập kỷ trước. Thứ hai, nó phần nào 'tránh' được sự ảnh hưởng của tư tưởng ý thức hệ giáo điều về chủ nghĩa xã hội, quan niệm về bóc lột lao động, phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân… còn nặng nề trong hệ thống chính trị hiện hành. Thứ ba, nó khơi thông các nguồn nội lực, đặc biệt từ kinh tế tư nhân, các hộ cá thể và phát huy những lợi thế từ nông nghiệp, du lịch… hướng tới tăng trưởng.
Thời kỳ 30 năm đổi mới, trong đó có thập kỷ 'bất ổn' vừa qua ở Việt Nam và sự vận hành của chính sách kinh tế hiện nay cho thấy kinh tế thị trường là sản phẩm quá trình phát triển tất yếu của nhân loại với những tính quy luật và các nguyên tắc nội sinh. Chúng không ngừng được khám phá và áp dụng vào thực tiễn bởi con người để tạo sự thịnh vượng cho mình. Việc chuyển đổi kinh tế sang thị trường đòi hỏi sự nhận thức đúng và tuân thủ các quy luật và nguyên tắc của nó. Quan niệm thị trường chỉ là 'cứu cánh' tạm thời cho chế độ là nguyên nhân chủ yếu của những chính sách sai lầm, duy ý chí và quản lý yếu kém trong một số giai đoạn. Bởi vậy, chính sách kinh tế thích ứng đang thúc đẩy xu hướng thị trường mạnh lên. Xu hướng này cần được hỗ trợ bởi cải cách thể chế mới có thể đảm bảo tăng trưởng bền vững.

Tổng thống Vladimir Putin đón TBT Nguyễn Phú Trọng ở Sochi hôm 06/09/2018. MIKHAIL KLIMENTYEV
Về chính trị
Chuyển động chính trị chủ đạo là sự tập trung quyền lực của Đảng Cộng sản. Đây là sách lược được ưu tiên thực hiện để củng cố chế độ và ổn định xã hội. Giải pháp chính trị này được đánh giá là thực tế ở Việt Nam khi không có sự lựa chọn khác để tránh khủng hoảng. Sự ảnh hưởng của yếu tố Trung Quốc, quốc gia có hệ thống chính trị tương tự với Việt Nam cũng được tính đến. Ngoài ra, một số quốc gia chuyển đổi sang chế độ theo kiểu phương Tây kiểu 'cách mạng cam' cũng là những bài học kinh nghiệm.
Chống tham nhũng 'không vùng cấm' và các nhóm lợi ích, cải tổ Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cải cách hành chính… là các động thái mạnh và được nhìn nhận ở cả hai phương diện. Một là, tham nhũng đang là nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ, chống tham nhũng để lấy lại niềm tin. Hai là, trong Đảng đã và đang hiện diện các phe nhóm chia rẽ sự thống nhất mang tính nguyên tắc, chống tham nhũng là cách loại bỏ chống đối nhằm tập trung quyền lực.
Trong chiến dịch chống tham nhũng này đã có 40 vụ án và 500 bị cáo trong tổng số gần 60 vụ việc tham nhũng đã được đưa ra xét xử. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ khoá 12 đến nay đã xét xử sơ thẩm 21 vụ với 263 bị can, trong đó 3 bị cáo bị kết án tử hình, 9 bị cáo án chung thân. Hơn nữa, 60 cán bộ thuộc diện TƯ quản lý, trong đó có 5 uỷ viên trung ương đương nhiệm cũng đã bị thi hành kỷ luật. Việc cách chức Uỷ viên trung ương đối với ông Tất Thành Cang tại Hội nghị TƯ 9 ngày 26/12/2108 dự báo các đại án sẽ vẫn tiếp tục trong năm tới.
Sự kiện Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được Quốc hội khoá 14 bầu làm Chủ tịch nước sau khi ông Trần Đại Quang qua đời được giới truyền thông bình chọn là tiêu biểu năm 2018. Sự kiện này được bình luận sẽ thúc đẩy nhất thể hoá, vốn đang có chủ trương thí điểm ở cấp địa phương.
Một số hoạt động lập pháp của Quốc hội như ban hành Luật An ninh Mạng, đồng thuận tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), và đặc biệt việc hoãn thông qua Dự luật về ba đặc khu không những chỉ thể hiện ý chí của Đảng và nhà nước, mà phần nào phản ánh ý kiến của người dân. Trước đó, các đợt biểu tình của đông đảo nhân dân phản đối dự luật này.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp. AFP
Một số điểm đáng chú ý được rút ra từ xu hướng chuyển động chính trị là:
Một, những bất cập của thể chế kể cả về các quy tắc, luật lệ, tổ chức, nhân sự đang được bộc lộ, phản ánh sự không phù hợp, trì trệ của thể chế hiện hành với sự chuyển đổi kinh tế sang thị trường;
Hai, các giải pháp mạnh về chống tham nhũng tạo phản ứng tích cực về niềm tin từ nhân dân và doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ chính sách kinh tế thích ứng để tăng trưởng;
Ba, việc củng cố tổ chức, nhân sự của Đảng theo hướng tăng quyền lực cho Bộ Chính trị, Ban bí thư thể hiện sự thận trọng, cân nhắc về đề cao, sùng bái cá nhân khi chưa có cơ chế giám sát quyền lực hữu hiệu khác;
Bốn, một số nội dung trong lĩnh vực tư tưởng như 'tự chuyển hoá', 'tự diễn biến', 'tự nêu gương'… mang tính đức trị, khó áp dụng trong thực tế. Việc kỷ luật khai trừ GS Chu Hảo gây hiệu ứng trái chiều, đặc biệt trong giới trí thức.

Ông Chu Hảo cầm cuốn sách "Dân chủ và Giáo dục' của tác giả John Dewey do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành. HOANG DINH NAM/GETTY IMAGES

Chính phủ Việt Nam đã loan báo năm 2018 có tăng trưởng GDP đạt mức kỷ lục, ước đạt 7,08%, cao hơn mục tiêu 6,7% đề ra. HOANG DINH NAM
Dự báo 2019
Nhận định về bối cảnh trong nước và quốc tế năm 2019 là phức tạp, thay đổi nhanh và khó lường, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lưu ý các lãnh đạo 'không ngủ quên trên vòng nguyệt quế' và tìm kiếm cách thức tăng trưởng nhanh và bền vững dựa vào ba trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường. Ông 'đặt bài' Tổ tư vấn kinh tế "làm sao tránh được bẫy thu nhập trung bình, bẫy lao động giá rẻ, bẫy gia công, bẫy 'thiên đường ô nhiễm'", thậm chí đề nghị nghiên cứu về mối quan hệ giữa 3 trụ cột gồm "nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, và xã hội dân chủ".
Tuy nhiên, dựa vào những phân tích tình hình năm 2018 những dự luận về chuyển động kinh tế chính trị năm 2019 có một số điểm chú ý sau:
Một là, tăng GDP năm 2019 vẫn là khả quan, gần đạt 7% chủ yếu nhờ quán tính của chính sách kinh tế thích ứng của Chính phủ và 'sự nhượng bộ' của Đảng trong lĩnh vực kinh tế để hỗ trợ tăng trưởng.
Hai là, chính sách kinh tế trọng cung sẽ gặp khó khi lượng cầu trên thế giới và trong nước sẽ suy giảm do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung lan rộng. Các nhận định về tác động đối với Việt Nam và sự chuẩn bị đối phó là chưa có phương án rõ ràng, cụ thể.
Ba là, cải cách thể chế, mặc dù được cho là quan trọng, thậm chí coi là dư địa của tăng trưởng, song không thể có đột phá theo hướng thúc đẩy mạnh thị trường, mà tuỳ thuộc vào những cân nhắc thận trọng của Đảng về tăng trưởng kinh tế và tăng cường tập trung quyền lực.

Bốn là, sẽ không thể tập trung quyền lực vào tay cá nhân và được thể chế hoá theo kiểu Tập Cận Bình ở Trung Quốc, nhưng xu hướng tập trung quyền lực của Đảng mạnh lên. Nhất thể hoá sẽ vẫn là sự cân nhắc thận trọng.

Việt Nam đang cải tổ ngành công an. GETTY IMAGES
Tóm lại, mức tăng trưởng cao trong năm 2018 tạo nên sự phấn khích chính trị, xã hội, nhưng để có tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài, như 'điều thần kỳ' từng diễn ra trước đây đối với một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore…, kể cả Trung Quốc đối với Việt Nam là hy vọng. Các cải cách trong giai đoạn tới, kể cả năm 2019 sẽ rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
P.Q.T.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Thọ từ Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Việt Nam.
Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/forum-46716174

"GDP 2018 VIỆT NAM TĂNG KỶ LỤC TRONG MỘT THẬP NIÊN: SỐ LIỆU RẤT ĐÁNG NGHI NGỜ"

HÒA ÁI/ RFA/ BVN 1-1-2019

ố liệu thống kê GDP Việt Nam trong một thập niên 2008-2018.
Số liệu thống kê GDP Việt Nam trong một thập niên 2008-2018. Courtesy: Ảnh chụp màn hình vov.vn
Tổng cục Thống kê, vào chiều ngày 27 tháng 12 công bố Tổng sản phẩm trong nước-GDP năm 2018 của Việt Nam đạt 7,08%, vượt qua dự báo của Ngân hàng Thế giới-World Bank ở mức 6,8% và lập kỷ lục cao nhất kể từ năm 2008.
Đài RFA có cuộc trao đổi với Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng xoay quanh thông tin vừa nêu để tìm hiểu về tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong năm 2018.
Trước hết, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định về con số GDP tăng trưởng ngoạn mục ở mức 7,08%:
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Điều đầu tiên có thể khẳng định là con số đó không trung thực. Tại vì rất nhiều người đánh giá là tình hình kinh tế Việt Nam cho đến giờ chưa có gì sáng sủa, và một số chuyên gia phản biện độc lập còn đánh giá kể từ năm 2008, tức là thời điểm kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào suy thoái cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào thời điểm đó, cho đến nay đã 10 năm thì kinh tế Việt Nam vẫn hoàn toàn suy thoái. Do đó, một nền kinh suy thoái thì không thể có GDP tăng trưởng vượt bậc như vậy.
Vào năm 2017, vào khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng Chính phủ và các bộ, ngành hào hứng tuyên bố là GDP đã vượt lên đến 6,7% nguyên năm và 7% cho Quý IV của năm 2017. Trong khi đó, một chuyên gia phản biện ở Việt Nam là Tiến sĩ kinh tế Bùi Trinh, bằng một số tính toán vẫn dựa trên những con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì ông tính ra GDP thực của Việt Nam chỉ vào khoảng 3%. Và, theo tôi thì những con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì khó mà tin cậy được. Cho nên nếu dựa trên những dữ liệu thực hơn nữa thì GDP thực của Việt Nam có khi còn giảm dưới 3%.
RFA: Thưa tiến sĩ Phạm Chí Dũng, ông nhận định số liệu GDP 2018 của Việt Nam tăng 7,08% do Tổng cục Thống kê công bố là không trung thực. Vậy những phản biện của ông là gì?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang phải chịu rủi ro của bộ ba bao gồm nợ công, nợ xấu và tình hình ngân sách.
Nợ công thực hiện nay đã lên đến 210% GDP, tức là lên tới ít nhất 431 tỷ đô la Mỹ (USD). Nhưng vào năm 2018 thì có lẽ lên phải tới 450 tỷ USD, tức là gấp đôi GDP; nghĩa là bao gồm cả nợ của các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước mà Luật Nợ công Việt Nam không chịu tính vào. Tuy nhiên, nếu chiếu theo tiêu chuẩn, theo tiêu chí của Liên Hiệp Quốc (LHQ) thì phải tính vào luôn thì nợ công của Việt Nam sẽ lên rất cao, ít nhất ở mức 210% GDP.
 
Chuyên gia phản biện ở Việt Nam là Tiến sĩ kinh tế Bùi Trinh, bằng một số tính toán vẫn dựa trên những con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì ông tính ra GDP thực của Việt Nam chỉ vào khỏang 3%. Và, theo tôi thì những con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì khó mà tin cậy được. Cho nên nếu dựa trên những dữ liệu thực hơn nữa thì GDP thực của Việt Nam có khi còn giảm dưới 3%
TS. Phạm Chí Dũng
Trong khi đó, nợ xấu thì hình như vẫn chưa giải quyết được một khoản đáng kể nào cả. Và nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có thể lên đến hàng triệu ngàn tỷ đồng, rất cao.
GDP được cấu thành chủ yếu từ giá trị sản lượng của ba thành phần kinh tế lớn của Việt Nam, gồm thành phần kinh tế doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân. Nhưng trong năm 2017 và năm 2018 thì thu thuế từ ba thành phần kinh tế này đều giảm khá mạnh và không đạt được dự toán. Cụ thể, thu từ khối doanh nghiệp nhà nước là giảm 2,9%; thu từ khối doanh nghiệp tư nhân giảm 2,2%; và thu từ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm đến 15,1%. Khi nhìn vào tỷ lệ thu thuế bị sụt giảm từ ba thành phần kinh tế tạo ra sản lượng thì lấy đâu ra cho việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng đến 7%, là tăng trưởng cao nhất trong 10 năm?
Phản biện thứ hai là một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp phải giải thể và tạm ngừng hoạt động cao. Vào tháng 10 năm 2018, Tổng cục Thống kê Việt Nam đưa ra số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và phải giải thể nhiều bất thường, lên đến 24.500 doanh nghiệp, tức là tăng 76% so với cùng kỳ năm 2017. Có nghĩa là tỷ lệ doanh nghiệp ‘bị chết’ cao hơn hẳn tỷ lệ doanh nghiệp được thành lập mới. Như vậy thì làm sao có thể nói nền kinh tế tăng trưởng mạnh?
RFA: Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia dự báo tăng trưởng GDP năm 2019 của Việt Nam sẽ ở mức 7% và Ngân hàng Thế giới-World Bank dự báo ở mức 6,8%, tương đương như năm 2018 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chững lại. Quan điểm của ông thế nào?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Dự báo cho kinh tế năm 2019 của Việt Nam vừa rồi được phát ra bởi một số bộ, ngành và kể cả từ tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ trong cuộc họp vào cuối tháng 12 năm 2018. Trong đó đưa ra ba kịch bản kinh tế và đều có chỉ số tăng trưởng GDP cao, từ 6,5-7%. Thế thì tôi rất ngạc nhiên, không hiểu tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng lấy cơ sở dữ liệu ở đâu mà có thể đánh giá được việc tăng trưởng như vậy? Hay thuần túy đây là một động cơ chính trị và phục vụ cho những mục đích chính trị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc để đánh bóng, tô hồng và hô hào?
Nền kinh tế đã suy thoái như những yếu tố mà tôi nêu ra và nhiều chuyên gia khác góp ý thì không thể có tăng trưởng kinh tế mạnh đến mức như vậy?
Một vấn đề khác là tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cũng đánh giá xuôi chiều theo đánh giá của một số cơ quan nhà nước, như Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Bộ Tài chính hay Ngân hàng Nhà nước về chỉ số lạm phát ở Việt Nam, chỉ ở mức 4%. Tôi không hiểu nỗi họ tính như thế nào trong khi lạm phát thực tế ở Việt Nam mỗi năm, trong những năm vừa qua đã lên đến vài ba chục phần trăm, chứ không phải được kiềm chế dưới 4% hay 5%.
Chúng ta chỉ cần đưa ra một so sánh vào thời điểm năm 2008 thì tổng dư nợ tín dụng cho vay chỉ là 2,3 triệu tỷ đồng, nhưng đến năm 2017 thì tổng dư nợ tín dụng cho vay đã lên đến 7 triệu tỷ đồng, tức là gấp hơn 3 lần. Có nghĩa là trong khoảng thời gian một thập niên qua thì Bộ Chính trị, Đảng và Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài Chính rất có thể đã phải cho in tiền và in tiền rất ghê gớm từ 400-500 ngàn tỷ đồng/năm. Và chính việc in tiền như vậy tạo ra lạm phát tăng vọt.
Thực tế bây giờ bất kỳ người dân nào phải đi mua sắm thì đều thấy các mặt hàng tăng giá rất nhanh, chưa kể là được kích thích, kích hoạt bởi những yếu tố tăng giá điện, tăng giá xăng dầu, tăng giá y tế, tăng giá khám chữa bệnh… và tất cả đè lên đầu lên cổ người dân Việt Nam.

ổng cục Thống kê Việt Nam họp báo công bố GDP 2018 vào ngày 27/12/18.
Tổng cục Thống kê Việt Nam họp báo công bố GDP 2018 vào ngày 27/12/18. Courtesy: gso.gov.vn
RFA: Trong cuộc phỏng vấn với Đài tiếng nói Việt Nam vào hạ tuần tháng 12, ông Trương Văn Phước, Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia nhắc đến một trong những yếu tố quan trọng hỗ trợ tăng trưởng GDP năm 2019 là chính sách thúc đẩy kinh tế tư nhân và chủ trương của Chính phủ là kinh tế tư nhân trở thành động lực phát triển kinh tế? Ông có nghĩ rằng thời điểm năm 2019, khu vực doanh nghiệp tư nhân sẽ được đặc biệt chú trọng và trở thành nội lực của nền kinh tế?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Tại Nghị quyết 5 vào tháng 5 năm 2017, ông Nguyễn Phú Trọng vẫn công nhận kinh tế nhà nước là chủ đạo, chứ không phải kinh tế tư nhân và vẫn duy trì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải kinh tế thị trường. Cho nên mâu thuẫn với lấy kinh tế tư nhân làm nội lực là chính.
Thứ hai, kinh tế tư nhân chỉ chiếm được có 1/3 số tài sản so với 2/3 giá trị tài sản mà kinh tế nhà nước chiếm. Và, kinh tế tư nhân bị hạn chế bởi nhiều chính sách, không có đặc thù được nhiều ưu đãi như kinh tế nhà nước. Thế nhưng, kinh tế tư nhân từ nhiều năm qua đã chiếm hơn 2/3 giá trị tổng sản lượng của Việt Nam, trong khi kinh tế nhà nước chỉ chiếm có 1/3. Về việc này thì lại mâu thuẫn vô cùng lớn vì Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng chỉ đánh giá cho đến nay giá trị sản lượng của kinh tế tư nhân tạo ra chiếm có 8% mà thôi, trong khi thực chất là hơn 2/3.
Như vậy, tôi gọi những con số của Tổng cục Thống kê là những con số rất đáng bị nghi ngờ và nói thực chất ra đó là những con số giả. Tổng cục Thống kê, một cơ quan thống kê lớn nhất của Nhà nước mà đưa ra số liệu thống kê giả thì ai có thể tin được?
Thêm nữa là các cơ quan nhà nước có nêu thành tích của giá trị xuất khẩu của Việt Nam, cho rằng đây là thành tố chính để kích thích GDP tăng trưởng.
Quả thực giá trị xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là tăng và tăng gấp đôi GDP, ước khoảng từ 430 đến 440 tỷ USD trong năm 2018. Nhưng, hơn 70% giá trị xuất khẩu thuộc khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, Việt Nam có thể xuất siêu, có thể tăng giá trị sản lượng xuất khẩu, nhưng về mặt thực chất là ngân sách nhà nước chỉ thu được thuế từ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà thôi. Còn lãi ròng qua xuất nhập khẩu thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng. Điều này có nghĩa là kinh tế Việt Nam chẳng được hưởng lợi gì cả ngoài thuế.
Từ đó có thể thấy là hai thành phần kinh tế chính tạo ra nội lực kinh tế ở Việt Nam gồm doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chứ không phải là doanh nghiệp nhà nước. Cho nên Việt Nam có một mâu thuẫn vô cùng lớn. Trong nước về mặt phổ biến nghị quyết, chủ trương thì luôn luôn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi các quan chức cao cấp đi nước ngoài để xin tiền, vay tiền thì luôn luôn chỉ nói kinh tế thị trường và đề nghị Mỹ, các nước Phương Tây-Liên minh Châu Âu linh hoạt cho Việt Nam sớm được chấp nhận quy chế kinh tế thị trường, bỏ luôn cái đuôi ‘xã hội chủ nghĩa’.
RFA: Đài RFA ghi nhận tại các diễn đàn về kinh tế ở Việt Nam, một số giới chức và chuyên gia nhấn mạnh mặc dù GDP tăng trưởng kỷ lục, nhưng phải lưu tâm đến phát triển bền vững. Qua phân tích của ông vừa rồi, có phải yếu tố ‘phát triển bền vững’ cho nền kinh tế Việt Nam là một khái niệm xa vời?
 
Một nền kinh tế phát triển bền vững làm sao có thể dựa trên cơ sở dữ liệu của quá khứ và hiện tại mang tính chất là bị nghi ngờ và không trung thực, thậm chí là giả tạo?
TS. Phạm Chí Dũng
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Một nền kinh tế phát triển bền vững làm sao có thể dựa trên cơ sở dữ liệu của quá khứ và hiện tại mang tính chất là bị nghi ngờ và không trung thực, thậm chí là giả tạo?
RFA: Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trong năm 2018 và đang chờ đợi ký Hiệp định Thương mại Tự do với Liên minh Châu Âu trong tương lai gần. Qua việc ký kết hai hiệp định này, Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, ông có nhận thấy dấu hiệu Việt Nam buộc phải chuyển sang cơ chế thị trường của thế giới và sẽ có cơ hội tạo ra đà phát triển kinh tế thật sự, chứ không phải là ‘ảo’ theo như nhận định của ông là GDP tăng nhưng kinh tế lại suy yếu?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Sẽ có bước chuyển dần, chuyển chậm, nhưng bắt buộc phải chuyển. Bởi vì nếu không chuyển thì sẽ không thể đáp ứng được những điều kiện của CPTPP; đặc biệt là những điều kiện về đầu tư, vay tín dụng và xuất khẩu. Nếu không có ‘kinh tế thị trường’ thì không được đáp ứng những điều kiện đó đâu.
Việt Nam bây giờ bắt buộc phải chuyển. Vấn đề là ông Nguyễn Phú Trọng chuyển hay ông Nguyễn Xuân Phúc chuyển hoặc cả hai ông cùng chuyển?
Nếu ông Trọng không chịu chuyển thì làm sao ông Phúc chuyển được? Ông Trọng cứ khư khư giữ ‘kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’. Còn ông Phúc cứ khư khư giữ kinh tế nhà nước làm chủ đạo và vẫn say sưa với thành tích của GDP tăng trưởng kỷ lục thì làm sao nhìn vào thực chất của nền kinh tế để phát triển được?
RFA: Chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Chí Dũng dành thời gian cho cuộc trao đổi này với Đài RFA.
H.A. – P.C.D.
Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-2018-GDP-increases-highest-within-a-decade-suspicious-record-12282018130807.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét