Thứ Ba, 8 tháng 2, 2022

20220209. BÀN LUẬN VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

 ĐIỂM BÁO MẠNG

TIẾN SĨ VŨ NGỌC HOÀNG NÊU 6 VẤN ĐỀ 
CẦN LƯU Ý ĐỂ CÓ THÀNH CÔNG VỀ 
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

THÙY LINH/ GDVN 16-12-2021 

Theo kế hoạch, sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội nghị sơ kết thực hiện tự chủ đại học.

Trước thềm hội nghị này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có ghi nhận ý kiến đề xuất của một số chuyên gia.

Hôm nay, phóng viên có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, hiện đang là Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam để lắng nghe ý kiến của ông về vấn đề tự chủ đại học.

Phóng viên: Qua thực tiễn, ông đánh giá thế nào về tự chủ đại học thời gian qua?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Nếu đại học không được tự chủ cũng có nghĩa là chưa có các đại học trưởng thành, nên người ta gọi đó là phổ thông cấp 4. Vì lẽ ấy, nhiều nước họ đã coi tự chủ là một thuộc tính của đại học. Đã gọi đại học thì đương nhiên phải được tự chủ.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tự chủ đại học là rất đúng đắn, một bước tiến bộ rất đáng nói về tư duy quản lý và quản trị, có ý nghĩa đột phá để giáo dục đại học Việt Nam có thể nhanh chóng trưởng thành, đây cũng là một trong những công việc đáng kể nhất trong thời gian qua về thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo theo Nghị quyết 29 của Trung ương đối với giáo dục đại học.

Chủ trương đúng đắn này đã được nêu trong nghị quyết của Trung ương, trong Luật Giáo dục đại học và Chính phủ đã có các nghị định, quyết định để thực hiện chủ trương này, đã cho phép 23 trường thực hiện thí điểm tự chủ.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng (ảnh: TDTU)

Qua thời gian thí điểm tự chủ, mặc dù còn rất nhiều trở ngại nhưng nhìn chung các trường đều phát triển tốt. Thực tế đó cho thấy thêm một lần nữa về sự đúng đắn của chủ trương tự chủ.

Tôi cho rằng, đã đến lúc cần tích cực tháo gỡ những vướng mắc, cản trở để tiếp tục mở rộng diện các trường được tự chủ (chỉ trừ các trường thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an vì có những đặc thù riêng, nên chỉ có thể tự chủ có giới hạn do lãnh đạo các Bộ đó quy định).

Khó khăn, trở ngại lớn nhất trong thời gian qua và cho đến hiện nay đối với việc thực hiện tự chủ là cùng một lúc đồng thời sử dụng cả cơ chế chủ quản và cơ chế tự chủ ở ngay các trường được tự chủ, trong khi hai loại cơ chế đó rất khác nhau.

Nói cách khác là cho tự chủ nhưng thực chất vẫn chưa được tự chủ. Nói nặng hơn, đó là sự dập dừng, nửa vời.

Tôi quả quyết kiến nghị rằng, để thực hiện được tự chủ một cách đích thực, thì phải không sử dụng nữa cơ chế chủ quản, không thể thực hiện đồng thời hai loại cơ chế đó như hiện tại, thậm chí cơ chế chủ quản vẫn mạnh hơn, quyền lực hơn, có thể đánh bạt cơ chế tự chủ khi muốn. Cơ chế chủ quản đã xuất xứ và có nguồn gốc từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà trong lĩnh vực kinh tế đã có chủ trương xóa bỏ từ 35 năm trước. Nhưng mãi tới nay trong giáo dục cơ bản và thực chất vẫn còn, mặc dù Nghị quyết các đại hội Đảng mấy nhiệm kỳ qua chủ trương phải đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ.

Luật Giáo dục đại học 2018 đã quy định, mở ra vấn đề tự chủ nhưng các trường đại học công lập còn chịu sự chi phối đan xen của nhiều luật khác dẫn tới chồng chéo, chưa đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Theo ông, liệu Chính phủ có nên ban hành một Nghị định riêng cho các trường đã tự chủ không?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Đúng vậy, một trở ngại “lớn” khác trong quá trình thực hiện tự chủ hiện nay là các quy định của pháp luật không đồng bộ, luật này và luật kia, luật và nghị định, nghị định này và nghị định khác không thống nhất với nhau. So với văn bản này là đúng, với văn bản khác là sai. Cái này cản trở cái kia, phủ định lẫn nhau.

Chính vì vậy, tôi nghĩ rằng, Chính phủ cần ban hành Nghị định riêng áp dụng cho các trường tự chủ. Vấn đề này đã được nhắc đến ở Nghị định 16 cũng như ở các Nghị quyết 89 và Nghị quyết 35 của Chính phủ nhưng cho tới nay một nghị định như vậy vẫn chưa thấy đâu.

Đồng thời, Chính phủ cần chỉ đạo định kỳ đánh giá việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động các trường đại học công lập, nhất là qua mô hình thí điểm tự chủ đại học của Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Đối với các trường thực hiện thí điểm tự chủ thì việc xem xét đúng sai phải trên cơ sở quyết định cho thí điểm của Chính phủ, chứ không phải theo các quy định chung như đối với tất cả các trường chưa tự chủ.

Bài học từ Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho thấy, sự cố này là điển hình của “cơ chế chủ quản dẹp bỏ cơ chế tự chủ” đã được Đảng, Nhà nước chủ trương và đã có luật quy định. Câu chuyện trường Đại học Tôn Đức Thắng khiến không ít trường tự chủ e ngại. Muốn tháo gỡ sự e dè này thì Chính phủ cần có hành động như thế nào, thưa ông?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Chúng tôi dự báo rằng, nếu không giải quyết được các cản trở nêu trên thì vấn đề tự chủ đại học dù là một chủ trương rất đúng nhưng có thể sẽ đến lúc phá sản, không thành công.

Vì lẽ ấy, tôi đề nghị các cấp có thẩm quyền tăng cường chỉ đạo quyết liệt để thực hiện thành công chủ trương tự chủ (theo tôi, cho đến nay, dù có một số tiến bộ nhưng nhìn chung là chưa thành công). Để bảo đảm chắc chắn thành công, cần phải có sự chỉ đạo từ cấp cao, trước nhất là Thủ tướng Chính phủ và kể cả Thường trực Ban Bí thư, chứ để cho cấp dưới và Bộ Giáo dục và Đào tạo xử lý thì không đủ thẩm quyền để giải quyết nhiều vấn đề vượt tầm.

Để thực hiện thành công chủ trương tự chủ đại học, tôi đề xuất xem xét một số vấn đề sau để có thể nêu thành các quan điểm chỉ đạo như sau:

Thứ nhất, không đánh đồng tự chủ đại học với tự túc tài chính. Nhà nước chẳng những không cắt ngân sách của các trường đại học công tự chủ mà cần tăng thêm hỗ trợ ngân sách cho những trường thực hiện tự chủ, xem đó như là nơi được đầu tư để nâng nhanh chất lượng của những trường này lên. Còn tất nhiên, ngoài phần ngân sách nhà nước thì các trường này còn được huy động nguồn vốn từ xã hội để phát triển giáo dục.

Thứ hai, để trao quyền tự chủ thực sự cho các trường đại học, đặc biệt đối với các trường đại học công lập, cần kiên quyết xóa bỏ cơ chế chủ quản, như đã chỉ ra từ nhiều năm nay tại các Nghị quyết 14, Nghị quyết 89 của Chính phủ và qua chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Chính phủ tại các hội nghị, hội thảo trong đó có hội thảo về Tự chủ đại học – cơ hội và thách thức do Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức năm 2016. Xóa bỏ cơ chế chủ quản thì đương nhiên không còn cơ quan chủ quản. Để có được điều này đòi hỏi cơ quan chủ quản phải tự nguyện từ bỏ quyền lực, sự chỉ huy trực tiếp của mình đối với trường đại học, không biến tướng ẩn danh dưới tên gọi khác là “cơ quan quản lý trực tiếp”.

Khi đó, cơ quan chủ quản trường đại học không còn và thay vào đó có thể là cơ quan chủ quản đầu tư đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với chức năng thẩm định, phê duyệt, cấp vốn và kiểm tra giám sát việc thực hiện đầu tư đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan chủ quản đầu tư không can thiệp vào các hoạt động khác của cơ sở giáo dục đại học đó.

Thứ ba, trao quyền tự chủ cần xác định cụ thể là trao quyền đó cho tập thể Hội đồng trường, chứ không thể trao cho một cá nhân. Hội đồng trường là tổ chức quyền lực cao nhất trong trường, như Nghị quyết 19 đã khẳng định. Vậy nên thành lập hội đồng trường đủ mạnh là khâu đột phá trong tiến trình trao quyền tự chủ cho các trường đại học.

Chừng nào cơ quan chủ quản còn chưa tự nguyện từ bỏ vai trò độc quyền chỉ đạo và quản lý trực tiếp của mình (theo định chế kiểu tập quyền) đối với cơ sở giáo dục đại học thì khi đó chưa có tự chủ thật sự và cũng chưa nên vội vàng thành lập Hội đồng trường một cách hình thức, đồng nghĩa với chưa chuyển qua cơ chế tự chủ.

Những thành viên tham gia Hội đồng trường phải là những người tiêu biểu và là đại diện thực sự cho chủ sở hữu và các bên liên quan chứ không phải chỉ được cơ cấu vào cho đủ thành phần. Đó là nguyên tắc hàng đầu khi thành lập Hội đồng trường.

Thứ tư, tự chủ đương nhiên phải theo quy định của nhà nước nên cần phải có một hệ thống văn bản pháp lý nhất quán phù hợp với chủ trương trao quyền tự chủ cho các trường, không để tình trạng thiếu nhất quán như hiện nay. (Luật Giáo dục đại học sửa đổi thì không còn cơ quan chủ quản, nhưng các luật khác vẫn còn tồn tại cơ quan chủ quản).

Thứ năm, trao quyền tự chủ thì cơ cấu quản trị, quản lý trường đại học cũng phải thay đổi theo, không thể vẫn tiếp tục thực hiện theo thiết chế tập quyền/chủ quản như cũ. Cần thay đổi cơ cấu tổ chức và điều lệ hoạt động của trường phù hợp với cơ chế tự chủ. Phải gắn việc trao quyền tự chủ với nâng cao trách nhiệm giải trình của lãnh đạo nhà trường.

Cuối cùng, Nhà nước cần sớm xây dựng và ban hành Bộ khung quy tắc ứng xử trong quản lý điều hành trường đại học tự chủ giữa Đảng ủy- Hội đồng trường - Ban giám hiệu – Cơ quan quản lý nhà nước. Với vai trò lãnh đạo của Đảng, như Nghị quyết 19 đã chỉ đạo, Bí thư Đảng ủy phải là người có uy tín cao nhất trong trường để xứng đáng được giới thiệu ứng cử Chủ tịch Hội đồng trường.

Mặt khác cần đề nghị với Ban bí thư và Ban Tổ chức Trung ương có chủ trương và quy định về việc đổi mới căn bản phương thức lãnh đạo của Tổ chức Đảng trong nhà trường tự chủ, bảo đảm cho Hội đồng trường là cơ quan quyền lực cao nhất ở đó.

Từ những vấn đề vừa nêu, về phía quản lý nhà nước, ông có kiến nghị gì đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo để thúc đẩy tự chủ đại học hiệu quả trong thời gian tới?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Tôi cho rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần rà soát những vướng mắc về các quy định của pháp luật cũng như lắng nghe ý kiến thông qua báo chí và của các nhà khoa học, nhà quản lý để đề xuất hướng sửa đổi cụ thể. Xây dựng bộ tiêu chí về tự chủ của trường đại học. Ban hành quy định về quan hệ công tác giữa: cơ quan quản lý nhà nước - Đảng ủy - Hội đồng trường - Ban giám hiệu. Xác định lộ trình thực hiện tích cực việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học, không tiến hành ồ ạt, chạy theo phong trào và cũng không trì hoãn kéo dài.

Ban cán sự đảng của Bộ báo cáo cấp trên đề nghị có hướng dẫn thực hiện sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong “công tác tổ chức, cán bộ” nhằm khắc phục sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa tổ chức đảng và Hội đồng trường.

Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng.

Thùy Linh (thực hiện)
CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC CHUYÊN NGHIỆP LÀ  CHÌA KHÓA ĐỂ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC THÀNH CÔNG
PHẠM MINH/GDVN 8-1-2022

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giảng viên cao cấp - Phó giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Phú Hải nhấn mạnh, một trong những giải pháp then chốt để tự chủ đại học đi vào thực tiễn là phải đổi mới quản trị nguồn nhân lực một cách chuyên nghiệp.

Thưa Phó giáo sư Đỗ Phú Hải, việc quản lý nguồn nhân lực trong các cơ sở giáo dục đại học hiện nay còn tồn tại những hạn chế nào?

Phó giáo sư Đỗ Phú Hải: Qua nghiên cứu, tôi cho rằng, tình trạng khá phổ biến hiện nay là làm chưa tốt khâu thực hiện phân tích nguồn nhân lực và lập kế hoạch quản trị nguồn nhân lực, chưa tuyển được những giảng viên tài giỏi, việc phát triển giảng viên và ngay cả đội ngũ hành chính trong các trường đại học còn rất hạn chế, đánh giá viên chức, khen thưởng và chế độ đãi ngộ chưa thực chất. Hay nói cách khác là quản lý nguồn nhân lực tại các trường đại học chưa được thực hiện một cách bài bản, chuyên nghiệp.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một phần bởi cơ chế và lịch sử để lại, bởi năng lực quản lý nguồn nhân lực, nhất là nhận thức thấu đáo về vai trò quản lý nguồn nhân lực trong tự chủ đại học chưa được đầy đủ.

Thứ nhất, việc phân tích và lập kế hoạch nhân lực còn rất hình thức tại các trường đại học.

Thứ hai, các trường đại học dường như chưa định hướng tuyển dụng giảng viên tài năng. Vấn đề đặt ra là tuyển dụng chưa được các giảng viên giỏi và các nhà quản lý giỏi trong các trường đại học.

Phó giáo sư Đỗ Phú Hải cho rằng, việc phát triển giảng viên và ngay cả đội ngũ hành chính trong các trường đại học còn rất hạn chế. (Ảnh: NVCC)

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2020, có 56.990 giảng viên cơ hữu, trong đó có 436 giáo sư, 3.795 phó giáo sư, 18.317 giảng viên có trình độ tiến sĩ, 34.054 giảng viên có trình độ thạc sỹ, còn 4.433 người có trình độ đại học.

Tuy nhiên, chất lượng giảng viên chưa đồng đều là một hạn chế rất lớn. Việc phát triển đội ngũ giảng viên không chỉ đơn thuần đảm bảo yếu tố về số lượng, mà còn cần đảm bảo cả yếu tố chất lượng nhằm đáp ứng mục tiêu dạy và học một cách hiệu quả.

Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên trong trường đại học nước ta hiện nay còn yếu, chưa thực sự đáp ứng đòi hỏi của xã hội và xu thế hội nhập, bộc lộ là kết quả giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên còn khiêm tốn.

Còn nhiều trường đại học hiện nay chưa có chiến lược phát triển giảng viên phù hợp. Nếu có thì còn loay hoay định hướng phát triển là lấy việc phát triển cá nhân người giảng viên làm trọng tâm hay là lấy phát triển cơ sở đào tạo làm trọng tâm.

Thực tiễn là cần hài hòa cả 2 mục tiêu này, cơ sở đào tạo và cá nhân giảng viên đều đồng thời phát triển, mang tính hợp tác bởi vì nhu cầu phát triển của nhà trường cũng quan trọng như các nhu cầu phát triển của giảng viên, vì vậy cả 2 loại nhu cầu đều cần phải cân nhắc hài hòa và cân bằng thì đạt mục tiêu phát triển bền vững trong các trường đại học.

Theo ông, công tác quản lý nguồn nhân lực trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học còn khó khăn gì?

Phó giáo sư Đỗ Phú Hải: Có một số khó khăn phải nhắc đến khi thực hiện quản lý nguồn nhân lực trong tự chủ đại học.

Thứ nhất, lương giảng viên chưa bố trí theo vị trí việc làm. Giai đoạn trước đây quyết định mức lương giảng viên của các đại học chủ yếu do bộ chủ quản quyết định thuộc ngân sách nhà nước. Thậm chí, bộ chủ quản quyết định bổ nhiệm vào ngạch và xếp lương đối với đội ngũ giảng viên chính, chuyên viên chính và tương đương trở lên.

Hiện nay bộ chủ quản chỉ còn nắm giảng viên cao cấp theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, Quyết định số 959/QĐ-BGD&ĐT ngày 07/3/2005.

Giai đoạn tiếp theo, các trường đại học đã áp dụng chi trả thu nhập theo Quy chế chi tiêu nội bộ, trong đó, ngoài lương theo quy định, các khoản thu nhập được phân phối theo khối lượng, chất lượng công việc, trình độ chuyên môn và trách nhiệm quản lý; đảm bảo tương quan hợp lý, hài hoà về lợi ích giữa giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên, giữa các đơn vị trong các trường; đảm bảo thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch.

Đối với đội ngũ nhân sự có chức danh giảng viên cao cấp và lãnh đạo trường, bộ chủ quản có thẩm quyền quyết định nâng bậc lương. Đối với đội ngũ nhân sự có chức danh từ giảng viên chính và tương đương trở xuống, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thẩm quyền công nhận kết quả thi thăng hạng viên chức, các trường đại học có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm ngạch và xếp lương. Đánh giá trả lương hiện nay đảm bảo cuộc sống và tạo động lực cho viên chức, nhất là giảng viên trong các trường đại học.

Thứ hai, đánh giá viên chức, khen thưởng còn mắc bệnh hình thức, chưa thực chất và kết dính giữa đánh giá phân loại, trả lương, phúc lợi và khen thưởng tạo động lực cho viên chức giảng viên các trường đại học.

Hiện nay, Nghị định 90/2020/NĐ-CP quy định việc đánh giá cán bộ công chức viên chức, tiêu chí chung về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, đó là tiêu chí về chính trị tư tưởng, đạo đức và lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, cuối cùng là kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, các tiêu chí dành cho giảng viên chưa được làm rõ mạch lạc ở các trường đại học. Dẫn đến việc đánh giá cũng rất chung chung, làm hạn chế khó khăn cho phân loại giảng viên. Thực tế, cần đánh giá toàn diện, để người học đánh giá giảng viên, đối tượng phục vụ của viên chức hành chính các trường đại học đánh giá nhóm viên chức hành chính thì kết quả tốt hơn.

Hơn nữa, kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức hiếm khi là căn cứ để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên và thực hiện các chính sách khác đối với viên chức, nhất là giảng viên.

Thực tiễn cho thấy thi đua khen thưởng hiện nay chưa là động lực cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.

Bên cạnh đó, khó khăn tồn tại nữa là quy hoạch bổ nhiệm lãnh đạo chủ chốt còn khá cứng nhắc, bệnh hành chính ăn sâu vào các cơ sở giáo dục đại học.

Theo tôi, hiện nay, công tác quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo chủ chốt chưa năng động đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học. Quy trình quy hoạch, bổ nhiệm không khác gì cơ quan hành chính hay cơ quan thuộc tổ chức chính trị xã hội.

Là nhà nghiên cứu nhiều năm kinh nghiệm về chính sách phát triển nguồn nhân lực, ông có thể chia sẻ một số giải pháp đối với vấn đề quản lý nhân sự trong tự chủ đại học hiện nay?

Phó giáo sư Đỗ Phú Hải: Theo tôi, quản lý nguồn nhân lực trong tự chủ đại học trước hết phải đạt mục tiêu hiệu quả, nói cách khác đây là bài toán tối ưu hóa về tạo động lực và tăng năng suất lao động của các viên chức trong tự chủ đại học.

Mục tiêu quản lý nguồn nhân lực tại các cơ sở giáo dục đại học cần thực hiện theo Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII và Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/1/2019, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030”. Đặc biệt coi trọng vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đối với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, như Đại hội XIII khẳng định giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt có tính quyết định để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục.

Đặc biệt chú trọng một số giải pháp sau:

Thứ nhất, mấu chốt là cần xây dựng hệ thống quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học. Để làm được điều này, không chỉ là có các cán bộ viên chức làm công tác quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp, mà cần sự chuyên nghiệp trong tư duy và hành động của những người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học cũng như đội ngũ cán bộ chủ chốt của mỗi cơ sở giáo dục đại học (các trưởng đơn vị như khoa, phòng trung tâm viện nghiên cứu thuộc cơ sở giáo dục đại học).

Các nhân tố môi trường văn hóa tổ chức, điều kiện đảm bảo cần thay đổi, đặc biệt khai thác xu thể quốc tế hóa giáo dục về quản lý nguồn nhân lực tại cơ sở giáo dục đào tạo.

Thứ hai, quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp trước hết là bảo đảm đầy đủ số lượng nhân sự cho giáo dục đại học với nhân sự viên chức hành chính và đội ngũ giảng viên tài năng, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực này. Hệ thống chuyên nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, săn tìm tuyển dụng và phát triển nhân lực giảng viên chất lượng cao.

Để đảm bảo chất lượng giảng viên tốt nhất có thể, tôi đã thấy 1 số trường đại học tuyển dụng giảng viên đang có sự nghiệp danh tiếng bên ngoài về làm giảng viên cơ hữu.

Rõ ràng, việc tuyển dụng này mang lại lợi ích cho cả người học, cơ sở đào tạo và người giảng dạy.

Mặt khác, chuyên nghiệp còn ở chỗ quản lý nguồn nhân lực trong các cơ sở giáo dục đại học là tạo động lực cho đội ngũ viên chức, nhất là tạo động lực cho đội ngũ giảng viên, họ cần tận tâm tận lực, làm việc bằng trái tim và khối óc đóng góp cho sự phát triển của cơ sở giáo dục đại học đó.

Thứ ba, để quản trị nguồn nhân lực tại các cơ sở giáo dục đại học chuyên nghiệp, cần điều chỉnh Luật viên chức và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để các trường đại học tự chủ trong quản lý nguồn nhân lực.

Hãy để Hội đồng trường quyết định ban hành những quy định cụ thể về quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học. Muốn làm được điều này, lại cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và cấp ủy đối với Hội đồng trường, đó là trách nhiệm thực hiện Văn kiện và Nghị quyết của Đảng.

Thứ tư, hệ thống quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm quá trình ra quyết định nhanh và chủ động trong quản lý nguồn nhân lực trong tự chủ đại học. Các khâu từ hồ sơ, đến tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch bổ nhiệm, đánh giá, thi đua khen thưởng, kỷ luật phải được số hóa các dữ liệu, tiện dụng cho việc khai thác sử dụng.

Thứ năm, nhân lực bộ phận tổ chức cán bộ phải được đào tạo và đào tạo lại chuyên nghiệp về phân tích công việc, xác định vị trí việc làm, xây dựng bản mô tả công việc, hoạch định nguồn nhân lực, có năng lực tham mưu chính xác về tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng kỷ luật, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ viên chức.

Tóm lại, quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp trong tự chủ đại học cần được nhận thức sâu sắc, chuyển đổi tư duy quản lý cũ sang tư duy quản lý nguồn nhân lực mới, tạo động lực cho viên chức và tăng năng suất lao động. Đó là mấu chốt thành công của quản trị nguồn nhân lực trong tự chủ đại học hiện nay.

Trân trọng cảm ơn ông!

Phạm Minh

ĐƯỜNG RA BIỂN LỚN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC LÀ TỰ CHỦ HỌC THUẬT

ĐỖ PHÚC HẢI/ GDVN 4-2-2022

Trong những quyền tự chủ cơ bản của các trường đại học, tự chủ học thuật được đánh giá là có cơ chế thông thoáng nhất hiện nay, giúp cơ sở giáo dục chủ động đổi mới và phát triển công tác đào tạo, tuyển sinh, góp phần nâng cao chất lượng và thay đổi diện mạo giáo dục đại học.

Nhìn nhận lại vấn đề tự chủ học thuật tại các trường đại học ở Việt Nam, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giảng viên cao cấp - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Phú Hải.

Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải cho rằng, việc thực hiện tự chủ học thuật vẫn còn những hạn chế, nhất là chưa tạo được văn hóa môi trường học thuật. (Ảnh: Phạm Minh)

PV: Thưa Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải, ông đánh giá như thế nào về những kết quả, thành tựu đã đạt được từ khi các trường đại học được thực hiện quyền tự chủ về học thuật?

Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải: Nhờ thực hiện chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, tự chủ học thuật được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã gặt hái được nhiều thành tựu đóng góp tích cực cho giáo dục đại học.

Cụ thể là các trường đại học đã chủ động mở ngành mới, chủ động đổi mới, cập nhật ban hành chương trình, nội dung đào tạo, ngôn ngữ đào tạo, phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ, phương pháp đánh giá, nhiều trường đã hoàn thành công tác tự đánh giá và có chứng nhận kiểm định chất lượng.

Các trường đại học thay đổi cơ cấu tổ chức tăng cường tự chủ học thuật, bố trí thêm phòng đảm bảo chất lượng giáo dục và cử đi đào tạo kiểm định viên chất lượng giáo dục.

Nhờ tự chủ học thuật, số chương trình đào tạo đại học và sau đại học chính quy tăng thêm nhiều ở các trường đại học. Một số trường đại học đã phát huy tối đa quyền tự chủ về học thuật, nhất là tự chủ trong việc xây dựng hồ sơ mở ngành đào tạo mới, đề án tuyển sinh đa dạng, phương thức tuyển sinh và công khai xác định chỉ tiêu tuyển sinh, công bố công khai tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và các thông tin khác theo quy định của pháp luật.

Tự chủ học thuật cũng đã được kiểm tra, giám sát, đánh giá chặt chẽ và hiệu quả từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Vậy theo ông, trong thực tiễn triển khai tự chủ học thuật, liệu còn tồn tại hạn chế nào không?

Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải: Bên cạnh những bước tiến và những chuyển biến tích cực nêu trên, việc thực hiện tự chủ học thuật vẫn còn những hạn chế, nhất là chưa tạo được văn hóa môi trường học thuật.

Thứ nhất, các đơn vị quản lý, lãnh đạo, đơn vị triển khai thực hiện vẫn chưa nhận thức tự chủ học thuật là nhu cầu tự thân của giáo dục đại học.

Tự chủ học thuật đề cập đến năng lực của trường đại học trong việc quản lý các vấn đề học thuật của mình một cách độc lập. Đó là quyền tự chủ đề cập đến khả năng của trường đại học trong việc quyết định kế hoạch chiến lược học thuật, chẳng hạn như mở ngành, tuyển sinh, chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo, đảm bảo chất lượng, liên kết đào tạo, cấp bằng và ngôn ngữ giảng dạy, đầu tư thích đáng cho nghiên cứu khoa học phát triển học thuật, tự do trao đổi học thuật, tiêu chuẩn đạo đức học thuật...

Lịch sử giáo dục đại học nước ta cho thấy sự thăng trầm về tự chủ học thuật qua cơ chế quan liêu bao cấp trước đây và đổi mới giáo dục đại học hiện nay. Ngày nay chính sách pháp luật khá hoàn chỉnh đối với tự chủ học thuật từ Luật giáo dục đại học và các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo như là Điều lệ trường đại học năm 2014, Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT, Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 23 /2021/TT-BGDĐT.

Tự chủ học thuật đó chính là nền tảng, là động lực tự thân của giáo dục đại học. Không đảm bảo tự chủ học thuật, rất khó thực hiện tự chủ đại học. Nghiên cứu kinh nghiệm của EU và các quốc gia OECD cho thấy, tự chủ học thuật có vai trò quan trọng trong tự chủ đại học bởi vì nó là điều kiện cơ bản nhất để tự chủ đại học thành công.

Hạn chế thứ hai là chưa thấy được tự chủ học thuật gắn liền với năng lực nguồn nhân lực và năng lực nghiên cứu các trường đại học.

Chúng ta cần nhận thức rất rõ là tự chủ học thuật phải gắn với các nguồn lực, nhất là năng lực nguồn nhân lực của các trường đại học.

Năng lực nguồn nhân lực là năng lực của các giảng viên, nhất là giảng viên chủ chốt cơ hữu đứng mở ngành. Tối thiểu đảm bảo đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm bảo giảng dạy các học phần chuyên ngành của ngành được mở.

Năng lực giảng viên chủ chốt đứng mở ngành quyết định thành hay bại tự do học thuật. Nhiều chương trình đào tạo đại học và sau đại học thành công khi có giảng viên chủ chốt đứng mở ngành được đào tạo từ các trường đại học tiên tiến trên thế giới.

Bên cạnh đó, năng lực nghiên cứu của các trường đại học cũng quyết định tự chủ học thuật.

Hạn chế thứ ba là chưa thấy được tự chủ học thuật cần cân bằng giữa học thuật và nhu cầu thị trường.

Một mặt có xu hướng thiên về đào tạo theo nhu cầu thị trường, tức là đáp ứng nhu cầu thị trường hơn là đảm bảo học thuật chuẩn quốc tế. Mặt khác nhiều đơn vị đào tạo vẫn dựa vào năng lực và kinh nghiệm vốn có, dẫn đến những kiến thức ngành mà xã hội cần thì lại thiếu. Đó là những nguyên nhân khiến cơ cấu môn của mã ngành chưa hợp lý và chất lượng đào tạo hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước.

Bối cảnh năng lực học thuật còn yếu kém, xu hướng thị trường hóa khá phổ biến, nếu tự chủ học thuật bị chi phối bởi thị trường sẽ dẫn đến hậu quả chất lượng đào tạo kém.

Bên cạnh đó, có trường hợp trường đại học tập trung vào học thuật , không tính đến nhu cầu thị trường việc làm dẫn đến tuyển sinh khó.

Xu hướng khá phổ biến là lựa chọn cân bằng hài hòa giữa chuẩn mực học thuật và nhu cầu thị trường để phát triển. Tuy nhiên, quan điểm này không nhận được sự ủng hộ của các giáo chức chuyên ngành, thực sự vẫn còn nhiều tranh cãi.

Bên cạnh có một số trường đại học đã phát triển chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận chuẩn quốc tế, cũng còn có nhiều trường chưa chú trọng quốc tế hóa học thuật.

Ngoài ra, còn có những khó khăn, rào cản tự chủ học thuật hiện nay. Cụ thể như việc thực hiện tự chủ học thuật chưa đến tay đội ngũ giảng viên cũng là một hạn chế.

Điều 32 của Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định: “….Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục”. Luật giáo dục đại học quy định tự chủ học thuật là quyền của cơ sở giáo dục đại học, chứ chưa phải của đội ngũ giảng viên, nhất là cá nhân giảng viên chủ chốt đứng mở ngành.

Vấn đề là học thuật lại nằm ở đội ngũ giảng viên, trong khi hội đồng khoa học đào tạo có chức năng tham mưu giúp việc cho Hội đồng trường và Ban giám hiệu hoạt động còn mang tính hình thức thì tự chủ học thuật luôn mang tính hình thức mà chưa phát huy năng lực khoa học và sức sáng tạo của đội ngũ giáo chức. Đó là môi trường học thuật và văn hóa đại học không phù hợp cho tự chủ học thuật.

Vấn đề nữa ở nhiều trường đại học Việt Nam hiện nay là định mức khối lượng kiến thức theo tín chỉ cao như quốc tế, trong khi phương pháp dạy và học lạc hậu ở phần lớn trường đại học nước ta sẽ dẫn đến cắt giảm chương trình, hạ thấp chất lượng đào tạo.

Khối lượng tối thiểu của chương trình cử nhân được quy định 120 tín chỉ, thạc sĩ – 60 tín chỉ, tiến sĩ 120 tín chỉ (khoảng 30 tín chỉ một năm học) cứng nhắc cho các trường đại học, bởi vì số giờ lên lớp ở các đại học quốc tế rất ít so với số giờ tự học.

Quy định tín chỉ theo định mức châu Âu ETCS (60 giờ tín chỉ một năm học) có thể phù hợp hơn với nhiều trường đại học nước ta, nhưng chưa được khuyến khích sử dụng.

Các triết lý về cấu trúc chương trình đào tạo (hai khối giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp) và kiểu quản lý mềm dẻo theo “khung chương trình” làm cho “tự chủ” khó khăn. Nhiều trường đại học vẫn còn lúng túng triển khai đào tạo theo tín chỉ.

Điều kiện mở ngành đào tạo ngày càng cao gây khó khăn hơn cho tự chủ học thuật, quy định hiện nay 5 tiến sĩ phù hợp để mở ngành đào tạo là cao, rất ít trường có thể thỏa mãn, đặc biệt điều kiện đó chỉ thích hợp với loại trường đại học theo hướng học thuật chứ không phải theo hướng ứng dụng.

Ngoài ra, xuất hiện Hội đồng tư vấn khối ngành thuộc các bộ chủ quản càng khó cho tự chủ học thuật. Thông tư 17/2021 còn quy định cả số thành viên 9 người gồm cả Bộ chủ quản, Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Hiệp hội, doanh nghiệp, tổ chức nghề nghiệp. Những khó khăn đó vô hình trung vô hiệu hóa cái gọi là tự chủ học thuật. Các trường đại học có ý kiến là trong quy trình triển khai đào tạo việc xin mở ngành đào tạo thường là khâu khó khăn và tốn kém nhất.

Thay đổi liên tục các quy định (Thông tư) về học thuật gây ra sự xáo trộn và khó khăn cho các trường bởi vì đó chỉ là các văn bản hồ sơ trên giấy, gốc của vấn đề nằm ở đội ngũ giảng viên. Chất lượng giảng viên quyết định chất lượng giáo dục chứ không phải là do làm đầu ra hay, thẩm định đúng, kiểm định đẹp mang lại chất lượng đào tạo cao.

Hạn chế của tự chủ học thuật còn là vấn đề hành chính quan liêu. Không ít bộ phận đơn vị trong trường đại học vẫn vận hành theo “thói quen”, hoạt động đào tạo theo cung cách, phương thức “bao cấp”, chưa chủ động bắt nhịp với cơ chế tự chủ.

Thời gian tự học, thực hành, nơi thực hành không đáp ứng được yêu cầu số lượng và chất lượng dẫn đến sinh viên, học viên khó trải nghiệm và rèn luyện tốt các kỹ năng cần thiết.

Thưa ông, vậy đâu sẽ là giải pháp tăng cường tự chủ học thuật trong các trường đại học hiện nay?

Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải: Giải pháp nằm nhiều ở 03 nhóm chủ thể quan trọng đó là trường đại học; cơ quan quản lý là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ chủ quản; các giảng viên chủ chốt các trường đại học. Tôi cho rằng, đường ra “biển lớn” tự chủ đại học chính là tự chủ học thuật. Và để tự chủ học thuật đi vào thực chất, cần thực hiện 7 giải pháp sau:

Thứ nhất là cần tăng cường nhận thức cho cả phía cơ quan quản lý nhà nước và phía các trường đại học và đội ngũ giảng viên chủ chốt về tự chủ học thuật. Tự chủ học thuật là tạo ra văn hóa đại học với môi trường học thuật.

Thứ hai, để thực hiện tự chủ học thuật, cần tăng cường trao quyền tự chủ học thuật cho các trường đại học. Đó là sự tăng cường quyền quyết định về học thuật của các trường trong nghiên cứu và đào tạo, việc còn lại phía cơ quan quản lý có trách nhiệm giám sát và đánh giá đảm bảo tuân thủ theo quy phạm pháp luật. Cần đánh giá lại tác động, sửa ban hành văn bản QPPL theo chuẩn tự chủ học thuật để tổ chức thực hiện lâu dài. Không nên thay đổi liên tục các văn bản quy phạm pháp luật.

Các quy định hiện nay rất bó hẹp tự chủ học thuật từ mở ngành mới đến tuyển sinh, và các hoạt động đào tạo. Thiết nghĩ, sẽ làm khó cho Bộ chủ quản ban hành chuẩn chương trình đào tạo, bởi vì việc này là nhiệm vụ của các trường, tốt nhất là của Khoa và Bộ môn có đội ngũ giảng viên chủ chốt có học hàm học vị đảm nhiệm.

Tôi cho rằng văn bản quy phạm cần thiết lập 1 khung tham chiếu cho tự chủ học thuật ở mức thấp nhất từ khâu mở ngành đến khâu cấp bằng, để các trường đại học thực hiện, bắt buộc công khai minh bạch trên website và phương tiện thông tin đại chúng, chịu sự kiểm tra giám sát, đánh giá của cả xã hội và cơ quan quản lý nhà nước với chế tài nghiêm khắc nhất.

Thứ ba, muốn thành công, các trường đại học cần tăng cường quốc tế hóa học thuật, khuyến khích phát triển học thuật, trao đổi học thuật trong và ngoài nước, xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận chuẩn quốc tế: CDIO, POHE, chương trình tiên tiến, chương trình PFIEV, chương trình chất lượng cao và các chương trình liên kết quốc tế khác; rà soát chương trình đào tạo tiếp cận chuẩn AUN-QA, thậm chí chuẩn chất lượng EU hoặc Hoa Kỳ.

Thứ tư, để tự chủ học thuật, các trường đại học cần thiết chủ động xây dựng đội ngũ giảng viên chủ chốt trình độ cao, nhất là giảng viên đầu ngành hoặc ít nhất có 01 công trình công bố trên các tạp chí quốc tế đầu ngành, bởi vì đây là mấu chốt thành công của tự chủ học thuật trong các trường đại học. Lời khuyên là nên tìm kiếm "săn" về, quản lý nguồn nhân lực chuyên nghiệp sẽ đảm bảo tự chủ học thuật.

Để tự chủ học thuật, các trường đại học cần chú trọng đầu tư thích đáng nghiên cứu khoa học theo định hướng học thuật, có nghiên cứu khoa học tốt thì tự chủ học thuật thành công. Tất nhiên là mục tiêu của nghiên cứu khoa học ở các trường đại học phải nhằm vào phục vụ đào tạo.

Thứ năm, phía Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhất các trường đại học đều cần chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là quản lý về học thuật, đội ngũ này nên được đào tạo từ lĩnh vực quản lý giáo dục đại học và có kinh nghiệm làm việc ở trường đại học.

Thứ sáu, đội ngũ giảng viên chủ chốt cần ý thức được sứ mệnh thiêng liêng tự chủ học thuật, tăng cường nghiên cứu khoa học, bám sát học thuật quốc tế.

Thứ bảy, cần tăng cường giao lưu trao đổi học thuật cả nội bộ và cả trong nước và quốc tế (cử giảng viên đi học, mời nhà khoa học giỏi về), tổ chức hội thảo trao đổi, bồi dưỡng thường xuyên và phổ biến những kinh nghiệm thành công.

Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư Đỗ Phú Hải!

Phạm Minh
CÒN CƠ QUAN CHỦ QUẢN SẼ VÔ HIỆU HÓA HỘI ĐỒNG TRƯỜNG, TRIỆT TIÊU 
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
PHẠM MINH /GDVN 17-12-2021
GDVN- PGS Trần Xuân Nhĩ: “Hiện nay, nhiều trường đại học không thể bổ nhiệm cán bộ, hoạt động của trường bị trì trệ thì cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm”.

Tự chủ đại học là một chủ trương lớn, đúng hướng, đưa giáo dục đại học phát triển đi lên. Song, con đường tự chủ của các trường đại học vẫn còn nhiều trở ngại. Từ những sự cố không mong muốn xảy ra với Trường Đại học Tôn Đức Thắng đến những khó khăn của nhiều trường đại học trong vấn đề bổ nhiệm cán bộ gần đây đã cho thấy những “bất cập” trong cơ chế tự chủ.

Xung quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: Tùng Dương)

Thưa Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ, theo ông, đâu là vấn đề cấp thiết cần giải quyết trong tự chủ đại học hiện nay?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Tự chủ đại học là xu hướng phát triển chung của giáo dục trên toàn thế giới, không riêng gì Việt Nam. Đây cũng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, giúp các trường đại học phát huy năng lực sáng tạo, chủ động, linh hoạt để ngày một phát triển vươn xa, hội nhập cùng nền giáo dục quốc tế.

Năm 2014, có 23 trường đại học đầu tiên thực hiện thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77/NĐ-CP của Chính phủ, chính cơ chế tự chủ đã giúp các trường có “sức bật” để phát triển vươn lên.

Đặc biệt có Trường Đại học Tôn Đức Thắng - một điển hình nổi bật về thí điểm tự chủ đại học với nhiều thành tích rất đáng được ghi nhận. Hơn 10 năm qua, trường không nhận chi phí thường xuyên và chi phí đầu tư từ nhà nước, trường tự thu, tự chi nhưng đã không ngừng phát triển, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển đội ngũ, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học.

Minh chứng là trường luôn đi tiên phong để giành được thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng đại học khu vực và quốc tế. Nhà trường đã tạo dựng nên thương hiệu của mình, khẳng định được vị thế của mình trên bản đồ giáo dục quốc tế, điều mà các trường đại học được nhận nguồn ngân sách lớn vẫn chưa thể làm được.

Nhưng rồi có những sự cố không mong muốn xảy ra với ngôi trường này. Và cho đến nay, việc xử lý vấn đề của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, việc kỷ luật Hiệu trưởng nhà trường vẫn chưa thể thuyết phục được dư luận.

Từ câu chuyện của Trường Đại học Tôn Đức Thắng, có thể thấy vướng mắc lớn nhất trong vấn đề tự chủ là sự áp đặt của cơ chế cơ quan chủ quản. Cụ thể, Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã được giao nhiệm vụ theo Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 29/01/2015 về việc phê duyệt Đề án Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của trường giai đoạn 2015-2017. Song, cơ quan chủ quản vẫn áp đặt những quy định không theo đúng tinh thần của Quyết định số 158.

Một vướng mắc nữa là chúng ta chưa xác định việc thành lập Hội đồng trường là vấn đề then chốt của tự chủ đại học. Khi đã thành lập Hội đồng trường và có Hội đồng trường, phải xác định rõ “Hội đồng trường là đại diện cho chủ sở hữu và các bên liên quan”, vì thế, Hội đồng trường phải có thực quyền, chứ không phải quyền vẫn nằm trong tay cơ quan chủ quản như hiện nay.

Sự tồn tại của cơ chế cơ quan chủ quản dẫn tới Hội đồng trường không có thực quyền, đây chính là trở ngại lớn nhất trong tiến trình tự chủ đại học hiện nay, là vấn đề cấp thiết cần sớm giải quyết.

Nhìn vào thực tế, ngay cả việc bổ nhiệm Hiệu trưởng, các trường đại học vẫn phải chờ cơ quan chủ quản xét duyệt. Rõ ràng, cơ quan chủ quản đang “nắm quyền” và làm thay công việc của Hội đồng trường. Hội đồng trường không có thực quyền thì làm sao có được tự chủ đại học?

Có nhiều ý kiến cho rằng, câu chuyện của Trường Đại học Tôn Đức Thắng với những sự cố không mong muốn xảy ra đã khiến nhiều trường đại học e dè, lo ngại khi bước vào con đường tự chủ. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Song song với hoạt động đào tạo, trường đại học còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, sáng tạo ra tri thức mới.

Việc tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường đại học đồng nghĩa với việc giúp các trường phát huy năng lực sáng tạo của mình, để trường phát triển, đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học, đưa xã hội phát triển đi lên.

Tuy nhiên, nếu vẫn “tự chủ nửa vời”, nếu vẫn tồn tại cơ quan chủ quản với cơ chế xin - cho thì trường đại học không thể đổi mới, không thể sáng tạo.

Những sự cố không mong muốn xảy ra với Trường Đại học Tôn Đức Thắng - một mô hình thí điểm tự chủ thành công hẳn rằng đã khiến các trường đại học bước vào con đường tự chủ với tâm thế lo ngại.

Muốn đưa trường đi lên thì đòi hỏi phải đổi mới, sáng tạo trong từng hoạt động, chiến lược phát triển. Nhưng nếu cơ chế ràng buộc, cơ quan chủ quản nắm quyền, không cho phép thì làm sao đổi mới, sáng tạo để đi đến thành công.

Nhiều lãnh đạo có tâm, có tầm, đủ sức chèo lái đưa một trường đại học phát triển nhưng khi thực hiện đổi mới, “xé rào” mà không có cơ chế nào bảo vệ mình thì liệu họ còn dám đổi mới không?

Cơ chế cơ quan chủ quản, sự chồng chéo của hệ thống hành lang pháp lý đang kìm hãm sự phát triển vươn lên của các trường đại học.

Vừa qua, ngày 22/9/2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Những đổi mới, sáng kiến là những việc làm chưa có tiền lệ nên rất cần có cơ chế để bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới dựa trên hiệu quả công việc họ thực hiện.

Đặc biệt, tự chủ đại học càng phải thực hiện theo đúng tinh thần của Kết luận số 14. Phải trao quyền cho Hội đồng trường, phải mở lối để những cán bộ lãnh đạo trong trường đại học được sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ dám làm, khi đó mới có thể xúc tiến, triển khai công việc có hiệu quả và đưa chất lượng giáo dục phát triển lên tầm cao mới.

Không chỉ sự cố xảy ra với Trường Đại học Tôn Đức Thắng trong năm 2020, hiện nay, nhiều trường đại học cũng đang gặp phải những sự cố, khó khăn trong quy trình bổ nhiệm cán bộ, nhiều trường đại học khuyết hiệu trưởng mà không thể bổ nhiệm, dẫn tới các hoạt động bị trì trệ, ảnh hưởng. Theo ông, vấn đề này trách nhiệm thuộc về ai?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Theo quy định, nhân sự hiệu trưởng, nhiệm kỳ hoặc thời gian bổ nhiệm của hiệu trưởng do Hội đồng trường quyết định trong phạm vi nhiệm kỳ của Hội đồng trường. Chúng ta còn đang bàn về việc hướng đến cơ chế thuê hiệu trưởng như nhiều nước phát triển khác.

Vậy mà, vấn đề “tréo ngoe” hiện nay là sau khi Hội đồng trường tổ chức bỏ phiếu và bầu Hiệu trưởng, người nắm “chìa khóa” cuối cùng lại là cơ quan chủ quản. Cơ quan chủ quản xét duyệt và công nhận thì trường đại học mới có Hiệu trưởng. Phải chăng, sự tồn tại của Hội đồng trường, công việc bỏ phiếu bầu Hiệu trưởng của Hội đồng trường là vô nghĩa?

Cơ quan chủ quản vẫn đang nắm quyền, can thiệp trực tiếp vào công việc của trường đại học, dùng quyền lực tạo sức ép lên trường đại học.

Trong năm 2021, nhiều trường đại học gặp phải vấn đề về công tác bổ nhiệm cán bộ, nhiều trường không có Hiệu trưởng và không thể bổ nhiệm vị trí này. Đây là một vấn đề cần sớm được giải quyết, bởi nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của trường đại học.

Nếu cơ quan chủ quản vẫn giữ quyền để “hạn chế” hoạt động của trường đại học, khiến hoạt động của trường bị trì trệ, chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng thì chính cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về vấn đề này. Chúng ta cần phải hiểu rằng, phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục đại học nói riêng chính là chìa khóa để phát triển kinh tế xã hội và đưa đất nước phát triển cùng cường quốc năm châu. Vậy tại sao không nhanh chóng xóa bỏ những “rào cản” về tự chủ đại học?

Muốn thực sự có tự chủ đại học, muốn mở đường cho giáo dục đại học phát triển thì cần phải trao quyền cho Hội đồng trường, xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản.

Bấy lâu nay, dường như chúng ta đang loay hoay đi tìm “lối vào” con đường tự chủ nhưng chưa thực sự tìm được chiếc “chìa khóa” để mở cánh cổng đến con đường này.

Trong bối cảnh mà hệ thống hành lang pháp lý còn thiếu đồng bộ, chiếc “chìa khóa” cho tự chủ đại học thuộc về Chính phủ. Chính phủ cần phải có một nghị định riêng dành cho các trường đại học tự chủ, xác định rõ quyền của trường đại học, những việc trường đại học được làm và trường không phải tuân theo những văn bản luật, văn bản dưới luật khác. Và trong tương lai, chúng ta cũng phải có một Luật riêng về tự chủ đại học.

Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ!

Phạm Minh

PGS ĐỖ VĂN DŨNG: NHIỀU TRƯỜNG ĐẠI HỌC TỰ CHỦ CÒN SỐNG TRONG NHỮNG 
MỐI LO ÂU
PHẠM MINH/ GDVN 14-12-2021
GDVN- Chủ trương bỏ cơ quan chủ quản không có nghĩa là buông lỏng quản lý mà giao quyền cho một chủ thể khác, đó là Hội đồng trường.

Trên thế giới, tự chủ đại học được xem là yếu tố cơ bản, cần thiết trong quản trị đại học. Việc tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường đã tạo động lực, sự linh hoạt, năng động của các trường đại học trong quá trình sáng tạo ra tri thức, dẫn dắt xã hội phát triển, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tự chủ của các trường đại học hiện nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

Nhiều trường tự chủ còn sống trong những mối âu lo

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng – nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, Luật số 34/2018/QH14 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP liên quan đến tự chủ đại học đã tạo điều kiện, cơ chế cho các trường phát triển vươn lên, đặc biệt là sự phát triển của 23 trường đại học thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng cho rằng cần xóa bỏ cơ quan chủ quản mới có tự chủ thực sự. (Ảnh: NEU)

Tuy nhiên, tự chủ đại học hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc cần tháo gỡ.

Thứ nhất, hiện nay một số văn bản luật và dưới luật chưa theo kịp tinh thần tự chủ của Luật số 34, chính điều này làm cho những người lãnh đạo trong các trường tự chủ luôn luôn sống trong những mối lo âu.

Hệ thống pháp luật còn chồng chéo nhau, khi các đoàn kiểm toán, thanh tra về làm việc với các trường, nếu áp dụng theo luật này thì làm đúng, nhưng áp dụng theo luật khác lại sai. Các văn bản dưới luật cũng mâu thuẫn nhau, đây chính là khó khăn lớn nhất đối với các trường đại học khi bước vào con đường tự chủ.

Chính vì vậy, mong muốn hiện nay của các trường là cần phải có hệ thống hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất để việc thực hiện tự chủ đi vào thực tiễn.

Thứ hai, sự can thiệp quá sâu của cơ quan quản lý trực tiếp (cơ quan chủ quản) vào công việc của các trường khiến trường đại học chưa thể có tự chủ thực sự.

Đối với trường đại học công lập đã tự chủ, tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, cần giao toàn quyền cho Hội đồng trường quyết định, bởi Hội đồng trường là đại diện cho chủ sở hữu và các bên liên quan.

“Nhưng thực tế thì vẫn có sự can thiệp của cơ quan chủ quản. Cụ thể như vấn đề về tổ chức nhân sự, hiện nay nhiều trường đại học không thể bổ nhiệm Hiệu trưởng, như Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh,…

Đã tự chủ thì cần phải xóa bỏ cơ quan chủ quản. Tại sao giao trách nhiệm cho Hội đồng trường, Hội đồng trường tổ chức bỏ phiếu, có quyết định bổ nhiệm cán bộ nhưng cuối cùng vẫn phải chờ Bộ trưởng công nhận?

Sự tồn tại, sự áp đặt của cơ quan chủ quản đã cản trở rất nhiều đến sự phát triển của trường đại học, suốt nhiều tháng liền một trường đại học không có người “cầm trịch” thì mọi việc đều trì trệ. Điều này làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cơ sở giáo dục đó, ảnh hưởng đến hàng ngàn cán bộ, giảng viên, viên chức, hàng ngàn sinh viên, thậm chí có thể làm ‘sụp đổ’ thương hiệu mà trường xây dựng bấy lâu nay. Ai sẽ là người chịu trách nhiệm trước những hệ lụy này?”

Rõ ràng, còn tồn tại cơ quan chủ quản thì chúng ta đang quay về với cơ chế xin – cho”, Phó Giáo sư Đỗ Văn Dũng khẳng định.

Về khía cạnh tài chính tài sản, bất cập tồn tại là trường đại học được giao quyền tự chủ nhưng lại không được giao đất đai, tài sản.

Ví dụ, khi có khu đất trống, nhà trường không thể cho thuê; khi có doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư xây dựng cho trường phòng thí nghiệm để hợp tác đào tạo nghiên cứu khoa học, nhà trường cũng không thể quyết.

Theo thầy Dũng, chúng ta cần phải học tập mô hình tự chủ ở Hàn Quốc, trường đại học khi đã tự chủ được liên kết với các doanh nghiệp trở thành những tập đoàn giáo dục. Các doanh nghiệp được phép xây dựng, đầu tư cho trường đại học, tận dụng “chất xám” để tạo nên những sản phẩm chất lượng cao.

Với mô hình hợp tác này, trường đại học cũng sẽ giải quyết được bài toán kinh phí đầu tư, từ đó có thể giảm học phí cho sinh viên, điều này rất có lợi cho người học. Muốn vậy, đòi hỏi cơ chế phải mở rộng hơn, tạo điều kiện để các trường được tự chủ, tự quyết định công việc và cơ hội phát triển cho mình.

Thứ ba, tự chủ không có nghĩa là Nhà nước cắt giảm đầu tư cho trường đại học.

Thầy Dũng phân tích: “Chúng ta vẫn nói cắt giảm chi thường xuyên, còn chi đầu tư Nhà nước vẫn hỗ trợ. Nhưng thực tế các trường tự chủ đang đứng trước bài toán nan giải về tài chính, buộc trường phải tăng học phí lên cao.

Lẽ ra khi trường không nhận kinh phí chi thường xuyên thì Nhà nước nên chuyển nguồn kinh phí chi thường xuyên này thành nguồn kinh phí chi đầu tư cho trường đại học, để các trường đầu tư xây phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất và giảm được áp lực học phí lên người học”.

Bỏ cơ quan chủ quản không có nghĩa là buông lỏng quản lý nhà nước

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiền - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Vinh cho biết, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện, có các chủ trương, chính sách, mở rộng hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học.

Đặc biệt, sau khi Luật số 34/2018/QH14 cùng với Nghị định 99 (Nghị định số 99/2019/NĐ-CP) hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, “nút thắt” về hành lang pháp lý thực hiện tự chủ giáo dục đại học đã được mở, các cơ sở giáo dục đại học chủ động thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình với các bên liên quan khi đảm bảo các điều kiện tự chủ giáo dục đại học đã được luật định.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiền cho rằng, tự chủ đại học đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng còn nhiều khó khăn, lúng túng. (Ảnh: Trường Đại học Vinh)

Dù đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng thực tế hiện nay, việc thực hiện tự chủ đại học vẫn còn đó những lúng túng, khó khăn, thiếu thống nhất, hiệu quả còn hạn chế.

Cụ thể, Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung (Luật số 34/2018/QH14) đã mở ra hành lang pháp lý quan trọng cho phép các trường đại học triển khai thực hiện quyền tự chủ. Tuy nhiên, do sự thiếu đồng bộ trong hệ thống hành lang pháp lý của Nhà nước đã phần nào gây cản trở tiến trình tự chủ ở các trường đại học.

Ví dụ, ngoài Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học vẫn phải tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý sử dụng tài sản công,... Điều đáng nói là hệ thống hành lang pháp lý này chưa đồng bộ nên dẫn đến vướng mắc, khó khăn trong các hoạt động của trường đại học liên quan đến đầu tư, mua sắm, liên doanh, liên kết,…

Trong lĩnh vực nhân sự, Luật Viên chức và các nghị định liên quan còn có một số nội dung cũng chưa đồng bộ với Luật Giáo dục đại học.

“Một nút thắt khá quan trọng cần tháo gỡ trong quá trình triển khai tự chủ đại học đó là cắt giảm và tiến tới xóa bỏ cơ quan chủ quản đối với cơ sở giáo dục đại học.

Chủ trương bỏ cơ quan chủ quản không có nghĩa là buông lỏng quản lý nhà nước mà chuyển giao quyền quản lý nhà nước cho một chủ thể khác, đó là Hội đồng trường. Hội đồng trường vì vậy cần phải có thực quyền theo Luật định.

Trong thực tế triển khai, việc giải quyết mối quan hệ giữa các thiết chế Đảng ủy – Hội đồng trường – Hiệu trưởng đang đặt ra không ít những thách thức, khó khăn và vướng mắc. Giải quyết mối quan hệ giữa ba thiết chế lãnh đạo (Đảng ủy), quản trị (Hội đồng trường) và quản lý (Hiệu trưởng) trên cơ sở làm rõ, luật hóa về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của từng thiết chế là đòi hỏi hết sức cấp thiết hiện nay, cần được Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành quan tâm nhiều hơn” thầy Hiền cho biết.

Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiền, ngoài những vướng mắc về cơ chế, một lý do quan trọng khác là do các trường đại học chưa đủ năng lực và chưa thực sự sẵn sàng bước vào con đường tự chủ.

Thực tế cho thấy, còn nhiều trường đại học chưa mạnh dạn thực thi sự tự chủ, thay vì chủ động thúc đẩy tự chủ, chấp nhận đương đầu với các thách thức, vượt qua nó để mở rộng sáng tạo, tăng cường chất lượng quản trị, phát huy hiệu quả các nguồn lực, phát triển chất lượng đào tạo, nghiên cứu thì vẫn mang tâm lý e dè, bởi thói quen “bao cấp” vào sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, vẫn muốn tận dụng những ưu thế của trường công để được hỗ trợ ngân sách trong chi thường xuyên và chi đầu tư.

Tóm lại,tự chủ đại học mở ra rất nhiều cơ hội để các trường đại học phấn đấu tự khẳng định mình, tăng năng lực cạnh tranh để hội nhập với giáo dục đại học của khu vực và quốc tế. Vấn đề đặt ra cho tự chủ đại học hiện nay là cần sớm giải quyết dứt điểm các “điểm nghẽn” còn tồn tại nói trên.

Phạm Minh
CẦN THÀNH LẬP MỘT ỦY BAN CẤP CHÍNH PHỦ ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
THÙY LINH/ GDVN 11-12-2022

LTS: Thời gian qua, công tác thi hành Luật 34/2018 và Nghị định 99/2019 vẫn có tình trạng mối quan hệ bên trong giữa Đảng uỷ, Ban giám hiệu và Hội đồng trường chưa rõ ràng dẫn tới vai trò của Hội đồng trường vẫn còn nhiều bất cập.

Theo kế hoạch, giữa tháng 12/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội nghị sơ kết về tự chủ đại học.

Trước thềm hội nghị này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có ghi nhận ý kiến đề xuất của một số chuyên gia.

Tiến sĩ Phạm Hiệp - Giám đốc nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển giáo dục Edlab Asia; Ủy viên Hội đồng cố vấn - Kênh chất lượng giáo dục đại học và nghề nghiệp (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có một số trao đổi thẳng thắn với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam xung quanh vấn đề trên.

Ông đánh giá thế nào về tự chủ đại học? Đâu là yếu tố tích cực, đâu là thách thức?

Tiến sĩ Phạm Hiệp: Tự chủ đại học đã được thể chế hóa chính thức từ Luật Giáo dục đại học 2012 và được tăng cường khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung năm 2018 khi đi vào thực tiễn.

Về cơ bản, tôi đánh giá, tự chủ đại học mang lại nhiều điểm tích cực và trao cho các cơ sở giáo dục đại học quyền chủ động trong các hoạt động của mình từ tổ chức bộ máy, nhân sự, đào tạo, nghiên cứu khoa học cho đến tài chính.

Chúng ta cũng cần thống nhất với nhau rằng, tự chủ không chỉ gói gọn trong 23 trường thí điểm theo Nghị quyết 77 mà phải là trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học bao gồm cả các trường công lập lẫn tư thục. Chỉ nên xem 23 trường thí điểm theo Nghị quyết 77 là những cơ sở giáo dục được tự chủ cao hơn thôi.

Tuy nhiên vẫn còn đó nhiều thách thức do chuyển từ hệ thống quản lý trực tiếp sang cơ chế tự chủ kèm theo trách nhiệm giải trình và có sự giám sát của nhà nước nên cũng gặp phải nhiều bỡ ngỡ, khúc mắc mà không dễ xử lý được.

Ví dụ dù nhiều trường đã thành lập Hội đồng trường tuy vậy Hội đồng trường có thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất hay không thì thực tiễn vẫn còn sự khác nhau giữa các cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, vẫn còn tranh luận, mâu thuẫn và chưa được giải quyết rốt ráo về mối quan hệ 3 bên giữa Hội đồng trường – Ban giám hiệu – Đảng ủy.

Tiến sĩ Phạm Hiệp (ảnh: Lê Hiệp)

Đặc biệt khi chuyển sang cơ chế tự chủ thì gắn với đó là trách nhiệm giải trình. Nếu trước đây, giải trình hầu như chỉ là chuyện báo cáo với cơ quan chủ quản, Bộ Giáo dục và Đào tạo thì nay nó còn là báo cáo, trách nhiệm giải trình với các bên liên quan đặc biệt là sinh viên, thị trường, xã hội và thậm chí cả nội bộ cán bộ, giảng viên của trường….Tuy nhiên các khung pháp lý đi kèm vẫn chưa kịp ban hành hoặc ban hành rồi thì vẫn chưa được vận hành trơn tru.

Chưa kể, việc sắp xếp lại quyền hạn, trách nhiệm giữa cơ quan chủ quản và Hội đồng trường như thế nào thì vẫn còn rối. Những mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với trường đại học dù rất nhiều hoạt động đã được ghi là tự chủ theo Nghị quyết 77 hay Luật Giáo dục đại học 2018 nhưng tham chiếu các luật khác thì lại chưa thấy được tự chủ…Tất cả những vấn đề này chúng ta cần tiếp tục tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, đúng với xu hướng tự chủ trên thế giới.

Tôi nghĩ thí điểm tự chủ nên được xem là dành riêng cho các cơ sở trước khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung ban hành năm 2018. Giờ Luật có rồi, đây là khung tham chiếu và bên cạnh đó cũng có Nghị định 60/2021 về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập thì cần tiến tới không còn “thí điểm” nữa mà sẽ phân rõ ra trong hệ thống giáo dục đại học có những loại hình tự chủ thế nào, tùy theo từng cơ sở có mức tự chủ khác nhau.

Một số chuyên gia đưa ra ý kiến rằng, các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ mối tương quan giữa tự chủ đại học và vị trí trên các bảng xếp hạng. Liệu có phải đại học có vị trí cao trên các bảng xếp hạng quốc tế thì có nhiều quyền tự chủ về quản trị và tổ chức bộ máy, về tài chính và về học thuật không, thưa ông?

Tiến sĩ Phạm Hiệp: Đây là câu chuyện nhỏ trong bài toán lớn mà giới nghiên cứu trên thế giới đã quan tâm từ lâu, đó là mối quan hệ giữa tự chủ và chất lượng của cơ sở giáo dục đại học.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, mối quan hệ này sẽ tùy vào bối cảnh và tùy vào từng trường cụ thể.

Với những kết quả mà tôi tổng kết được từ kinh nghiệm trên thế giới, tự chủ chỉ là điều kiện cần để đảm bảo chất lượng được nâng cao còn điều kiện đủ còn bao gồm rất nhiều yếu tố khác như là trách nhiệm giải trình, đầu tư nhà nước, năng lực, nguồn lực hoặc chiến lược, tầm nhìn của bản thân trường đại học.

Nói tóm lại tự chủ là cần thiết, nhưng đúng như lời Giáo sư Nguyễn Hữu Đức, Tổ trưởng Tổ tư vấn giáo dục của Thủ tướng từng nói: “Tự chủ không phải là chiếc đũa thần”.

Ông có kiến nghị gì thúc đẩy tự chủ đại học hiệu quả?

Tiến sĩ Phạm Hiệp: Tôi nêu ra 5 kiến nghị.

Thứ nhất, chúng ta có một giai đoạn dài nhầm lẫn giữa tự chủ và tự túc tài chính, nhận thức này đã được thay đổi thông qua phát biểu của lãnh đạo Chính phủ, cụ thể là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như lãnh đạo các bộ ngành liên quan đó là tự chủ không phải là tự túc.

Tuy vậy, thực tiễn vẫn có vênh giữa phát biểu đó với khung pháp lý. Khung pháp lý hiện nay vẫn là các trường tự chủ theo Nghị quyết 77 vẫn không được nhận chi thường xuyên. Hiện nay, nhiều trường đang có kế hoạch để được tự chủ và kèm theo là không còn nhận chi thường xuyên. Chúng ta có nhận thức rõ ràng về việc này nhưng cần chuyển thành thực tế thể hiện qua quy định mới rằng “tự chủ không có nghĩa là tự túc tài chính”.

Thứ hai, chúng ta cần phải sớm hoàn thiện khung pháp lý về việc cấp ngân sách cho cơ sở giáo dục đại học dựa theo kết quả hoạt động của các trường chứ không phải thông qua xin – cho, chi thường xuyên như hiện nay mà trường nào có kết quả tốt hơn thì cần phải có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận đầu tư của nhà nước.

Thứ ba, dù tự chủ ở mức độ nào thì cũng đều phải có đối tượng sinh viên nhất định, ngành đào tạo nhất định không thể cắt ngân sách được ví dụ đối tượng chính sách, sinh viên nghèo, ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội nhân văn, sư phạm, ngành y… cần tiếp tục đầu tư, thậm chí là đầu tư nhiều hơn hiện nay.

Còn những ngành mà thị trường cần thì nhà nước có thể cắt dần ngân sách để tự điều tiết như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin.... kể cả trường công hay trường top cũng không cần đầu tư nữa. Đào tạo sau đại học, định hướng nghiên cứu thì nhà nước cần đầu tư chứ không thể bỏ lửng vì đầu tư vào 1 thì sinh lợi ra nhiều.

Thứ tư, trong thiết kế khung pháp lý tự chủ cần tính toán đến luật chơi công bằng giữa trường công và tư. Ví dụ trường tự chủ không nhận ngân sách nhà nước thường xuyên thì được rất nhiều quyền tự quyết, các trường tư nhân cũng không nhận đồng nào từ nhà nước nhưng vẫn nhiều hoạt động phải xin phép.

Thứ năm, cần thành lập 1 ủy ban hoặc một cơ quan thường trực Chính phủ đứng ra giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Hiện nay, khi gặp vướng mắc, các trường chỉ có thể kiến nghị lên cơ quan chủ quản nhưng cơ quan chủ quản lại không đủ thẩm quyền để xử lý ngay công việc, gỡ rối ngay cho trường. Ủy ban hoặc cơ quan thường trực này sẽ có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin và đứng ra làm việc với các bên liên quan để xử lý, giải quyết nhanh để dứt điểm các vướng mắc trong quá trình tự chủ của các trường.

Trân trọng cảm ơn ông.

Thùy Linh (thực hiện)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét