Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2020

20200620. BÀN VỀ YẾU KÉM CỦA NỀN TƯ PHÁP VIỆT NAM

ĐIỂM BÁO MẠNG
LÀNG VŨ ĐẠI Ở DIÊN HỒNG
XUÂN DƯƠNG/ GDVN 18-6-2020
Báo chí đưa tin trong phiên thảo luận tại Hội trường về “Báo cáo về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước,…” diễn ra ngày 13/06/2020, các “Đại biểu Quốc hội tranh luận gay gắt vụ Hồ Duy Hải và nhiều kỳ án khác”. [1]
Cứ tưởng từ ngữ báo chí sử dụng năm nay đã được “mềm hóa”, bởi năm 2019 nhiều báo chạy tít “Tranh luận nảy lửa…”, “Tranh cãi nảy lửa…”, “Đối đáp nảy lửa…”,... nhưng hóa ra không phải.
Vẫn có những vụ “nảy lửa” mà số người tham gia không dừng ở con số một cho mỗi phía và đối tượng bị đem ra mổ xẻ không phải chỉ là cá nhân hay cơ quan mà là cả “nền tư pháp”, chẳng hạn: “Lại tranh luận nảy lửa tại Quốc hội về uy tín nền tư pháp”. [2]
Thói quen “Ăn cây nào, rào cây nấy” của người Việt có phải là thói cũ (hay thói xấu?) cần phải vứt bỏ, nhất là khi nó được phơi bày ngay tại Hội trường Diên Hồng?
Độ mạnh của từ ngữ, tức là “cường độ” của ngôn từ mà các đại biểu Quốc hội sử dụng tăng, giảm hay “giữ ổn định” không còn là vấn đề được nhiều người quan tâm, điều được cả xã hội chú ý là biểu hiện “rào dậu” của một số quan chức khối hành pháp, tư pháp ngay cả khi mang danh đại biểu Quốc hội.
Phó Ban Dân nguyện của Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng dẫn ý kiến của “nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước đã về hưu”, rằng “Chưa từng bao giờ thấy niềm tin đối với nền tư pháp Việt Nam thấp như bây giờ”.
Để cho chính xác, đoạn văn trên được nghe đi nghe lại nhiều lần từ clip ghi phát biểu của ông Lưu Bình Nhưỡng phát trên VTV1 [2].
Tuy nhiên khi phản biện tại hội trường, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Sỹ Cương đã tự chuyển hóa lời ông Nhưỡng thành:
“Chưa bao giờ uy tín của ngành Tư pháp thấp như bây giờ”. [2]
Một số báo khi tường thuật lời ông Nhưỡng đã vô tư cắt bỏ các từ “đối với nền”, và biến cụm từ “Niềm tin đối với nền tư pháp” thành “Niềm tin tư pháp”.

(Ảnh minh họa: Baochinhphu.vn)
Những khác biệt bé như “cái móng tay” giữa “Niềm tin đối với nền tư pháp” và “Niềm tin tư pháp” hay giữa “niềm tin đối với nền tư pháp” và “uy tín của ngành Tư pháp” hiện hữu ngay tại Hội trường Diên Hồng, trên các trang báo chưa cho thấy bức tranh toàn cảnh về các phát biểu và phản biện nếu không tiếp tục tìm thêm dẫn chứng khác.
Từ các vụ án Hồ Duy Hải, vụ lùi xe trên cao tốc, vụ án Lương Hữu Phước nhảy lầu tự tử tại Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước,..., phát biểu của đại biểu Hoàng Đức Thắng - Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị - cũng không kém phần “nảy lửa”:
“Những vụ án này là phần nổi của tảng băng chìm, gây xói mòn lòng tin của người dân vào hệ thống tư pháp”. [3]
Không thể phủ nhận những cố gắng, những thành tích mà ngành Tư pháp đạt được sau mấy chục năm đổi mới tư pháp.
Tuy nhiên, có một sự thật khi nói đến hoạt động tư pháp trong những năm gần đây, bên cạnh những oan khuất ngút trời của các công dân Nguyễn Thanh ChấnHuỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long, Nguyễn Văn Thêm,… thì dư luận cũng thấy xuất hiện tên một vài vị thẩm phán mà tiêu biểu là ông Lê Viết Hòa - Phó chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước.
Ông Hòa đã tham gia xét xử phúc thẩm 2 vụ án, sau khi tòa công bố bản án, hai người dân liên quan đến các bản án mà ông Hòa là thẩm phán được cho là đã tự sát.
Vậy những bản án oan ức mà công dân phải gánh chịu đến từ đâu?
Qua phát biểu của một số lãnh đạo Tòa án, đồng thời cũng là Đại biểu Quốc hội thì nguyên nhân không phải là do vấn đề nội tại của riêng nền tư pháp mà ở chỗ “quyền lực Nhà nước là thống nhất” và “có nhiều thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước”.
Cụ thể là ông Phạm Hồng Phong, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm về ngành Tư pháp:
“Hiến pháp quy định quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước, giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…
Hiện nay có nhiều thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước đòi tam quyền phân lập nên cần hết sức cảnh giác”. [4]
Không biết có phải ông Phạm Hồng Phong muốn diễn giải, rằng dù có “phân công phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan” thì quyền lực Nhà nước vẫn “thống nhất”, vẫn quy về một mối, không có bất kỳ cơ quan nào được phép vượt ra ngoài khuôn khổ bởi Việt Nam không theo cơ chế tam quyền phân lập, điều mà nhiều thế lực thù địch đang đòi hỏi?
Thêm nữa, có phải ông Phó Chánh án Phạm Hồng Phong cho rằng bất kỳ ý kiến nào, dù mang tính khoa học nhưng nói đến tam quyền phân lập đều là “thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước”?
Tóm lại, hàm ý toát ra từ phát biểu của ông Phạm Hồng Phong có phải là không thể quy trách nhiệm cho riêng nền tư pháp?
Vậy phải chăng đó là trách nhiệm của “Hệ điều hành”?
Năm năm trước, vào năm 2015 một bài báo đưa thông tin: “Đại biểu Quốc hội tính tỷ lệ án oan sai là 28%, Chánh án Tòa án Tối cao nói chỉ có 0,6%”. [5]
Cũng trong thời gian này, Thoibaotaichinhvietnam.vn cơ quan của Bộ Tài chính thống kê “82 vụ án có dấu hiệu oan sai trong 3 năm qua”. [6]
Lùi xa hơn, vào năm 2008, Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội Trần Thế Vượng khi trao đổi với báo chí cho biết đã có trên 11.000 đơn khiếu nại, đề nghị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án đã có hiệu lực.
Thực tế các cơ quan tố tụng đã xem xét 5.000 đơn và chấp nhận kháng nghị 800 đơn, tức là phải tổ chức khoảng 800 phiên tòa giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Mỗi phiên tòa “mở thêm” ấy tốn bao nhiêu tiền?
Dù kết quả các phiên này thế nào thì chỉ với việc chấp nhận kháng nghị đã cho thấy tỷ lệ án oan, sai là rất cao, báo Tienphong.vn viết “Tỷ lệ có oan sai rất cao, trên 10%”. [7]
Mô tả của Tienphong.vn có vẻ không phù hợp với dân khoa học, công nghệ, cũng khác nhiều so với cách hiểu của dân chúng.
Theo “cái lý” của dân thì 800 trên 5.000 là 16%, con số 16% khi nói theo cách ước lượng sẽ là “gần 20%” (án oan sai) chứ không ai lại nói là “hơn 10%”!
Chấp nhận tỷ lệ 16% oan sai cho cả 11.000 trường hợp thì có nghĩa là khoảng gần 2.000 con người, cũng có nghĩa là gần 2.000 gia đình người dân bị oan khuất, thế là ít hay nhiều?
Trong số các cơ quan tham gia tố tụng, không hiểu sao phản ứng mạnh với phát biểu của đại biểu Quốc hội về “nền tư pháp” lại đến từ một số lãnh đạo và đơn vị thuộc tòa án?
Có thể kể một số ý kiến đã công bố:
“Nhiễu thông tin; Truyền thông bẩn đã làm ảnh hưởng đến chính trị và cả nền tư pháp”. [8]
“Chỉ đưa ra hiện tượng cá biệt để đánh giá bản chất của một nền tư pháp là chưa đúng”. [9]
“Nguy hiểm hơn, có một vài đại biểu Quốc hội, chính thức là có 3 đại biểu Quốc hội phát biểu không đúng với nội dung của vụ án, đưa ra nhận xét chủ quan, dựa vào thông tin trên mạng xã hội, vấn đề này làm phức tạp thêm tình hình”. [10]
Một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, kiên định phương châm “do dân và vì dân”, thực hiện đúng lời huấn thị của Hồ Chủ tịch là “công bộc của dân” liệu có thể dễ dàng bị “Truyền thông bẩn” làm hoen ố như ý kiến người trong cuộc?
Những chiếc bình gốm cổ dẫu có bị chôn vùi hàng nghìn năm dưới đất hay trong lòng biển vẫn sáng đẹp như mới sản xuất.
Chẳng nhẽ một nền tư pháp dễ bị “truyền thông bẩn” làm hoen ố lại lại xứng đáng là “chiếc bình” phải nâng niu khi … đánh chuột?
Và quan trọng hơn, có phải dựa vào kinh nghiệm xử lý nhiều vụ án nên bài báo [8] đủ cơ sở để kết luận, rằng “Truyền thông bẩn” có thể làm “ảnh hưởng đến chính trị” chứ không chỉ tư pháp!
Liệu con số 16% bản án bị oan sai, “82 vụ án có dấu hiệu oan sai” nêu trên có phải là hiện tượng cá biệt như ý kiến đã nêu?
Nếu đó đúng là cá biệt thì bao nhiêu phần trăm, bao nhiêu vụ việc oan sai mới “xứng đáng” xếp vào hàng ngũ “không cá biệt”?
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, đại diện cho quyền lực của nhân dân, ngồi trong hội trường Diên Hồng không phải là ngồi trong các mảnh vườn được rào dậu và gắn biển Lập pháp, Hành pháp hay Tư pháp.
Không hiểu được điều đó thì có nên đeo phù hiệu đại biểu Quốc hội?
Tranh biện tại diễn đàn Quốc hội mà dùng hình thức quy chụp, thậm chí là công kích, hạ thấp uy tín đối phương không phải là điều nên được khích lệ.
Liệu thói trọng cung (lời nói) hơn trọng chứng mà báo chí phê phán khá mạnh mẽ có phải đang được áp dụng không chỉ khi xét xử tại tòa mà còn cả khi tranh biện?
Thực lòng người viết lại cảm thấy mừng khi các góc cạnh của “tảng băng tư pháp” được phơi bày tại nghị trường, bởi có một chân lý đơn giản “Chỉ trong đêm tối tăm nhất mới có thể thấy ngôi sao sáng nhất”.
Người dân chắc chắn biết “ngôi sao sáng nhất” theo mách bảo của trái tim mình, và vì thế cứ ngu ngơ, rằng “sao nào mà chả sáng” liệu có phải quê gốc ở Vũ Đại?
(Còn nữa)
Tài liệu tham khảo:
[1] https://plo.vn/thoi-su/dai-bieu-tranh-luan-gay-gat-vu-ho-duy-hai-va-nhieu-ky-an-khac-918386.html
[2] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/tranh-luan-nay-lua-tai-quoc-hoi-ve-uy-tin-nen-tu-phap-trong-vu-an-ho-duy-hai-648934.html
[3] https://vnexpress.net/dung-muon-bong-ma-the-luc-thu-dich-de-cong-kich-nguoi-gop-y-4116035.html
[4] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/pho-chanh-an-toa-cap-cao-tranh-luan-voi-dbqh-mot-loat-vu-an-nong-648660.html#inner-article
[5] https://baoxaydung.com.vn/dai-bieu-tinh-ty-le-an-sai-28-chanh-an-toi-cao-noi-chi-06-145029.html
[6] http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su-chinh-tri/2015-01-17/82-vu-an-co-dau-hieu-oan-sai-trong-3-nam-qua-17240.aspx
[7] https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ty-le-an-oan-sai-tren-10-141406.tpo
[8] https://tapchitoaan.vn/bai-viet/cong-dan-va-phap-luat-2/vu-an-ho-duy-hai-nhieu-thong-tin-truyen-thong-ban-da-lam-anh-huong-den-chinh-tri-va-ca-nen-tu-phap
[9] http://congan.com.vn/tin-chinh/dbqh-khong-the-vo-cam-voi-nhan-dan_94307.html
[10] https://www.baogiaothong.vn/ba-dai-bieu-quoc-hoi-len-tieng-ve-phat-ngon-nguy-hiem-vu-an-ho-duy-hai-d465049.html
(Tiếp theo)
Trước khi đề cập trở lại ý kiến của ông Phạm Hồng Phong, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh, thiết nghĩ cũng cần lưu ý hai điều:
Thứ nhất, kể từ ngày Luật Tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực thi hành, tại một số khoản trong các điều 58, 59, 60, 61 có các quy định được hiểu là nói về quyền im lặng.
Theo đó, mọi công dân đều “có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.
“Quyền im lặng” của công dân trong quá trình tố tụng được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật, Anh,…
Thứ hai, một vài nơi đưa ra quy định nhân viên công vụ bắt buộc phải thông báo cho nghi phạm: “Anh có quyền giữ im lặng, bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa”.
Nhắc tới một số quy định tư pháp quốc tế để nói lên một điều, rằng ông Phong có thể không cần tranh luận với các đại biểu Quốc hội khác về nền tư pháp nếu bản thân không muốn, một khi tự quyết định nói hoặc theo đề nghị mà nói thì những gì ông nói, có thể được sử dụng để chống lại ông ấy.
Để tránh tình trạng “tự chuyển hóa” ý kiến của đương sự như trường hợp đại biểu Nguyễn Sĩ Cương thay đổi ý kiến của đại biểu Lưu Bình Nhưỡng (xin xem phần 1), người viết dựa vào một số bài báo hiện vẫn tồn tại trên không gian mạng về phát biểu của ông Phạm Hồng Phong:
“Chúng ta không nên chỉ qua một vài trang giấy, một vài bình luận để đưa ra những quyết định, tôi nghĩ đây là thiếu cơ sở…
Hiện nay có nhiều thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước đòi tam quyền phân lập nên cần hết sức cảnh giác”. [1], [2],…
Với chức vụ hiện giữ, chắc ông Phạm Hồng Phong hiểu rất rõ về “quyền im lặng” và cũng nhận thức được, rằng những gì ông ấy nói sẽ được dư luận sử dụng như thế nào.
Nếu chỉ đọc lướt qua thì thấy phát biểu của ông Phạm Hồng Phong không có gì đặc biệt.
Người Việt bình thường không mấy bận tâm bởi hầu hết “thế lực thù địch” đều được báo chí (đặc biệt là báo qdnd.vn, cand.com.vn), các cơ quan chức năng, truyền thông và nhân dân nhận diện.
(Ảnh minh hoạ: Lapphap.vn)

Vấn đề chỉ trở nên đặc biệt khi tìm hiểu kỹ hơn một số khía cạnh trong phát biểu của ông Phạm Hồng Phong.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, nhiều vị lãnh đạo cao cấp trong các phát biểu đều cho rằng “Phải đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng của nhân dân lên trên hết”, không có phát biểu nào chỉ nói đến Đảng, Nhà nước mà lại quên Nhân Dân.
Vậy vì sao trong phát biểu của mình, ông Phong giới hạn những thế lực thù địch đòi tam quyền phân lập chỉ nhằm “chống phá Đảng, Nhà nước”?
Ông Phong loại trừ “Nhân Dân” khỏi diện mà các đối tượng mong muốn tam quyền phân lập “chống phá” là sơ suất trong “văn nói” hay mọi thể chế chính trị đều phải lấy Dân làm gốc, chống lại nhân dân tất sẽ diệt vong.
Hai là phát biểu của ông Phong – “Nhiều thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước” liệu có liên quan tới một số đại biểu Quốc hội có ý kiến góp ý cho nền tư pháp, ngành tòa án ngay tại Hội trường Diên Hồng?
Phải chăng với tư cách một lãnh đạo tòa án cấp cao lẽ thường phải am hiểu pháp luật, được đào tạo nghiêm túc về lý luận chính trị và quản lý nhà nước, ông Phong đang muốn nhắc nhở một số vị (hay là tất cả các vị) đang cùng ngồi với ông tại Hội trường Diên Hồng, rằng những đối tượng tiếp cận chủ đề “tam quyền phân lập” theo bất kỳ tinh thần khoa học hay chính trị nào cũng đều là “chống phá Đảng, Nhà nước”?!
Ba năm trước, Quốc hội đã nhiều phen “nảy lửa” và người viết đã buộc phải nêu câu hỏi: “Quốc hội nảy lửa, dân đứng ở đâu?”. [3]
Sau ba năm, tình trạng có vẻ ổn định về ngôn từ nhưng một số lĩnh vực khác thì hình như đã vươn lên “tầm cao mới”.
Chẳng hạn Phó Chánh Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Trí Tuệ cho rằng “Chính thức là có 3 đại biểu Quốc hội phát biểu không đúng với nội dung của vụ án, đưa ra nhận xét chủ quan, dựa vào thông tin trên mạng xã hội, vấn đề này làm phức tạp thêm tình hình”. [4]
Baogiaothong.vn cho rằng ba vị đại biểu Quốc hội mà ông Phó Chánh án tòa tối cao “nhắc nhở” là các ông Lê Thanh Vân, Trương Trọng Nghĩa và Lưu Bình Nhưỡng. [4]
Liệu có phải để sự đáp trả là tương xứng, phía tòa án cũng có ba vị lên tiếng, đó là hai Phó Chánh Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Trí Tuệ, Bùi Ngọc Hòa và Phó Chánh án tòa cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh Phạm Hồng Phong.
Việc nhắc tên ông Bùi Ngọc Hòa là căn cứ vào văn bản của ông Lưu Bình Nhưỡng gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội được báo chí ghi nhận, cụ thể:
“Đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng cũng nhắc lại về phát ngôn của 2 Phó chánh án Tòa án Nhân dân tối cao là Nguyễn Trí Tuệ, Bùi Ngọc Hòa xung quanh vụ án và quá trình xét xử càng bộc lộ rõ quan điểm không chuẩn định về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, về vai trò của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, về tính độc lập của thẩm phán, nhất là về cách thu thập, đánh giá chứng cứ”. [5]
Tại một số nước, không hiếm các cuộc ẩu đả dẫn tới thương tích xảy ra ngay tại phòng họp Quốc hội.
Sự việc ở Việt Nam chỉ mới dừng ở tranh luận - “khẩu chiến”.
Cuộc khẩu chiến bùng phát vào lúc này cho thấy điều gì?
Thứ nhất, Luật Tổ chức Quốc hội quy định số đại biểu chuyên trách không dưới 35%, thế có nghĩa là luật cho phép đại biểu Quốc hội có thể sắm nhiều vai, vừa hành pháp, vừa tư pháp, vừa lập pháp.
Với những đại biểu không chuyên trách, nơi người ta “ngồi” nhiều nhất không phải là trụ sở Quốc hội và vì thế không thể phủ nhận tâm lý “ăn cây nào rào cây nấy” trong một số người kiêm nhiệm nhưng đại biểu Quốc hội chỉ được xem như "nghề tay trái"!
Thứ hai, các cuộc đấu khẩu này chỉ thuần túy về chuyên môn hay đang bị lợi dụng để hạ thấp uy tín đối thủ?
Một vị đại tá công an cho rằng “Có những đại biểu Quốc hội không phải chuyên ngành luật, không nắm rõ về hồ sơ vụ án mà vẫn lên tiếng đánh giá”. [6]
Ngay sau đó trên mạng xã hội xuất hiện thông tin phản pháo, rằng học tại chức ngành Kinh tế nông nghiệp, lại không thấy bất kỳ thông tin nào về học tại chức ngành luật sao có thể làm Phó tòa cấp cao?
Thực tế thì có cá nhân giữ vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng từng lãnh đạo Công an, sau đó chuyển sang lãnh đạo Viện Kiểm sát và cuối cùng là lãnh đạo Tòa án, liệu mỗi vị trí lãnh đạo ấy có để lại “dấu ấn” trong quá trình thực thi nhiệm vụ?
Và trong toàn bộ hệ thống, những cán bộ toàn năng như vậy, những người phân công bất kỳ nhiệm vụ gì cũng “làm tốt” chiếm bao nhiêu phần trăm?
Thứ ba, liệu có phải cuộc khẩu chiến này chỉ là tiếp tục một chiến dịch đã từng được phát động khi một số thành viên Chính phủ phải lùi bước khi đề xuất “đổi vai” với Quốc hội?
Ngoại trừ Luật Tổ chức Quốc hội, các đạo luật còn lại hầu như đều do Chính phủ soạn thảo, liệu có sự cài cắm lợi ích của khối hành pháp, tư pháp vào các điều luật, đặc biệt là khi “Chính phủ bảo vệ phương án "đổi vai" trong giải trình, tiếp thu luật”? [7]
Thứ tư, cho đến gần đây, đặc biệt liên quan đến vụ án Hồ Duy Hải, lại thấy tái xuất lực lượng “đặc biệt tinh nhuệ” trong hoạt động tư pháp là “Liên ngành Tư pháp trung ương”.
Đại tá Nguyễn Minh Tâm, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Tư liệu giáo khoa, Học viện chính trị Công an nhân dân - người được cho là “đã nghiên cứu rất sâu vụ án ngay từ những ngày đầu xảy ra” được Tapchitoaan.vn dẫn lời:
“Báo cáo giải trình của các cơ quan như: Bộ Công an, liên ngành Tư pháp Trung ương, Tổ thẩm định độc lập và tất cả những dữ liệu khác nữa,… là những căn cứ để Hội đồng thẩm phán đưa ra phán quyết chính xác…
Qua báo chí, tôi thấy rằng thông tin, hình ảnh được cập nhật rất đầy đủ và chi tiết.
Các bài báo thông tin đều đặt trong bối cảnh những vấn đề mà liên ngành Tư pháp Trung ương đang cần phải giải quyết vụ án một cách khách quan nhất”. [6]
Năm 2016, năm bắt đầu nhiệm kỳ Trung ương khóa 12 đã có khá nhiều ý kiến về tổ chức vô hình mang tên “Liên ngành Tư pháp trung ương”:
“Liên ngành tư pháp là gì mà quyền lực khiếp thế”. [8]
“Liên ngành tư pháp là một tổ chức siêu quyền lực vi hiến". [9]
Không tư cách pháp nhân, không trụ sở, không nhân sự cố định, không được “định danh” trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào nhưng lại có tiếng nói quyết định trong quá trình tố tụng, không những thế còn “giải quyết vụ án” (ngoài trụ sở tòa án).
Vậy nên giải thích thế nào về hiện tượng dị thường này của nền Tư pháp Việt Nam?
Một thời gian không thấy thông tin về sự can dự của cái gọi là “Liên ngành” này vào quá trình tố tụng, vì sao bây giờ xuất hiện trở lại?
Phải chăng lực lượng đặc biệt tinh nhuệ chỉ được sử dụng trong những tình huống đặc biệt, khi các lực lượng khác không đủ năng lực?
Vậy khi các cơ quan tham gia tố tụng đã “chung mâm liên ngành”, khi án đã được “bỏ túi” sau cuộc họp thì vì sao lại còn làm tung tóe lên cho dân chúng ngơ ngác?
Chẳng lẽ giờ là thời điểm “Gặp thời thế, thế thời phải thế”?
Thứ năm, một khi “liên ngành Tư pháp Trung ương giải quyết vụ án” thì nguyên tắc độc lập khi xét xử có được tôn trọng?
Bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án: “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cho rằng:
“Việc quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm trong công tác xét xử là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”. [10]
Nếu tiết lộ của đại tá Nguyễn Minh Tâm là sự thật, thì ai/cơ quan nào sẽ phải chịu trách nhiệm về sự can thiệp của Liên ngành Tư pháp Trung ương vào việc “giải quyết vụ án”?
Và thứ sáu, cũng là “băn khoăn” cuối cùng, để khỏi phải chờ đợi, liệu ông Lưu Bình Nhưỡng có nên gửi thêm một bản kiến nghị đến “Liên ngành Tư pháp Trung ương”, nơi trực tiếp “giải quyết vụ án” - theo tiết lộ của đại tá công an Nguyễn Minh Tâm./.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tham khảo:
[1] https://thanhnien.vn/thoi-su/khong-co-tam-quyen-phan-lap-nen-moi-co-qh-la-co-quan-quyen-luc-nha-nuoc-cao-nhat-1237447.html
[2] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/pho-chanh-an-toa-cap-cao-tranh-luan-voi-dbqh-mot-loat-vu-an-nong-648660.html#inner-article
[3] https://giaoduc.net.vn/goc-nhin/quoc-hoi-nay-lua-dan-dung-o-dau-post181326.gd
[4] https://www.baogiaothong.vn/ba-dai-bieu-quoc-hoi-len-tieng-ve-phat-ngon-nguy-hiem-vu-an-ho-duy-hai-d465049.html
[5] https://vtc.vn/tin-nhanh-24h/dbqh-luu-binh-nhuong-gui-kien-nghi-toi-chu-tich-nuoc-vu-an-ho-duy-hai-ar545778.html
[6] https://tapchitoaan.vn/bai-viet/cong-dan-va-phap-luat-2/vu-an-ho-duy-hai-nhieu-thong-tin-truyen-thong-ban-da-lam-anh-huong-den-chinh-tri-va-ca-nen-tu-phap
[7] https://baodautu.vn/chinh-phu-bao-ve-phuong-an-doi-vai-trong-giai-trinh-tiep-thu-luat-d118495.html
[8] https://giaoduc.net.vn/goc-nhin/lien-nganh-tu-phap-la-gi-ma-quyen-luc-khiep-the-post169611.gd
[9] https://giaoduc.net.vn/tieu-diem/lien-nganh-tu-phap-la-mot-to-chuc-sieu-quyen-luc-vi-hien-post169806.gd
[10] https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/nguyen-tac-tham-phan-hoi-tham-xet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat-thuc-tien-thuc-hien-va-kien-nghi

Xuân Dương
TIN LIÊN QUAN:
PHẢI ĐÀO TẠO LẠI CÁC QUAN TOÀ
TÔ VĂN TRƯỜNG/ BVN 18-6-2020
Cử tri cả nước vẫn còn nhớ phát biểu sau khi tuyên thệ nhậm chức Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, ông Nguyễn Hòa Bình hứa sẽ cùng tập thể lãnh đạo Tòa án Nhân dân Tối cao: “Chăm lo xây dựng đội ngũ thẩm phán giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, để nhân danh Nhà nước đưa ra những phán quyết thượng tôn pháp luật, nghiêm minh và công bằng”.
Ông Nguyễn Hòa Bình cũng đề nghị: “Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội ủng hộ và tăng cường giám sát hoạt động của Tòa án các cấp”.  Có thể coi lời hứa của ông Nguyễn Hòa Bình trước Quốc hội cũng là lời hứa trước nhân dân cả nước bởi Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân.
Nếu “cơ chế” mà biết nói năng, khi chứng kiến trên diễn đàn Quốc hội trong phiên thảo luận về kinh tế xã hội vừa qua tranh luận đánh giá về lĩnh vực tư pháp cụ thể là ngành tòa án, cử tri thấy cảnh tượng “ông nói gà, bà nói vịt” chắc nó sẽ phải thú nhận rằng:
“Tại ai cũng chẳng tại ai cả
Thôi cứ cho rằng nó tại tôi”
Một số vị đại biểu Quốc hội có tâm và tầm khi phát biểu, họ chỉ nhằm vào một hướng: “Hãy cứu lấy nền tư pháp VN”. Ngược lại, ông Chánh án tòa án tối cao Nguyễn Hòa Bình và nhóm của ông nói lảng, thoạt tiên bằng kết quả tổng kết hai nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị là Nghị quyết 48 về xây dựng pháp luật và Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp; sau đó chuyển qua vụ án Hồ Duy Hải bằng trống lấp: “Câu chuyện đặt ra là có oan sai hay không? Tôi sẽ trả lời câu hỏi Hồ Duy Hải có oan sai hay không, có phạm tội hay không?” và hoàn toàn lờ tịt sai phạm về thủ tục tố tụng hình sự.
Xưa nay, nhiều cử tri vốn không tin tưởng vào chất lượng các vị quan tòa nói chung, từ thực tế xét xử, rất đồng tình với ý kiến của ông Nguyễn Văn Hiện, (khi đó là Chánh án Tòa án tối cao) đã công khai than phiền về việc phải “vơ bèo vạt tép” để có các “quan tòa”.
Những phát biểu gần đây của mấy vị quan tòa tối cao, chứng tỏ là họ không hiểu/ không tôn trọng luật pháp, không biết “nói năng cho phải đạo”- những yêu cầu tối thiểu đối với ai khoác áo quan tòa. Sự dựa dẫm lâu nay vào “cấp ủy” (thực ra phần lớn là bí thư các cấp), và hoạn lộ không mấy sạch sẽ là nguyên nhân chính sự tha hóa toàn diện của nhiều người trong họ.
Phát biểu của ông Nguyễn Hòa Bình trên diễn đàn Quốc hội vừa không đúng chỗ, vừa không đúng cương vị, vừa sai về nội dung nên không thuyết phục. Không đúng chỗ vì nếu Quốc hội muốn nghe về vụ án Hồ Duy Hải thì không thể chỉ nghe ông Bình mà không nghe những ý kiến khác. Nếu diễn ra như vậy thì “vỡ trận”. Không đúng cương vị vì Chánh án phải nói theo luật chứ không phải là trình bày chi tiết vụ án. Đây là việc của cơ quan điều tra. Ông Bình vẫn chưa thuộc vai.
Sai nội dung vì nếu cần trình bày thì ông Bình phải giải trình kết luận ngang xương của Hội đồng thẩm phán tối cao: “Có sai sót về tố tụng nhưng không ảnh hưởng đến bản chất vụ án”. Ông Chánh án và hội đồng của ông có quyền “dẫm lên luật” như vậy không? Người ta chất vấn là sai về trình tự tố tụng, vi phạm điều tra thì ông Bình lại nói lại cái mà các ông ấy đã khẳng định tại toà theo hướng có tội.
Đây là lần thứ hai, ông Nguyễn Hoà Bình đã tự mình biến cơ hội thành mối nguy hại sẽ giáng xuống chính ông ta. Ấy là cách nghĩ và làm của những “giả nguyên khí, ngụy tinh hoa”, đang nhan nhản trong hệ thống hiện nay, vốn chỉ thạo đường chui lủi bằng mưu hèn, kế bẩn. Một chính trị gia đường hoàng, có trí tuệ và minh triết không ai ngu xuẩn hành xử theo kiểu chợ búa như vậy! Và một nền chính trị minh bạch không cho phép những hành xử ấy ngang nhiên xuất hiện trước hội trường Diên Hồng.
Lần thứ nhất, ấy là khi mở phiên toà giám đốc thẩm, thay vì đón lấy cơ hội sửa sai, ông Bình đã cố đấm ăn xôi, theo đuổi ý kiến cũ khi còn là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để bảo vệ cái được coi là danh dự cá nhân ông ta, mà xem nhẹ uy tín của hệ thống xét xử.
Lần thứ hai, trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và trước toàn thể quốc dân đồng bào, ông ta tiếp tục phạm phải sai lầm như lần thứ nhất. Thay vì phải giải trình những vấn đề mà dư luận và đại biểu Quốc hội nêu ra, ông ta lại đóng vai của cả điều tra viên, kiểm sát viên và của quan toà để khẳng định việc tuyên Hồ Duy Hải là đúng, mà cái đúng ấy dựa căn bản trên lời khai của bị cáo. Việc kể lể vụ án theo cách suy diễn ấy, được ông ta mô tả rất kỹ lưỡng, chuyên nghiệp ở phần nói về cơ thể phụ nữ.
Qua hai lần cố thủ trước sự thật cho thấy: Nguyễn Hoà Bình đã và đang tìm mọi cách bảo vệ cái gọi là thanh danh cho bản thân, mà tuyệt nhiên không màng đến uy tín, danh dự của Đảng và Nhà nước, vốn đang bị suy giảm từ hàng loạt vụ án oan sai thấu trời, dội đất trong thời gian qua. Đừng quên luật nhân quả sẽ sớm muộn phát tác. Đó chính là luân hồi, quả báo.
Phát biểu của ông Phạm Hồng Phong Phó chánh án tòa án cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, cấp dưới của ông Nguyễn Hòa Bình tại Quốc Hội là không thể chấp nhận được. Không thể mượn “bóng ma” thế lực thù địch để quy chụp những người góp ý cho ngành tư pháp. Ngẫm suy, cũng phải xem lại ngay cả quan điểm cho rằng đòi hỏi Việt Nam có tam quyền phân lập là luận điệu của thế lực thù địch. Phải thấy rằng đòi hỏi tam quyền phân lập hay đòi hỏi cân bằng và giám sát quyền lực là đòi hỏi tất yếu cho sự phát triển lành mạnh của đất nước. Mọi người dân có quyền nêu ý kiến về các giải pháp chính trị để đất nước phát triển. Từ nay, các nhà lãnh đạo các cấp cần bỏ cách tư duy và phát biểu “để thế lực thù địch lợi dụng”, cũng như đầu những năm 1990, báo chí đã nêu rất chính xác kiểu tư duy, hành xử, xét xử ” lợi dụng sự sơ hở của luật pháp”, luật pháp sơ hở thì phải điều chỉnh để không còn sơ hở nữa. Xử sự với mọi công dân chỉ trên cơ sở luật pháp.
Nếu ví von thì có thể ví: thời kinh tế tập trung quan liêu bao cấp những người đề nghị phá bỏ hợp tác xã kém hiệu quả cũng bị quy tội phá hoại chủ trương đường lối của Đảng và Nhà Nước, thậm chí cán bộ cấp cao ở cấp Bí thư tỉnh uỷ như ông Kim Ngọc bị kỷ luật, sau đó được sửa sai. Hôm nay, những người đề nghị kiểm soát, cân bằng quyền lực để chống tha hoá, trong đó tam quyền phân lập là một giải pháp đã chứng tỏ thành công về cân bằng, kiểm soát quyền lực là những người nêu giải pháp xây dựng, phát triển đất nước lành mạnh. Không thể xếp họ vào “thế lực thù địch”.
Các vị công bộc của dân, đặc biệt là quan tòa nên nhớ một câu nói thâm thúy của Mark Twain, đại ý: “Anh không nói thì người ta còn nghi hoặc về sự kém cỏi của anh, nhưng anh nói thì người ta biết chắc như vậy”.
Sự thật là sau các vụ việc này, sau phát ngôn của các vị quan tòa, tín nhiệm của dân đối với hệ thống này xuống rất thấp. Cứu vãn nó không phải bằng cách lấp liếm mà phải bằng đại phẫu, trước hết thay thế các quan tòa tối cao, kết hợp cải cách tư pháp với “đào tạo lại các quan tòa”.
T.V.T.
KÍCH HOẠT ĐIỀU 404 VÀ HIỆU QUẢ
LS ĐẶNG ĐÌNH MẠNHBVN 19-6-2020
Ngày 16/06, chỉ một ngày sau khi ông Chánh án TANDTC phân bua tại nghị trường Quốc hội về quyết định 17/17 bác kháng nghị của VKSTC về vụ án Hồ Duy Hải, ông khẳng định: Hồ Duy Hải có đến 25 lời nhận tội! Thì Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã nhóm họp xem xét khả năng kích hoạt điều 404 Bộ Luật Tố tụng Hình sựkiến nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét lại quyết định bác kháng nghị của họ.
Ngoài Ủy ban Tư pháp Quốc hội, thẩm quyền kích hoạt điều 404 còn có Ủy ban thường vụ Quốc hội, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao. Trong số 04 đối tượng trên, quyền kích hoạt điều 404 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được gọi là yêu cầu và 03 đối tượng còn lại thì được gọi là kiến nghị.
Khi nhận được YÊU CẦU kích hoạt điều 404, Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ có thời hạn 04 tháng để mở phiên họp xem xét lại quyết định của chính mình. Trong phiên họp, thì Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số ¾.
Khi nhận được KIẾN NGHỊ kích hoạt điều 404, Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ có thời hạn 30 ngày để mở phiên họp thứ nhất xem xét, thảo luận về kiến nghị đó. Trong phiên họp, Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số quá bán. Nếu nhất trí, họ sẽ có thời hạn 04 tháng để mở phiên họp thứ hai xem xét lại quyết định của chính mình. Và đương nhiên, trong phiên họp, thì Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số ¾.
Khi xem xét lại quyết định của chính mình, Hội đồng Thẩm phán TANDTC có quyền:
-Giữ nguyên quyết định của chính mình, bác các yêu cầu, kiến nghị;
-Hoặc, hủy quyết định của chính mình, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và quyết định về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, điều tra lại hoặc xét xử lại.
Qua đó cho thấy, trong trường hợp Ủy ban Tư pháp Quốc hội KIẾN NGHỊ Hội đồng Thẩm phán xem xét lại quyết định của mình về vụ án Hồ Duy Hải, thì kiến nghị đó phải trải qua đến 02 phiên họp của Hội đồng Thẩm phán. Chỉ khi nào phiên họp thứ nhất xem xét về kiến nghị đạt được túc số quá bán thẩm phán thuộc Hội đồng Thẩm phán nhất trí, thì mới có thể có phiên họp thứ hai xem xét về quyết định của Hội đồng Thẩm phán. Nhưng lần này, họ quyết định theo túc số ¾, thì rõ ràng, cánh cửa lại càng hẹp hơn.
Cao cơ hơn, thay vì kiến nghị, thì Ủy ban Tư pháp Quốc hội có thể đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra văn bản YÊU CẦU đối với Hội đồng Thẩm phán. Khi ấy, ít nhất về thủ tục đã giảm bớt đi một cửa. Chưa kể, vị thế của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn hơn hẳn vị thế của Ủy ban Tư pháp Quốc hội, chắc chắn sẽ tạo sự quan tâm hơn của Hội đồng Thẩm phán khi họ xem xét vụ án.
Tuy vậy, với cánh cửa còn lại, để đạt túc số ¾ (tức 13/17) số thẩm phán cấp cao chấp thuận đảo ngược quyết định trước đây của mình, có lẽ, cần có một quyết tâm cao về chính trị… Mà quyết tâm đó, chỉ ở Ba Đình mới có thể quyết định chứ không phải ở pháp đình.
* Tham khảo các điều 404, 405, 406, 407, 408, 409 và 410 Bộ Luật Tố tụng Hình sự hiện hành
Đ.Đ.M.
Nguồn: baotiengdan.com/2020/06/17/


ĐỂ QUỐC HỘI THỰC SỰ LÀ DIÊN HỒNG
TÔ VĂN TRƯỜNG/ BVN 19-6-2020
Như mọi người đều biết, trước cơn sóng dữ ngoại xâm từ phương Bắc, tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Nhà Trần đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng. Sử chép Vua Trần chỉ mời các bô lão đến dự, có lẽ đấy chỉ là cách diễn giải hình tượng về "những đại biểu trí tuệ do dân bầu, dân cử" đến để cùng Vua tôi Nhà Trần vừa bàn kế sách đánh giặc, vừa để động viên tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng và củng cố niềm tin chiến thắng.
Để từ đó, quân dân nước Việt dũng cảm chiến thắng oanh liệt giặc Nguyên hung bạo. Các triều đại trước đó và sau đó với những hình thức và quy mô khác nhau đều có những Diên Hồng như vậy để bàn việc giữ nước và dựng nước. Ngày nay trước những cơ hội và thách thức to lớn rất cần phải có nhiều đột phá, mới mong có được một "Diên Hồng" theo đúng nghĩa của nó. 
Nhiều cử tri có chung nhận xét, Quốc hội hiện nay là diễn đàn chính thức có hiệu quả nhất, nếu không phải là duy nhất, để dân có thể phản biện chính sách và người thực thi chính sách, nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của dân và giữ mối liên hệ giữa dân và Quốc hội. Dù việc này còn yếu, nhưng nếu không, Quốc hội không còn là Quốc hội nữa.
Có quá nhiều việc phải làm để Quốc hội thực hiện chức năng này, điều mà khá nhiều lãnh đạo không muốn, thậm chí có người lẩn tránh và tìm cách đối phó, dù không dám nói ra vì rất đơn giản, nói ra là tự sát về chính trị.
Theo Luật Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nguyên tắc quan trong nhất là thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số, nhưng đáng tiếc đây là điều thường xuyên bị vi phạm ở các hình thức và cấp độ khác nhau.
Nhưng dù thế nào, Quốc hội cũng đang có những bước tiến đáng ghi nhận. Trong điều kiện hiện nay, những hoạt động có trách nhiệm, chủ động và trí tuệ của một số ít đại biểu Quốc hội, đặc biệt là những đại biểu hiểu sâu về luật pháp, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Những ý kiến của họ rất đáng quý, có giá trị thức tỉnh công luận, góp phần khẳng định vai trò đại biểu nhân dân của Quốc hội.
Dân là nước
Cách đây hơn 600 năm, cảm khái sau thất bại của nhà Hồ, dẫn đến cảnh nước mất nhà tan, Cụ Nguyễn Trãi đã thốt lên một câu để lại cho muôn đời: "Lật thuyền mới biết dân như nước”. 
Xưa nay, bất cứ chính thể nào không lấy dân làm gốc hoặc chỉ nói cho đẹp, cho phải phép, trước sau đều phải trả giá. Các nhà Nho thì nói chữ: "Quốc dĩ dân vi bản" nghĩa là "Nước lấy dân làm gốc". Còn dân gian thì vừa có câu nói chữ: “Quan nhất thời, dân vạn đại” vừa có câu nôm na thẳng toẹt hơn: “Dân thương dân lập bàn thờ; Dân ghét dân đái ngập mồ, thối xương”. Những câu ấy dành cho mỗi vị quan tự soi đã đành, nhưng suy rộng ra, dân gian cũng gửi vào đó không chỉ lời nhắn cho từng vị.

Khâu đột phá của Quốc hội
Theo tôi tìm hiểu, được biết cách đây hơn 16 năm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An lắng nghe những ý kiến tư vấn trí tuệ và tâm huyết của một số vị đại biểu Quốc hội, đã mạnh dạn chọn đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn làm “đột phá khẩu”. Uy danh của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An có lẽ khởi phát từ việc này và hình ảnh Quốc hội lúc bấy giờ đã thay đổi đẹp đẽ trong con mắt cử tri.

Nhắc lại câu chuyện trên để thấy rằng, việc đổi mới một thiết chế quyền lực chính trị - pháp lý không giản đơn là hệ thống các giải pháp hay ý chí chủ quan của một người có thẩm quyền. Điều quan trọng là năng lực lắng nghe, khả năng nhận diện và sự lựa chọn khâu đột phá thích hợp với bối cảnh hiện tại, mà không nhất thiết phải tuân theo trình tự, xét về mặt lý thuyết. Điều này lệ thuộc rất lớn vào tầm tư duy, sự chí thành và cái tâm trong sáng, không phân biệt ngôi vị, thứ bậc trong quan hệ với đồng chí của mình. Những kẻ mạo danh “nguyên khí, hiền tài” không thể có được phẩm chất này, bởi quan lộ của họ không phải bởi tài năng và phẩm hạnh; họ ngạo mạn với ảo giác về sự xuất chúng của bản thân một cách bệnh hoạn. Bởi vậy, họ áp đặt ý chí từ tư duy mông muội, hoang dã, đang trong quá trình tiến hoá vào hệ thống do mình điều khiển. Đó là sự phá hoại vô cùng nghiêm trọng, mà chỉ có lịch sử mới đủ năng lực phán xét.
Để hội trường Quốc hội trở thành Diên Hồng
1. Đầu tiên, hãy chế định cho đúng đắn và thực thà tuân thủ chế định về vị trí, tính chất và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội ngang tầm với nguyên tắc hiến định, đó là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Không nên tiếp tục thi hành Hiến pháp, pháp luật theo cách “Nói vậy mà không phải vậy”.
Cần phải đổi mới Quốc hội cả về tổ chức và hoạt động. Chúng ta chưa chấp nhận tam quyền phân lập, nên trước mắt phải từng bước thay đổi theo hướng giảm dần số đại biểu Quốc hội là thành viên Chính phủ và chủ tịch UBND các địa phương, tiến tới giảm số lượng các đại biểu là lãnh đạo các ban Đảng và bí thư địa phương,  đồng thời tăng số đại biểu chuyên trách (đúng ra là chuyên nghiệp) với tiêu chuẩn chuyên môn và năng lực là chính.
2. Nhân vật trung tâm của Quốc hội chính là đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội phải thực sự là người có đủ đức, tài để đại diện cho Dân và dám nói lên ý chí, nguyện vọng của Dân, thực thi quyền làm chủ của Dân. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách nâng lên phải đi đôi với năng lực của họ. Hiện nay, Quốc hội có hơn 1/3 (một phần ba) đại biểu là chuyên trách nhưng hầu hết hoạt động rất mờ nhạt. Chỉ cần khoảng 10-20% đại biểu Quốc hội thực sự chuyên nghiệp, đúng tầm chính trị gia đã là hồng phúc lắm rồi! Đại biểu Quốc hội tiêu biểu như luật sư Trương Trọng Nghĩa dù không phải là đại biểu chuyên trách nhưng hoạt động của luật sư Nghĩa xứng tầm một chính trị gia. 
3. Muốn có những chính trị gia thực sự đủ tâm, đủ tầm thay mặt cho Dân quyết định việc nước thì phải chọn ứng cử viên một cách sòng phẳng, rộng rãi từ xã hội, chứ không nên máy móc duy trì nguyên tắc bất thành văn “Đảng cử, dân bầu”. Cần có cơ chế tranh cử tưởng minh, để hiền tài xuất lộ và trở thành chính khách chuyên nghiệp thông qua bầu cử dân chủ. Các đại biểu đều phải được bầu một cách có cạnh tranh, ít nhất họ phải diễn thuyết trước cử tri nơi họ sống, có cam  kết chương trình hành động. Ngoài ứng cử viên do Đảng giới thiệu, các tổ chức khác cũng có quyền giới thiệu, kể cả tổ dân phố, các hội nghề nghiệp... và đừng lấy Mặt trận Tổ quốc làm cơ quan hiệp thương để loại bỏ ứng viên mà nên lấy sự đồng thuận của cử tri qua thăm dò công khai để lựa chọn danh sách bầu. Cũng nên khuyến khích tự ứng cử và không hạn chế người ngoài Đảng, không hạn chế tuổi. Mặt khác, phải có cơ chế thuận lợi để cử tri được thực hiện quyền bãi miễn đại biểu nếu thấy họ không đủ năng lực, phẩm chất để đại diện cho mình.
Làm được như vậy, sẽ có các chính trị gia đúng nghĩa hoạt động trong Quốc hội (họ chính là nguồn nhân sự quan trọng bậc nhất của rường cột quốc gia) bởi họ biết khởi xướng chính sách và thuyết phục ủng hộ chính sách, thay vì phần lớn những “hình nhân” cắm mặt đọc bản viết sẵn mà không chắc có phải do họ tự viết ra hay không, khiến cho cử tri cả nước vô cùng thất vọng.
Nếu thực sự cầu thị, thì ngay trong khi diễn ra cuộc bầu cử Quốc hội khoá tới, cần tổ chức điều tra dư luận và phỏng vấn cử tri xem bao nhiêu phần trăm cử tri có thông tin về ứng viên, hiểu rõ quy chế bầu cử, thực sự quan tâm đến bầu cử, hài lòng với thể thức bầu cử,... và công bố ngay sau khi kết thúc bầu cử.
4. Về bộ máy của Quốc hội, đừng biến Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thành một cơ quan cấp trên của các cơ quan khác của Quốc hội và cấp trên của đại biểu Quốc hội. UBTVQH thực chất chỉ là cơ quan chuẩn bị tổ chức các kỳ họp Quốc hội và chỉ được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hay giám sát tối cao khi Quốc hội giao. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội cũng chỉ là các đại biểu Quốc hội được phân công điều hành hoạt động của Quốc hội theo đúng thủ tục, trình tự đã được luật định, không phải là thủ trưởng của Quốc hội.
5. Các Ủy ban của Quốc hội là hình thức tổ chức bên trong của Quốc hội không phải là một thiết chế tổ chức hành chính, không thể thiết lập chế độ vận hành như các cơ quan hành pháp. Chức vụ đứng đầu các Ủy ban có thể luân phiên đảm nhiệm bởi từng thành viên của Ủy ban, thay vì do toàn thể Quốc hội bầu giữ trọn nhiệm kỳ như hiện nay (điều này vô cùng trái với nguyên lý vận hành chế độ nghị viện).
6. Thay đổi căn bản bộ máy giúp việc cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Đó phải thực sự là bộ máy chuyên nghiệp, thành thục về kỹ năng, do Tổng Thư ký đứng đầu, được cấu thành bởi ba nhóm trụ cột: (1) Nghiên cứu chiến lược và phản biện chính sách; (2) Tham mưu, tổng hợp về quy trình, thủ tục và (3) Dịch vụ hậu cần kỹ thuật.
Nhân sự của bộ máy giúp việc, muốn trở thành đại biểu Quốc hội phải rời bỏ bộ máy ấy để tham gia các hoạt động chính trị - xã hội trước khi tranh cử.
Thay cho lời kết
Sống trong xã hội quân chủ mà Ức Trai Tiên sinh luôn hiểu thấu vai trò của Dân. Từ chỗ so sánh Dân như nước, Người khẳng định: “Đẩy thuyền là Dân; lật thuyền cũng là Dân”. Tiếc là nhiều người lúc chưa đắm thuyền thì tự đắc, mê muội, khi biết được thì đã quá trễ rồi! Bởi vậy, để hội trường Quốc hội thực sự là Diên Hồng thì phải thượng tôn Tổ quốc! Mà Tổ quốc không vô hình, rất hữu hình – chính  là Dân.
Chừng nào vẫn coi Quốc hội chỉ là “trang trí” thì đó là tự dối mình, dối dân, trước mắt không làm cho Nước mạnh Dân giàu, còn về lâu dài thì hậu quả không cần đến bậc tiên tri đại tài cũng đoán định được.
T.V.T.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét