Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

20190728. BÀN VỀ 'THOÁT TRUNG' VÀ 'THÂN MỸ'

ĐIỂM BÁO MẠNG
VẤN ĐỀ THOÁT TRUNG VÀ THÂN MỸ

FB TRƯƠNG NHÂN TUẤN/ BVN 25-7-2019

Kết quả hình ảnh cho THOÁT TRUNG

Như thông lệ, hễ mỗi lần TQ có những hành vi xâm phạm chủ quyền (hay các quyền phụ thuộc chủ quyền) biển đảo của VN, Biển Đông trở nên căng thẳng, thì trong nội bộ VN, tầng lớp gọi là “trí thức” (trong hay ngoài Đảng) hô hào việc “thoát Trung” (song song với việc kết thân với Mỹ). Việc này lặp đi lặp lại nhiều lần khiến các việc “thoát Trung” và “thân Mỹ” được xem như là một giải pháp để VN thoát ra khỏi sự ràng buộc (và hiếp đáp) của TQ. Vậy thế nào là “thoát Trung” và thế nào mới gọi là “thân Mỹ” ? Không (hay ít) thấy ai có lời giải thích nội hàm của hai việc này một cách thấu đáo.
Thực tế trong lịch sử VN có nhiều phen “thoát Trung”.
Về “văn hóa”, sau khi bị Pháp thuộc, nhà cầm quyền bảo hộ Pháp đã có những nỗ lực buộc VN “thoát” khỏi ảnh hưởng văn minh Trung Hoa bằng cách dạy chữ “quốc ngữ” cho dân VN đồng thời mở các trường, từ cấp tiểu học cho tới đại học, để đào tạo nhân sự. Người Pháp gọi đó là “devoir de civilisation - bổn phận khai hóa”. Đến năm 1954, Pháp bắt đầu rời VN thì quá trình “thoát Trung” về văn hóa xem như đã hoàn tất.

Ở miền Bắc, việc “thoát Trung” được tiếp tục thể hiện qua các cố gắng “Việt hóa” các từ ngữ gốc Hán. Việc này hiệu quả ra sao nếu ta nhìn lại các từ (ngô nghê đầu Ngô mình Sớ) còn lại đến bây giờ. Nhưng về chính trị (ý thức hệ) thì miền Bắc lại “rập khuôn” mô hình cộng sản (nông dân) của TQ (khác với mô hình cộng sản công nhân của LX). VNDCCH cũng cho phát hành tiền tệ trên đó có viết cả chữ Hán.
Ở miền Nam việc “thoát Trung” vẫn tiếp tục. Về ý thức hệ với sự tiếp nhận nền “dân chủ kiểu Mỹ”. Về kinh tế chính quyền ông Diệm tìm cách gạt ảnh hưởng của người Hoa lên nền kinh tế quốc dân của VN.
Sau 1975, do sự xung đột về đường lối áp dụng “ý thức hệ” giữa hai đàn anh TQ và LX. VN ngả về LX chống TQ. VN tiếp tục “thoát Trung” cho đến năm 1990, qua các việc “thanh trừng” những “đồng chí” nào thân TQ. Khúc quanh “Hội nghị Thành Đô”, VN “quẹo cua” 180° trở lại rập khuôn ý thức hệ chính trị “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, cái tên khác một chút nhưng 100% tư tưởng là sản phẩm của Đặng Tiểu Bình.
Kể từ đó (Hội nghị Thành đô) VN lệ thuộc TQ vào TQ, từ ý thức hệ chính trị cho tới văn hóa, kinh tế.
Bây giờ muốn “thoát Trung” và “thân Mỹ”. Nhưng “thoát Trung” là thoát về cái gì? về ý thức hệ? văn hóa? kinh tế?
Còn “thân Mỹ” là thân như thế nào?
Theo tôi, quan trọng hơn hết trong nội hàm “thoát Trung” là vấn đề “ý thức hệ chính trị”. Các quốc gia như Nam Hàn, Nhật… văn hóa ở các xứ này vẫn bàng bạc văn hóa Trung Hoa. Về kinh tế, các nước này gắn bó với TQ đến mức không thể tháo gỡ được nữa. Ta có thể nói là TQ được phát triển hôm nay là nhờ Nhật, Nam Hàn (và tài phiệt người Hoa ở hải ngoại như Hong Kong và Đài Loan).
Thử nhìn hai trường hợp Đài Loan và Hong Kong. Dân chúng hai vùng lãnh thổ này không bao giờ chịu nhận họ là “Trung Quốc”. Gặp trường hợp bị gọi là “chinese-chinois” họ liền đính chánh: “tôi là người Hong Kong” hay “tôi là người Đài Loan, không phải TQ”. Mặc dầu họ là người Hán 100% và lãnh thổ 100% thuộc về TQ.
Về Hong Kong và Đài Loan, một số chi tiết quan trọng cần nói rõ một chút.
Trên danh nghĩa pháp lý (de jure), Đài Loan và Hong Kong là hai lãnh thổ thuộc về một quốc gia duy nhứt mang tên Trung Quốc. Trên thực tế (de facto), Hong Kong là mô hình “quốc gia hai chế độ”. Lãnh thổ Hong Kong được Anh trả lại cho TQ, với điều kiện Bắc Kinh nhìn nhận “quyền tự trị” cho lãnh thổ này, trong một khoảng thời gian là 50 năm.
Trường hợp Đài Loan có phần phức tạp hơn. Đài Loan là một lãnh thổ thuộc Nhật (vĩnh viễn) theo Hiệp ước Simonoseki 1894. Đến khi Nhật thua trận Thế chiến thứ II, Nhật buộc phái trả lại Đài Loan cho Trung Hoa. Điều này được khẳng định qua Hội nghị quốc tế San Francisco 1951. Tức là trên danh nghĩa pháp lý (de jure) Đài Loan là một lãnh thổ thuộc về quốc gia mang tên Trung Hoa. Nhưng sau 1949, chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng giới Thạch thua Hồng quân của Mao Trạch Đông phải “di tản” ra Đài Loan. Từ đó có hai “Trung Hoa”, một có chính phủ ở Bắc Kinh, một có chính phủ ở Đài bắc.
Cả hai đều tự nhận là “chính phủ đại diện chính thức” cho toàn thể lãnh thổ Trung Hoa. Tại LHQ, phe Quốc dân Đảng được ghế đại diện cho tới năm 1971. Từ 1971 đến nay ghế LHQ thuộc về Bắc Kinh. Như vậy trường hợp TQ lục địa và Đài Loan, về “pháp lý” người ta gọi đó là “quốc gia bị phân chia”. Điều này khá tương đồng trường hợp VN trong thời kỳ 1954-1975. Mỗi bên VN là những “quốc gia chưa hoàn tất”. Nhưng trong trường hợp Đài Loan từ khi có văn bản ký kết giữa hai đại diện ở Singapour đầu thập niên 90, gọi là “đồng thuận Singapour”, thì cách gọi giữa hai bên có phần thay đổi: một quốc gia Trung Hoa nhưng có nhiều cách lý giải.
Ta thấy Nam hàn, Đài Loan, Hong Kong (trong chừng mực Nhật)… văn hóa ở đây thấm đượm sâu xa văn hóa Trung Hoa. Kinh tế các quốc gia (và vùng lãnh thổ) này “liên thuộc” chặt chẽ với TQ. Nhưng rõ ràng về nội trị họ giữ vững độc lập (ngoài trừ Hong Kong), về kinh tế họ thịnh vượng và quốc phòng họ thừa sức chống lại TQ (dĩ nhiên nhờ những kết ước an ninh hỗ tương với Mỹ). Điểm chung các quốc gia này là có nền “dân chủ pháp trị” vững chắc.
Vì vậy việc điều quan trọng hơn cả trong việc “thoát Trung” là “ý thức hệ chính trị”. Ý thức hệ thuộc về tư tưởng mà tư tưởng mới “chỉ đạo” mọi hành động.
Từ nhiều thập niên nay tôi không hô hào “thoát Trung” mà chỉ kêu gọi “dân chủ hóa chế độ” và xây dựng nền tảng “pháp trị”. Ngay cả “hồ sơ Biển Đông” mà tôi bỏ nhiều năm nghiên cứu, kết luận của tôi vẫn là: muốn bảo vệ chủ quyền lãnh thổ VN phải ra luật “hòa giải quốc gia” mà thực chất (hòa giải quốc gia) là “dân chủ hóa chế độ”. VN phải kế thừa di sản VNCH mới có thể khẳng định danh nghĩa chủ quyền ở HS và TS, sau đó tìm cách giải quyết tranh chấp với TQ thông qua một trọng tài quốc tế.
Còn về “thân Mỹ”. Tôi có viết nhiều lần là 24 năm vói 3 đời Tổng thống Mỹ mà ai cũng có cảm tình với dân chúng VN là Clinton, Bush (con) và Obama. VN đã bỏ lỡ không biết bao nhiêu cơ hội để “thân thiết” hơn với Mỹ (so với bây giờ). Lãnh đạo CSVN vì muốn bảo vệ “đại cục” với TQ mà bỏ quên đi cái “cục” lớn nhứt là sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và lợi ích của dân tộc. Những người CSVN yêu chủ nghĩa hơn yêu nước. Những hành vi, chính sách của họ chỉ nhằm củng cố quyền lãnh đạo của Đảng chớ không nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc cho người dân, theo tôn chí “dân giàu nước mạnh”.
Bây giờ, thời Trump, lại hô hào “thân Mỹ”. Ngay cả học giả Mỹ (hàng trăm người) vừa viết thư ngỏ lên ông Trump yêu cầu phải làm rõ chính sách của Mỹ. Thực chất căng thẳng giữa Mỹ với TQ là về kinh tế hay cạnh tranh địa chiến lược ?
Với chính sách “đụng đâu đánh đó” của Trump hiện nay, cả thế giới đều bị thiệt hại, không chỉ TQ. Với những hành vi được cho là “tùy hứng”, như đơn phuong rút khỏi hiệp ước về nguyên tử với Iran, nói là để “làm khó” TQ, nhưng Mỹ đã vi phạm luật quốc tế. (Vì Iran vẫn tôn trọng hiệp ước trong khi Mỹ đơn phương trừng phạt bằng cách cấm vận Iran). Về hồ sơ Bắc Hàn, sự tùy hứng kéo dài của ông Trump khiến uy tín nước Mỹ bị tổn thương mà hiệu quả không có chi. Khả năng nguyên tử của Bắc Hàn bây giờ có thể phủ trùm lãnh thổ Hoa Kỳ.
Bây giờ thử đặt câu hỏi: làm thế nào để VN thân Mỹ? Làm sao có câu trả lời khi mà cả thế giới, ngay cả học giả Mỹ, vẫn không biết đâu là đường lối, chính sách của Mỹ hiện nay.
Nếu chiến tranh thương mại Mỹ-Trung chỉ đơn thuần có mục đích thương mại, thì VN tiếp cận cách nào cũng không tránh khỏi mũi dùi sắp tới của ông Trump.
Còn nếu sự căng thẳng thương mại Mỹ-Trung là thể hiện bước đầu của mục tiêu địa chiến lược thì VN mọi cách phải tiếp cận “thân” với Mỹ thế nào để VN có “vị thế” quan trọng trong cuộc cạnh tranh địa chiến lực này. Nhưng với ông Trump, sáng nắng chiều mưa, tiếp cận không đúng thì VN sẽ trở thành con “chốt thí”.
Trong quá khứ, Mỹ đạt được mục tiêu chiến lược “thắng cuộc chiến tranh lạnh” trong hơn 4 thập niên. Mục tiêu của Mỹ sắp tới là “dân chủ hóa” TQ hay là đánh cho TQ tan nát thành nhiều quốc gia nhỏ ? Câu hỏi (coi bộ hay) là thời gian là bao lâu ?
Vì vậy những lời hô hào khơi khơi “thoát Trung” và “thân Mỹ” hiện nay chỉ nhằm “mị dân”, nói cho sướng miệng, không thể hiện cái gì cụ thể.
Theo tôi, không có cách nào khác, muốn “thoát Trung” là phải “dân chủ hóa chế độ”. Và cách tốt nhứt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là “hòa giải quốc gia” để kế thừa di sản VNCH. Từ đó lấy làm căn bản để giải quyết tranh chấp với TQ bằng một trọng tài quốc tế.
Còn “thân Mỹ”, theo tôi, cách tốt nhứt của VN hiện nay là “người ta sao mình làm vậy”. Không có gì là gấp gáp.
T.N.T.

GIA HẠN HOẠT ĐỘNG GIÀN KHOAN Ở BÃI TƯ CHÍNH, VIỆT NAM TIẾP TỤC 'BẤT TUÂN' TRUNG QUỐC ?

KHÁNH AN/ VOA/ BVN 27-7-2019


Giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động trên Biển Đông vào ngày 29/4/2018.

Việt Nam vừa ra thông báo rộng rãi về việc gia hạn thời gian hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính, một động thái được cho là “bất tuân” tiếp theo của Hà Nội sau khi khước từ yêu cầu của Bắc Kinh hồi tháng 6 là rút lại giàn khoan này, dẫn đến việc Bắc Kinh thực hiện lời đe dọa “hành động mạnh” bằng việc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến khu vực, theo tiết lộ của một chuyên gia nghiên cứu với VOA.
Trong khi các dữ liệu theo dõi cho thấy tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động gần khu vực Bãi Tư Chính ở Biển Đông bất chấp phản đối từ phía Việt Nam và chỉ trích của Mỹ, một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.
Trao đổi với VOA hôm 25/7, TS. Hà Hoàng Hợp xác nhận thông tin về những đòi hỏi của Trung Quốc hồi tháng 6.
“Đúng là họ có trao đổi với một số nơi ở Việt Nam điều kiện như thế”, TS. Hà Hoàng Hợp khẳng định với VOA. “Họ đòi Việt Nam phải bắt công ty Nhật và công ty Nga phải rút khỏi chỗ đấy. Nếu không rút thì họ sẽ có hành động mạnh”.
Trung Quốc đã thực hiện lời đe dọa bằng cách đưa con tàu dài 88 mét, rộng 20,4 mét, với tổng trọng tải 6.918 tấn đến “thăm dò” trong khu vực gần Bãi Tư Chính kể từ ngày 3/7. Vụ việc đã đẩy căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, thuộc Bộ Giao thông Vận tải, được truyền thông Việt Nam trích dẫn ngày 25/7 cho biết hoạt động khoan của khu vực Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn do công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) “dự kiến kéo dài đến hết ngày 15/9/2019”.
Trang Twitter IndoPacific_SCS_Info, nơi thường xuyên cập nhật tin tức về Biển Đông, nói rằng hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 lẽ ra chấm dứt vào ngày 30/7 theo như kế hoạch ban đầu, nhưng “Việt Nam không lùi bước”.
Theo phân tích của TS. Hà Hoàng Hợp, động thái thông báo gia hạn từ phía Việt Nam là “có và không” liên quan đến căng thẳng ở Bãi Tư Chính.
TS. Hà Hoàng Hợp nói việc gia hạn là do các công ty khai thác dầu khí của Nga, Nhật thực hiện và Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam ra thông báo là để tàu bè đi lại có thể tránh xa khu vực này.
“Hợp đồng ban đầu nói có khả năng [hoạt động khai thác] kéo dài 60-90 ngày. Mà bắt đầu khoan từ ngày 29/6 tới giờ chưa được một tháng, thì phải khoan thêm thì mới đạt kết quả về mặt kỹ thuật”, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA.
Còn yếu tố “có liên quan”, theo ông, là vì Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam rút giàn khoan này đi nhưng phía Việt Nam khước từ.
Theo chuyên gia của Viện Nghiên Đông Nam Á ISEAS, động thái thông báo gia hạn hoạt động từ phía Việt Nam tái khẳng định một lần nữa rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là “không hợp lý”.
“Người Nga đã khai thác ở chỗ đó từ năm 2013, sau khi mua lại cổ phần từ công ty BP của Anh quốc và một cố phần nhỏ của công ty Conoco Philips. Từ đó đến giờ họ làm rất tốt, và ai cũng khẳng định khu vực đó là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không tranh cãi được”.
Trong một diễn tiến cùng ngày 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền” và đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc về hoạt động của Hải Dương Địa Chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông.
K.A.

HÀNH ĐỘNG TRUNG QUỐC TẠI BIỂN ĐÔNG ĐANG ĐẨY VIỆT NAM GẦN MỸ HƠN

LÊ HỒNG HIỆP/ NCQT/ BVN 27-7-2019



Sau một thời gian tạm lắng ngắn ngủi khi Bắc Kinh dường như kiềm chế không tiến hành các hành động gây hấn đối với các bên tranh chấp khác ở Biển Đông, Trung Quốc lại bắt đầu dương oai diễu võ trong những tuần gần đây. Từ giữa tháng 6, một tàu Hải cảnh Trung Quốc đã quấy rối các tàu Việt Nam đang phục vụ giàn khoan dầu Hakuryu-5 của Nhật Bản tại Bãi Tư Chính, nơi Việt Nam coi là thềm lục địa của mình nhưng Trung Quốc đòi là một phần thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp.
Từ ngày 3 tháng 7, Trung Quốc cũng đã cử tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 để thực hiện một cuộc khảo sát dầu khí tại một khu vực rộng lớn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hộ tống tàu khảo sát này có ít nhất ba tàu hải cảnh, khiến Việt Nam phải gửi các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư của mình tới hiện trường để theo dõi đội tàu Trung Quốc. Cuộc đối đầu này gợi nhớ đến một cuộc tranh chấp tương tự vào năm 2014 vốn đưa quan hệ song phương xuống mức thấp nhất trong nhiều thập niên.
Vào ngày 19 tháng 7, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ lên án các hành động của Trung Quốc và, thú vị hơn, đã kêu gọi “tất cả các bên liên quan và cộng đồng quốc tế” đóng góp vào việc duy trì trật tự, hòa bình và an ninh ở Biển Đông.
Ngày hôm sau, Hoa Kỳ dường như đáp lại lời kêu gọi của Việt Nam khi Bộ Ngoại giao nước này đưa ra tuyên bố bày tỏ quan ngại về “sự cưỡng ép của Trung Quốc đối với hoạt động dầu khí ở Biển Đông” nói chung và sự can thiệp của Trung Quốc vào “các hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam” nói riêng. Tuyên bố cũng kêu gọi Trung Quốc “chấm dứt hành vi bắt nạt và không tham gia vào loại hoạt động gây khiêu khích và bất ổn này”.
Tuyên bố của Hoa Kỳ cho thấy có một sự song trùng lợi ích mạnh mẽ giữa Hà Nội và Washington trong việc thách thức các yêu sách trên biển quá mức của Trung Quốc. Trong khi Việt Nam muốn bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình ở Biển Đông, Hoa Kỳ cũng đang tìm cách kiềm chế tham vọng hàng hải của Trung Quốc cũng như các thách thức mà những tham vọng này đặt ra đối với vị thế chi phối của Washington tại khu vực.
Nếu xét sự đối đầu chiến lược ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc, các hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông khiến người ta đặt câu hỏi về tính hữu lý trong chính sách đối ngoại của nước này: đúng vào lúc mà Trung Quốc đang cần có thêm nhiều bạn bè và đồng minh hơn bao giờ hết để đối phó với sự thù địch của Mỹ, thì Trung Quốc lại đang khiến Việt Nam trở nên xa cách và đẩy Hà Nội sâu hơn vào vòng tay Washington.
Việt Nam từ lâu đã theo đuổi một sự cân bằng chiến lược trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Hà Nội coi trọng quan hệ với Bắc Kinh, bất chấp tranh chấp Biển Đông, bởi vì tầm quan trọng của người láng giềng khổng lồ phương Bắc đối với an ninh và thịnh vượng của đất nước, cũng như sự gần gũi về ý thức hệ giữa hai đảng cộng sản cầm quyền.
Vì vậy, trong khi muốn phát triển quan hệ với Mỹ, Việt Nam cũng đã thận trọng để không làm tổn thương quan hệ vốn có với Trung Quốc. Ví dụ, vào năm 2013, khi Hoa Kỳ thúc đẩy Việt Nam thiết lập một mối quan hệ đối tác chiến lược song phương, Hà Nội thay vào đó đã chọn quan hệ “đối tác toàn diện” vì lo ngại rằng quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ sẽ làm Bắc Kinh phật lòng.
Tuy nhiên, Trung Quốc dường như không chú ý đến các mẫn cảm chiến lược của Việt Nam. Bằng cách hung hăng áp đặt các yêu sách của mình ở Biển Đông, Trung Quốc đang thúc đẩy Việt Nam thay đổi các tính toán chiến lược lâu nay bằng cách cân nhắc một sự “xoay trục” dần dần khỏi Bắc Kinh hướng về phía Washington – một quá trình đã được đẩy nhanh kể từ sự cố khủng hoảng giàn khoan năm 2014.
Sau cuộc khủng hoảng đó, một mức độ đồng thuận lớn hơn đã xuất hiện ở Hà Nội cho rằng quan hệ chiến lược với Mỹ – đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng – cần phải được tăng cường để đối trọng lại hành vi cưỡng bức của Trung Quốc trên Biển Đông.
Một năm sau, Việt Nam đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Quốc phòng với Mỹ và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên đến thăm Nhà Trắng.
Trong chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama tới Hà Nội vào năm 2016, Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Cùng năm, Mỹ đã đưa Việt Nam vào Sáng kiến An ninh Hàng hải Đông Nam Á – cung cấp cho Hà Nội các hỗ trợ xây dựng năng lực hàng hải đáng kể.
Năm 2017, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc là một trong những nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên đến thăm Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Donald Trump, người cũng đã chọn Việt Nam làm điểm đến cho chuyến thăm đầu tiên của mình tới Đông Nam Á.
Chuyến thăm lịch sử của tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson đến Đà Nẵng vào tháng 3 năm ngoái cũng là một bước ngoặt quan trọng khác trong mối quan hệ chiến lược ngày càng tăng giữa hai cựu thù.
Và vào tháng 6 vừa qua, Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng Mỹ đã liệt kê Việt Nam là một đối tác an ninh mới nổi quan trọng mà Washington muốn tăng cường quan hệ chiến lược.
Tất cả những diễn biến này phản ánh một mối quan hệ ngày càng gần gũi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi nói đến việc làm cho mối quan hệ chiến lược song phương trở nên thực chất và nổi bật hơn, Việt Nam dường như vẫn còn một số do dự. Chẳng hạn, hồi tháng 10 năm ngoái, Việt Nam đã thông báo hủy 15 hoạt động hợp tác quốc phòng đã lên kế hoạch với Mỹ cho năm 2019, có thể để Trung Quốc không cảm thấy lo lắng trong bối cảnh gia tăng đối đầu chiến lược giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Gần đây, nhằm chuẩn bị cho chuyến thăm thứ hai của TBT Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ, đã có một số tranh luận nội bộ ở Hà Nội về việc Việt Nam có nên đồng ý nâng cấp quan hệ với Washington lên mức “đối tác chiến lược” hay không, một điều mà Mỹ đã thúc đẩy từ lâu. Một lần nữa, việc Hà Nội mong muốn không làm Trung Quốc bất an vẫn là một trở ngại lớn đối với nỗ lực của Mỹ.
Tuy nhiên, với sự hung hăng trở lại tại Biển Đông, Bắc Kinh đang gia tăng vị thế của những quan điểm muốn cứng rắn hơn với Trung Quốc tại Hà Nội, đồng thời củng cố hình ảnh của Mỹ như là một đối tác tốt hơn cho Việt Nam.
Rốt cuộc, tại sao Việt Nam phải quan tâm đến những mẫn cảm an ninh của Trung Quốc nếu Bắc Kinh không quan tâm đến những lo lắng an ninh chính đáng của Hà Nội?
Trong khi đó, sự cởi mở của Washington đang ngày càng trở nên hấp dẫn – đặc biệt là việc Mỹ mong muốn đưa Việt Nam tham gia vào một cấu trúc an ninh “khu vực kết nối”, điều không chỉ giúp tăng cường vị thế đàm phán của Việt Nam trước Trung Quốc mà còn tạo điều kiện cho Việt Nam được hưởng lợi nhiều hơn từ những nỗ lực của Mỹ nhằm tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng cho các nước đối tác nhằm giúp Mỹ ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Do đó, chúng ta không nên quá ngạc nhiên nếu trong một tương lai không xa Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và tăng cường hơn nữa quan hệ quốc phòng, bởi các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đang làm giảm sức hấp dẫn chiến lược của Bắc Kinh, trong khi mang lại cho Mỹ hình ảnh của một đối tác an ninh mà Việt Nam nên lựa chọn.
Nếu Trung Quốc thực sự muốn Việt Nam quan tâm đến các quan ngại về an ninh của mình, thì Trung Quốc cũng phải chú ý đến các quan ngại của Việt Nam. Rốt cuộc, không ai khác mà chính đại học giả Trung Quốc Khổng Tử là người đã từng nói một cách khôn ngoan rằng: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” – Đừng làm với người khác những gì mình không muốn người khác làm với mình!
*
L.H.H.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét