Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2020

20200502. BÀN VỀ BIỂU TƯỢNG CÔNG LÝ CỦA TOÀ ÁN

ĐIỂM BÁO MẠNG

TƯỢNG VUA LÝ THÁI TÔNG Ở TOÀ ÁN TỐI CAO 'NHẦM VUA, NHẦM BIỂU TƯỢNG'

TRẦN HẬU YÊN THẾ/ BBC 29-4-2020

Trong việc dựng tượng vua Lý Thái Tông ở trụ sở Tòa án tối cao có đôi chút nhầm lẫn. Nhầm ở đây là chọn không đúng người, đặt tượng không đúng chỗ, phong cách tượng không cũng không đúng thời, tư duy biểu tượng không đúng cách.
Trước khi đi vào việc NHẦM tôi xin được bàn về sự LẪN của việc này.
Từ góc độ chuyên môn, một người nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, tôi xin nói về sự lẫn lộn lâu nay trong một số khái niệm cơ bản. Thực chất đây là loại hình monumental sculpture trang trí kiến trúc. Tượng vua Lý Thái Tông được ngành Tòa án chọn làm biểu tượng của công lý theo công văn 141/TANDTC-VP ngày 23/4/2020 có kích thước cao 5,3m cho nên chắc chắn đó là monumental sculpture -điêu khắc tưởng niệm.
Mục 'monumental' trong Từ điển nghệ thuật và nghệ sĩ (A Dictionary of Art and Artists) của Peter và Linda Murray mô tả nó như sau, nhấn mạnh đến nội hàm tư tưởng của tác phẩm như: để truyền đạt những phẩm chất vĩ đại, cao quý.
Các tác giả khẳng định 'monumental' không phải là từ đồng nghĩa với 'Lớn'.
Cũng theo phối cảnh thuyết minh về vị trí thì tác phẩm đặt ở lối sảnh chính vào trụ sở Tòa án nhân dân tối cao nên tượng này cũng thuộc dạng điêu khắc trang trí kiến trúc (decorative sculptures). Căn cứ hai điểm không thể phủ định để bàn về chuyện LẦM và LẪN ở đây.
Những ý kiến của tôi sẽ đi từ góc độ lịch sử văn hóa Việt Nam sau đó đến lịch sử nghệ thuật.
Bây giờ xin đi vào từng cái Nhầm cụ thể.


Mô hình TAND Tối cao với tượng Lý Thái TôngBản quyền hình ảnhTRAN HAU YEN THE
Image captionMô hình TAND Tối cao với tượng Lý Thái Tông

Chọn nhầm người

Không nên chọn vua và càng không nên chọn vua Lý Thái Tông. Trước tiên, chọn vua là biểu tượng công lý hay biểu tượng ngành xét xử thì không phù hợp với bối cảnh chính trị hiện đại. Vua là cũng là người, mà là con người khó lòng thoát khỏi tư ý, thiên vị. Cho nên ở các nước phương Tây ngay trong thời phong kiến, người ta không chọn vua mà phải sáng tạo nên Nữ thần Công lý để lo việc phán xử.
Mà ngay cả khi đã là thần thánh, người ta cũng cho bà bịt mắt để xét xử chỉ căn cứ vào chứng cứ chứ không bị chi phối bởi tình cảm, bởi những những nhầm lẫn do các giác quan đưa lại. Nếu cứ là vua không lẽ lại phải bịt mắt vua? Thực tế phân quyền, vua lo việc đại sự, không mấy khi xử án.
Dù vô cùng khâm phục tài đức của vị vua anh minh lỗi lạc Lý Thái Tông nhưng tôi không đồng tình việc chọn ngài là biểu tượng công lý cũng như là biểu tượng ngành Tòa án Việt Nam. Việt Nam là đất nước đa sắc tộc. Nên việc lựa chọn các nhân vật phải tính đến những vấn đề phức tạp của lịch sử Việt Nam.

Nữ thần công lý thường được dùng làm biểu tượng của ngành Tòa án ở phương TâyBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionNữ thần công lý thường được dùng làm biểu tượng của ngành Tòa án ở phương Tây

Vua Lý Thái Tông có một vết nhơ mà sử chép lại liên quan đến nàng Mỵ Ê, chính phi của vua Sạ Đẩu (tức Jaya Sinhavarman II). Vua sau khi bình định Chiêm Thành, giết vua Sạ Đẩu, có bắt về hang trăm cung nữ, ca kỹ, thợ giỏi. Trong đó có bà Mỵ Ê vợ vua Jaya Sinhavarman II. Khi về tới đến Lý Nhân, vua triệu bà sang hầu thì Mỵ Ê lấy chiên trắng quấn quanh mình rồi nhảy xuống sông Châu Giang tuẫn tiết.
Nhà thơ Tản Đà có làm bài thơ Tâm sự nàng Mỵ Ê nói về bà:
Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Đó là nỗi đau ngàn năm nay của đồng bào Chăm mà chúng ta không bao giờ được quên.

Chọn nhầm chỗ

Nếu vẫn kiên quyết phải là vua Lý Thái Tông vì người là vị vua anh minh đã soạn ra bộ luật đầu tiên ở Việt Nam, hay bất cứ vị vua nào khác, thì tượng đó phải đặt ở bên Quốc hội – cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân, chuyên trách việc soạn thảo luật, ban hành luật tức lập pháp. Chứ không phải ở đây, trụ sở Tòa án của ngành tư pháp.

Biểu tượng của Hà NộiBản quyền hình ảnhTRAN HAU YEN THE
Image captionLogo biểu trưng của Hà Nội

Nhầm cách hiểu thế nào là tượng đài ở Việt Nam

Theo tôi đánh giá, lối tạo hình danh nhân bằng 'tượng + đài', nghĩa là một tượng đứng trên một cái bệ cao, một các bục cũng do lỗi nhầm lẫn mà ra. Ở Việt Nam lâu nay vẫn dịch 'monumental sculpture' là điêu khắc hoành tráng. Vì đã trót dịch là hoành tráng với ý nghĩa về sự chiếm dụng không gian. Do vậy phần lớn các tượng đài danh nhân không phân biệt vua quan hay lãnh tụ cách mạng, cứ ra ngoài quảng trường là phải đứng. Vì đứng thì nó dễ gây cảm giác hoành tráng hơn ngồi.
Thật không may cho một vị lãnh tụ cách mạng của ta vốn người không cao nên khi dựng tượng lên trở thành điều đàm tiếu trong xã hội tới mức địa phương đã lên phương án làm lại pho tượng khác. Thời của loại tượng này rất phổ biến ở Việt Nam từ thế kỷ trước, nhưng xem ra kém duyên rồi.
Tượng vua đứng ở Việt Nam đầu tiên được làm là vua Lê Thái Tổ được làm năm 1894 do Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải dựng ở phía tây hồ Gươm. Nhưng tượng vua đứng trả gươm cũng hợp lý, dẫu rằng ảnh hưởng tư duy phương Tây của pho tượng này rất rõ.
Vì pho tượng vua Lý Thánh Tông được đặt trong một không gian kiến trúc hiện đại rất Tây phương, thì lối phong cách điêu khắc chân phương này không ăn nhập với tổng thể, thậm chí là lạc lõng, không tương đồng về lịch đại. Theo bức ảnh phối cảnh mặt chính tòa nhà thì bên con đường chính đi vào còn có tượng của nhiều vị chánh án thời nay mặc âu phục, vô tình sự xuất hiện của vua Lý Thái Tông với mũ mão cân đai y phục của ngàn năm trước há chẳng nhầm thời đó sao.

Tượng đài vua Lê Thái Tổ ở Hà NộiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTượng đài vua Lê Thái Tổ ở Hà Nội

Nhầm cách tư duy biểu tượng

Trong truyền thống Á Đông, ở khu vực ngôn ngữ ảnh hưởng chữ Hán có liên quan đến mỹ thuật lễ nghi, đó là chữ trọng – nghĩa cơ bản đầu tiên là trọng lượng, sức nặng của một vật. Một tần suất khá lớn những từ như Tôn trọng, Quan trọng, Quí trọng, Nghiêm trọng, Đức trọng, Thận trọng, Long trọng, Hậu trọng, Chú trọng, Bảo trọng, Trọng trách, Trọng vọng, Trọng thể, Trọng thị, Trọng tâm, Trọng điểm, Trọng khí...và Trọng đại.
Như vậy với người ở khu vực Viễn Đông, TRỌNG thực là một phạm trù tuy không phải là cái có thể cảm thấy trực tiếp bằng thị giác như ĐẠI ( to lớn), nhưng chắc chắn trong nhiều trường hợp, trọng khiến ta phải để tâm nhiều hơn đại.
Chẳng hạn trong tiếng Anh các từ như respect, importantly, cherish, serious, cautious, solemn, focus, take care, responsibility, solemn không có gì chung, liên quan với nhau. Nhưng trong tiếng Hán ( Hán Việt) thì điểm chung trong cấu tạo từ là tất cả các chữ này trong tiếng Việt đều xuất hiện từ [TRỌNG]. Cửu đình ở Huế chính là đỉnh cao điêu khắc “hoành tráng” ở Việt Nam. Lưu ý, trên từng đỉnh đều ghi rõ số trọng lượng.
Nhưng quan trọng hơn, tư duy biểu tượng phương Đông và phương Tây có điểm gặp gỡ ở việc chọn các vật làm tượng trưng. Chẳng hạn trang trí cung đình Huế thường chạm khắc đồ pháp khí của bát tiên như quạt ba tiêu, ngư cổ, kiếm báu, thiết trượng, hồ lô chứ không chạm cụ thể các vị tiên như Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Lã Động Tân, Lý Thiết Quải…
Trong cuộc gặp gỡ Đông Tây thì mẫu logo biểu trưng Hà Nội là ví dụ tiêu biểu cho cách tư duy biểu tượng. Trung tâm của logo chính là thanh gươm mà Lê Lợi đã hoàn trả ở hồ Hoàn Kiếm. Sự tích này được người Pháp sử dụng như một biểu tượng của hòa bình, hai con rồng hai bên là linh vật của thành phố Thăng Long. Hiện nay hình mẫu logo này vẫn còn trên trán nhà của Trường THCS Trưng Vương.

Vietnamese drumBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCái Trống có thể được dùng làm biểu tượng cho ngành Tòa án, theo TS Trần Hậu Yên Thế

Cuối cùng, để thay lời kết, tôi xin nêu quan điểm như sau. Nếu cần thiết phải có một biểu tượng, và nhất thiết phải liên quan đến ngành Tòa án tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của TS Nguyễn Thị Hậu là sử dụng hình tượng cái Trống. Đời vua Tự Đức, nhà vua đã cho dựng trống Đăng Văn. Trống Đăng Văn treo ở Ty Tam Pháp. Vua Tự Đức học theo vua Lê Thánh Tông treo cái trống ở Quảng Văn đình để dân oan khẩn báo cho vua biết. Ngoài trống thì chuông cũng có giá trị biểu tượng và lịch sử. Vua Lý Thái Tông đã cho đặt chuông ở sân Long Trì để dân tới đánh kêu oan.
Ngành Tòa án có thể đặt hàng các nghệ sỹ đưa ra phương án sử dụng hình ảnh trống hay chuông làm tác phẩm nghệ thuật mang hơi thở Đương đại đặt ở trụ sở trung ương. Còn ở cấp địa phương thì tốt nhất là đặt trống trước mỗi công đường, vừa ý nghĩa lại vừa kinh tế.
Tiến sĩ Trần Hậu Yên Thế là giảng viên môn lịch sử mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội. Tác phẩm gần đây nhất do ông chủ biên là cuốn 'Phác họa nghê - gã linh vật bên rìa'; cùng Nguyễn Đức Hòa và Hồ Hữu Long, phân tích, giải nghĩa hình tượng con Nghê của Việt Nam khác sư tử và linh vật Trung Hoa ra sao.

DỰNG TƯỢNG LÝ THÁI TÔNG LÀM BIỂU TƯỢNG CÔNG LÝ TRONG XÉT XỬ ÁN, CÓ LÀM GIẢM ÁN OAN SAI?
NGUYỄN NGỌC CHU/ TD 29-4-2020



Nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường, tác giả mẫu tượng vua Lý Thái Tông. Ảnh: Chân Luận/PLTP

Ngày 05/02/2020 Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (TANDTC) đã thống nhất chọn vua Lý Thái Tông (1000-1054) là biểu tượng công lý trong xét xử án. TANDTC đã có văn bản số 141 yêu cầu các tòa án các cấp lựa chọn 3 mẫu tượng vua Lê Thái Tông, và nêu 5 lý do của quyết định.
Ý định của TANDTC xây tượng vua Lý Thái Tông cao 5,3 mét bằng đồng trước tòa nhà TANDTC làm biểu tượng công lý trong xét xử án đã dấy lên một làn sóng phản đối kịch liệt trong toàn xã hội. Làn sóng phản đối sẽ còn tiếp tục mạnh nữa – chừng nào TANDTC chưa từ bỏ ý định sai trái này.
I. NGƯỢC QUY LUẬT TỰ NHIÊN
1. Công lý là vô biên. Công lý là hoàn hảo. Công lý là vĩnh cửu. Công lý là toàn năng… Vì thế, từ ngàn xưa biểu tượng cho công lý cần viện đến thánh thần.
Dù là thần Justilia của La Mã, thần Maat hay Isis của người Ai Cập, thần Themis hay Dike của người Hy Lạp, thì tất cả đều là thần linh – mới đại diện cho sự toàn năng vô biên của công lý.
Chính vì sự toàn năng vô biên mà thần công lý không thể có một thể hiện bề ngoài cố định, cụ thể – dù có đưa ra bao nhiêu đặc trưng.
Cho nên, biểu tượng thần công lý thời thượng cổ khác với trung cổ, lại khác nữa với hiện đại. Cũng bởi vậy, tượng của thần công lý ở Đức hay Nhật Bản, ở Anh Quốc hay Iran, ở Australia hay Brazil… tất cả đều khác nhau.
Nhưng dù khác nhau trên khắp thế giới, thì tất cả đều có chung một thần công lý ngự trị. Bởi vì, dù các vụ án có muôn hình vạn trạng đến đâu thì mục đích cuối cùng cũng phải đi đến công lý. Công lý là thần linh duy nhất tồn tại xuyên suốt trong muôn màu sắc thể hiện của xét xử án.
2. Không bàn cụ thể về cá nhân vua Lý Thái Tông hay bất cứ một ai, dù vĩ đại đến đâu, dù anh minh đến mức độ nào. Bởi vì, cuối cùng đó là một con người cụ thể.
Đã là con người cụ thể, thì có khiếm khuyết. Một con người cụ thể thì không thể là đỉnh cao nhất mọi thời, chắc chắn là có một con người cụ thể khác vượt lên. Một con người cụ thể thì không thể sống mãi. Một con người cụ thể thì không đủ toàn năng để đối phó với cái ác muôn hình vạn trạng mà tìm đến được công lý. Muốn chống với cái ác muôn hình vạn trạng để đến với công lý cần trí tuệ của nhiều người. Ngay cả trí tuệ của nhiều người trong một thời nhiều khi cũng không đối phó được cái ác để đi đến công lý.
Cho nên, để chống lại cái ác cần trí tuệ muôn người, của nhiều đời. Đại diện cho trí tuệ của muôn người và nhiều đời chỉ có thể là thần linh, chứ không thể là một con người cụ thể.
3. Lấy cái khiếm khuyết tượng trưng cho sự hoàn hảo. Lấy cái hữu hạn đại diện cho vô hạn. Lấy một người nâng bằng cả muôn người. Lấy một đời biểu tượng cho muôn đời. Lấy người trần thay thế cho thần linh. Đó là chống lại tự nhiên, ngược với biện chứng, xúc phạm đến thánh thần.
4. Bởi thế, quyết định của TANDTC về chọn một nhân vật cụ thể làm đại diện cho biểu tượng công lý trong xét xử án là đi ngược với tự nhiên, ngược với biện chứng. 5 lý do mà TANDTC nêu ra chẳng có nghĩa lý dì so quy luật tự nhiên.
II. THỤT LÙI VỀ CÔNG LÝ
Vua Lý Thái Tông sống cách đây cả 1000 năm vào thời Phong kiến. Theo Chủ nghĩa Mác –Lenin về Hình thái kinh tế – xã hội, thì Phong kiến là Hình thái thứ 3, sau Cộng sản Nguyên thủy và Chiếm hữu Nô lệ, nhưng trước Tư bản Chủ nghĩa, và Xã hội Chủ nghĩa. Việt Nam tự xác định đang xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, là đang tự nhận mình ở Hình thái thứ 5.
Nay TANDTC lấy một ông vua thời Phong kiến làm biểu tượng công lý trong xét xử án của chế độ Xã hội Chủ nghĩa – là khẳng định công lý của chế độ Xã hội Chủ nghĩa không bằng Phong kiến. Như vậy, TANDTC đã tự nhận thấy xét xử án thời nay còn thua cả thời vua Lý Thái Tông, phải nhìn vào vua Lý Thái Tông mà làm thước đo. Có phải TANDTC đang khẳng định một nền pháp lý thụt lùi?
Thêm một chứng cớ để TANDTC hiểu tại sao lại phải viện vào thần công lý, mà không viện vào một nhân vật lịch sử cụ thể khi chọn biểu tượng cho xét xử án.
III. LÃNG PHÍ TIỀN CỦA
Thống kê đến ngày 28 tháng 4 năm 2020, Việt Nam có 707 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: 77 thành phố trực thuộc tỉnh, 52 thị xã, 49 quận và 529 huyện (trong đó có 12 huyện đảo).
Ngoại trừ huyện đảo Hoàng sa, nếu tính cả tòa án ở 63 tỉnh thành, cùng 3 tòa án tối cao 3 vùng thì toàn quốc có 772 đơn vị hành chính có tòa án.
Chỉ riêng bức tượng đồng cao 5,3 mét dự định đặt trong khuôn viên TANDTC cũng tốn kém hàng trăm triệu đồng. Chưa nói có khả năng khai giá lên cả tỷ bạc.
Như vậy, ngoài bức tượng ở TANDTC thì còn phải có thêm 771 biểu tượng công lý nữa đặt ở các đơn vị hành chính có tòa án. Dù kích thước nào đi nữa, thì mỗi biểu tượng cũng ngốn tối thiểu 200 triệu đồng. Nghĩa là cần 154,4 tỷ đồng.
Nhưng làm gì có tượng đồng công lý nào giá 200 triệu đồng khi qua ngân sách nhà nước? Vào thời điểm đại họa virus Vũ Hán đang xảy ra mà máy xét nghiệm được nâng giá từ 1,5 – 2 tỷ đồng lên thành 5-8 tỷ đồng, thì những bức tượng của vua Lý Thái Tông cũng phải được thổi giá lên 3-5 lần. Nếu tính trung bình mỗi bức tượng là 1 tỷ đồng, thì các tượng “công lý” đặt ở các tòa án sẽ ngốn khoản kinh phí lên đến 772 tỷ đồng.
Vì áp lực dư luận, nên TANDTC chưa hé lộ các dự án cho cấp tỉnh cấp huyện, mà mới chỉ đề cập đến ý định đặt tượng vua Lý Thái Tông ở TANDTC. Nhưng không ai không thấy đường đi nước bước của ván bài.
Nếu không ngăn cản được “chuỗi phi vụ” này, thì hàng trăm tỷ đồng tiền thuế của dân sẽ bị hoang phí. Và sẽ còn làm liên lụy đến cả vua Lý Thái Tông, khi sự anh minh và liêm khiết của ngài lại bị mang ra làm tấm nàn che cho mù quáng và tham nhũng.
IV. THÊM NHỮNG CÂU HỎI PHẢN BIỆN
4.1. Thực ra, muốn phản biện quyết định đặt tượng vua Lý Thái Tông của TANDTC thì chỉ cần đặt ra một loạt các câu hỏi bản lề, mà từ câu trả lời sẽ dễ dàng suy ra sự đúng sai của quyết định. Chẳng hạn như các câu hỏi sau.
1. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm án oan sai không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
2. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm bớt sai sót trong xét xử án không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
3. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm bớt tiêu cực trong xét xử án không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
4. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm bớt ảnh hưởng của quyền lực lên quyết định của tòa án không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
5. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm bớt ảnh hưởng của tiền bạc lên xét xử án không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
6. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm giảm bớt nạn chạy án không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG.
7. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm quan tòa liêm khiết hơn không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG
8. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm quan tòa bớt sợ quyền lực không? Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG
9. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có làm tăng uy tín của Tòa án Việt Nam trên trường quốc tế không? Câu trả lời chắc chắn cũng là KHÔNG.
Cũng có thể đặt một loạt các câu hỏi dạng khẳng định khác về lợi hại. Chẳng hạn như dưới đây.
10. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có lợi gì?
11. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án ai được lợi?
12. Đặt tượng Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý xét xử án có tổn thất gì về kinh tế không?
Nghĩa là, có thể kéo dài thêm hàng chục câu hỏi tương tự, mà câu trả lời sẽ cho ta thấy sự sai trái của quyết định TANDTC trong việc chọn biểu tượng công lý cho xét xử án.
4.2. Cần phải lưu ý rằng, tính công bằng của chuỗi câu hỏi bản lề nằm ở chỗ nó cũng là công cụ hữu hiệu cho những ai muốn bảo vệ quyết định của TANDTC. Nghĩa là những người “ủng hộ” có thể đặt những câu hỏi có lợi cho quyết định của TANDTC. Xin mời những ai ủng hộ quyết định của TANDTC hãy đưa ra những câu hỏi bản lề để mọi người có thể tự do bày tỏ chính kiến.
4.3. TANDTC tổ chức Hội thảo “Nhân vật lịch sử tiêu biểu trong hoạt động xét xử của Việt Nam” chứ không phải là Hội thảo “Biểu tượng công lý cho hoạt động xét xử của Việt Nam”. Việc 75% người được hỏi đã chọn vua Lý Thái Tông (trong số 15 nhân vật đưa ra để hỏi), làm nhân vật tiêu biểu, không thể xem đó là kết quả tự động cho việc bình chọn “Biểu tượng công lý trong xét xử tòa án”, mà Nữ thần Công lý đã ngàn năm ngự trị. Nếu đặt vấn đề “Chọn ai làm biểu tượng công lý trong xét xử án ở Việt Nam” thì kết quả đã hoàn toàn khác, không phải là vua Lý Thái Tông. Đừng treo đầu dê bán thịt chó.
V. ĐỪNG LÀM LIÊN LỤY ĐẾN TIỀN NHÂN
Vào cái thời mọi thứ xuống cấp ở mức băng hoại như hiện nay, thì đừng viện vào tiền nhân mà làm liên lụy đến thanh danh của họ.
Khi mà hàng ngàn án oan sai nối tiếp nhau không dứt, từ năm này qua năm khác, kéo dài cả hàng chục năm, thì không một nhân vật lịch sử cụ thể nào trong quá khứ có thể cứu chữa nổi.
Nay đưa vua Lý Thái Tông ra làm biểu tượng công lý đặt nơi công đường, mà án oan vẫn tiếp tục kéo dài, án bỏ túi từng hàng, án ăn tiền hàng chuỗi, thì chỉ làm liên lụy đến thanh danh của Ngài. Hãy để cho Ngài yên.
VI. ĐÔI LỜI VỀ BIỂU TƯỢNG
1. Việc lấy vua Lý Thái Tông làm biểu tượng thần công lý trong xét xử án là hoàn toàn không đúng. Không mấy ai ủng hộ ý tưởng này, ngoại trừ một số quan chức trong TANDTC. Nhưng sẽ gạt vấn đề này sang một bên để có đôi lời về 3 mẫu phác thảo biểu tượng mà TANDTC đưa ra cho các cấp dưới lựa chọn.
2. Phải nói thẳng, cả 3 mẫu phác thảo biểu tượng đều không toát lên được tinh thần công lý. Cuốn sách trong mẫu phác thảo số 01 không toát lên được tinh thần xử án, càng không thể nói đến công lý. Thanh gươm và cuốn sách trong mẫu phác thảo số 02 cũng không toát lên được tinh thần xử án, cũng không thể hiện được tinh thần công lý.
Mẫu phác thảo biểu tượng số 03 có chiếc cân và thanh gươm liên tưởng đến tinh thần công lý và thực thi công lý. Nhưng tiếc thay đó là một sự phối hợp kịch cỡm. Vì không có tay nào tuốt gươmg ra để thực thi công lý. Vì khi lấy tay rút gươm thì phải ném cán cân công lý xuống.
3. Tại sao lại có sự kết hợp kịch cỡm? Là vì muốn sáng tạo nhưng lại phải sao chép.
Nếu chỉ có chiếc cân và thanh gươm thì hệt như Thần Công lý của thế giới. Chỉ thay nữ thần bằng ông vua. Cho nên phải thêm cuốn sách cho khác biệt. Mà thêm cuốn sách thì không đủ tay mà cầm, nên thanh gươm phải đeo! Cuốn sách đã không toát lên việc xử án đã đành, lại còn làm xuất hiện nhiều liên tưởng không mấy tích cực trong xét xử án.
Vậy nên đừng sáng tạo. Nữ thần Công lý là biểu tượng đã ngàn năm được lựa chọn. Đừng một mình một đường. Điều bất hạnh là một mình một đường.
Đề nghị TANDTC thức tỉnh. Đừng để Nhân dân phải kêu đến Chính phủ.
HÌNH ẢNH VUA KHÔNG THỂ LÀ BIỂU TƯỢNG CỦA CÔNG LÝ
HIỆU MINH/ TD 29-4-2020
Mạng XH nóng rực cuối mùa Covid khi 3 phác thảo tượng vua Lý Thái Tông được công khai để dự kiến sẽ trở thành biểu tượng công lý của ngành tòa án.
Thời phong kiến, vua là biểu tượng cho quyền lực tuyệt đối, một thứ quyền lực không được giám sát. Vua là người nên có vua đúng, có vua sai, có vua minh quân và có vua quỉ dữ ngồi xổm trên pháp luật.
Nếu để cho lịch sử phán xét một cách công bằng thì khó có vị vua nào trong quá khứ được chọn làm biểu tượng cho công lý trong thế kỷ 21.
Nhân loại qua bao đời đã thừa nhận một logo Nữ thần Công lý (tiếng Latin: Justitia). Đây là một nhân vật nữ được cách điệu hóa để trở thành một biểu tượng của hệ thống Tư pháp
1. Cầm một thanh gươm biểu tượng cho quyền lực cưỡng chế, quyền uy của toà án;
2. Một chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác, biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị;
3. Một chiếc khăn bịt mắt tượng trưng cho ý tưởng công lý “mù loà”, đề kháng, đối lập lại những áp lực, ảnh hưởng từ bên ngoài.
Nữ thần Công lý được nhiều quốc gia chọn làm logo cho ngành Tư pháp với những cách điệu khác nhau. Trong thể chế “Tam quyền phân lập – Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp” thì tòa án phải luôn độc lập, và công bằng.
Chưa thấy quốc gia nào chọn vua cầm cán cân công lý, lại còn bịt mắt, dù vua Lý Thái Tông được cho rằng, đã ban hành Hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam, là minh quân đặt chuông ở Long Trì cho phép người dân kêu oan. Nhưng đó là dã sử kể cả về vị vua này. Bộ Hình thư hiện ở đâu, chuông Long Trì còn không?
Logo đóng vai trò dùng để nhận diện (identity) và không bao giờ thay đổi cho dù nhân loại sang thiên niên kỷ sau. Logo cần được suy nghĩ kỹ về môi trường nhận diện. Khi đến tòa án chỉ cần nhìn vào thanh gươm, cái cân và khăn bịt mắt, người ta nghĩ đến những giá trị cốt lõi của nơi mà công lý sẽ được thực thi.
Nhiều người nghĩ rằng logo đưa cho hoạ sỹ là xong. Sai. Logo không phải là tác phẩm hội hoạ mà là biểu tượng của tầm nhìn. Đương nhiên logo phải đẹp nhưng đó là tiêu chí thứ 2 sau vai nhận diện.
Khi hiểu rõ về logo, về giá trị cốt lõi của tư pháp, có hiểu biết về sự thật lịch sử, có tầm nhìn xa… thì không nên chọn một vị vua cụ thể nào cho ngành tòa án, trừ phi có nhiều tiền để dựng tượng một vị vua mà nhìn vào trang phục lại nghĩ là tòa án nước ta xử giống Trung Quốc thời phong kiến.
ĐỪNG BIẾN VIỆT NAM THÀNH QUỐC GIA TƯỢNG ĐÀI VÀ LĂNG M
NGUYỄN NGỌC CHU/ TD 30-4-2020
I. CHÁY NHÀ MỚI RA MỌI NHẼ VÀ PHÉP “MUỐN ĂN GẮP BỎ CHO NGƯỜI”
Thế là rõ. Cháy nhà mới ra… mọi nhẽ. Phía sau của mục đích đặt tượng Lý Thái Tông là đặt tượng các chánh án của Tòa án Nhân dân Tỗi cao (TANDTC).
“Văn phòng TAND Tối cao cho biết, đa số các ý kiến góp ý nhất trí với phương án xây dựng tượng các chánh án TAND Tối cao là tượng bán thân dáng đứng, có chân đế.
Dự kiến tượng và khối phụ trợ được đúc bằng chất liệu đồng đỏ (nguyên khối), chân đế tượng được làm bằng đá tự nhiên. Kích thước tượng dự kiến cao 2,2m (bao gồm cả tượng, khối phụ trợ và chân đế; trong đó phần chân đế dự kiến cao 1,2m”.
Tượng vua Lý Thái Tông chỉ là cái cớ. Đây là phép “Muốn ăn gắp bỏ cho người”.
II. ĐÃ LÀ TÒA ÁN THÌ PHẢI QUANG MINH CHÍNH ĐẠI
1. Trong công văn 141/TANDTC-VP ngày 23/4/2020 đã ghi rõ là tượng vua Lý Thái Tông sẽ được “đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, và Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp”.
2. Kinh phí dựng tượng vua Lý Thái Tông cũng đã được Nhà nước phê duyệt trong kế hoạch xây dựng trụ sở TANDTC như ông Nguyễn Quang Ngọc thừa nhận:Được biết, thiết kế xây dựng tượng nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam nằm trong kế hoạch xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. Ông Nguyễn Quang Ngọc là Phó chủ tịch Hội Lịch sử Việt Nam, một “quân cờ chính” trong ván bài “Chọn nhân vật tiêu biểu trong hoạt động xét xử Việt Nam”.
3. Nhưng sau khi tiếp thu ý kiến, Chánh án TANDTC Nguyễn Hoà Bình cho biết:
– Chỉ đặt tượng vua Lý Thái Tông duy nhất ở TANDTC.
– “Việc xây dựng tượng vua Lý Thái Tông sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp”.
– “ Và không sử dụng ngân sách Nhà nước. Nếu xây dựng tượng thì cán bộ, công chức ngành toà án sẽ đóng góp kinh phí”.
Lương của cán bộ, công chức ngành tòa án, theo mức lương hiện hành, thì rất eo hẹp. Vậy mà phải quyên góp để xây dựng tượng vua Lý Thái Tông thì có làm thêm khó khăn cho đời sống cán bộ công chức nghành tòa án không? Hay rồi vẫn biến báo sử dụng ngân sách đã được duyệt?
4. Muốn trở thành quan tòa để ngồi trên công đường xử án thì phải quang minh chính đại. Quang minh chính đại phải trở thành thuộc tính của các quan tòa. Ở ngôi vị của TANDTC lại càng phải quang minh chính đại.
5. Tại sao Chánh án TANDTC mới chỉ tiếp thu ý kiến của nhân dân chỉ một phần? Vẫn kiên trì đặt cho bằng được tượng vua Lý Thái Tông tại TANDTC? Hứa không dùng tiền từ ngân sách nhưng sẽ quyên góp?
6. Cho nên, không đặt tượng của vua Lý Thái Tông tại TANDTC. Để không tiêu tiền từ ngân sách. Để không phải quyên góp từ tiền lương của cán bộ công chức ngành tòa án. Để khỏi phải đối phó với xã hội đến mức dối lời, làm mất tính quang minh chính đại của tòa án.
III. KHÔNG TẠC TƯỢNG CÁC CHÁNH ÁN
1. Ngành tòa án Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chưa làm được gì xuất sắc cho nhân dân, nếu không nói là còn rất nhiều khiếm khuyết. Vì đã để cho tình trạng án oan ngày một gia tăng. Số lượng án không giải quyết kéo dài nhiều năm. Đưa đến nhiều oan trái cho nhiều người dân trong nhiều năm. Đã có quá nhiều dẫn chứng mà không cần phải liệt kê ra ở đây.
2. Các cựu chánh án TANDTC, cũng từ năm1945 đến nay, chưa có ai ghi được những thành tựu xuất sắc để trở thành huyền thoại. Đó là không nói đến phần khuyết điểm, để cho ngành tòa án xuống cấp nghiêm trọng như ở mức hiện nay.
Vì ở dưới quyền điều hành của chánh án mà đã để lọt nhiều quan tòa có trình độ yếu, đạo đức kém mà vẫn ngồi xử ở công đường. Hậu quả là nạn ăn tiền trong xét xử trở thành quốc nạn, mang đến oan ức cho nhiều gia đình.
Mức độ yếu kém của quan tòa đã xuống đến đáy, đến mức như ông chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã xác nhận “viết một đằng tuyên một nẻo”, phải mời người đến “dạy viết chính tả, từng lỗi chấm phẩy”, thì nói chi đến trình độ để xử các vụ án phức tạp:
“Đặc biệt, Chánh án tòa tối cao cũng chỉ ra nhiều trường hợp viết bản án cũng có lỗi về chính tả thậm chí viết một đằng tuyên một nẻo. Hoặc có trường hợp 2 bản án cùng số, cùng ngày nhưng khác nội dung khiến dư luận đặt câu hỏi về thẩm phán: “Ok thì nhẹ, không ok thì nặng”. Đây là thách thức lớn khi sắp tới ngành tòa án sẽ công khai bản án lên cổng thông tin.
Cũng theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, trong năm 2017, ngành tòa án sẽ mở lớp tập huấn để viết bản án theo mẫu định sẵn. Lớp học này sẽ mời các giáo viên dạy văn đến dạy về chính tả, ngữ pháp và từng dấu chấm, dấu phẩy…”.
3. Không có ông chánh án nào của TANDTC trở thành huyền thoại cả. Bởi thế, không ông chánh án nào xứng đáng được tạc tượng cả.
Tượng đài ở các nước là hậu thế tôn vinh những huyền thoại. Dừng học theo, vì ngành tòa án Việt Nam hiện đại chưa có huyền thoại. Đừng làm tốn thêm tiền thuế của dân.
IV. ĐỪNG BIẾN VIỆT NAM THÀNH ĐẤT NƯỚC CỦA TƯỢNG ĐÀI VÀ LĂNG MỘ
1. Dựng tượng tiêu biểu nghành, tạc tượng lưu danh các chánh án, có phải TANDTC đang muốn tiên phong mở đường cho một xu thế làm suy yếu đất nước?
Nếu bộ nào cũng dựng tượng các bộ trưởng, nghành nào cũng dựng tượng đầu nghành, thì đất Hà Nội đâu đủ chỗ cho các tượng đây?
Những năm gần đây, hình thành phong trào xây tượng đài. Cả nước xây tượng đài. Tốn kém vô kể về tiền bạc và đất đai.
Những năm gần đây, hình thành phong trào xây lăng mộ. Các quan càng to lăng mộ càng lớn. Có người lăng mộ còn chiếm nhiều đất hơn cả vua.
Chế độ nào cũng dựng tượng xây mộ như hiện nay thì Việt Nam không còn đất để cày cấy mà sống sót.
2. Không thể lưu danh cho hậu thế bởi tượng đài và lăng mộ do mình tự dựng lên. Hậu thế sẽ dỡ bỏ nếu hậu thế không tự nguyện tôn vinh.
3. Đề nghị TANDTC bỏ hẳn việc dựng tượng Lý Thái Tổ và các chánh án tại Tòa án Nhân dân Tối cao.
Điều mà TANDTC cần làm – là chấm dứt các án oan sai, chấm dứt hối lộ trong xử án, chấm dứt án bỏ túi, chấm dứt chạy án, và loại bỏ các quan tòa dốt nát về trình độ, băng hoại về đạo đức ra khỏi nghành tòa án. Lúc đó nhân dân sẽ tự động tôn vinh ngành tòa án.
Đừng biến Việt Nam thành đất nước của tượng đài và lăng mộ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét