Thứ Ba, 3 tháng 12, 2019

20191203. LỢI ÍCH NHÓM VÀ TÊN ĐƯỜNG PHỐ

ĐIỂM BÁO MẠNG

ĐÃ THẤY LOÁNG THOÁNG BÓNG DÁNG 'NHÓM LỢI ÍCH' Ở TÊN ĐƯỜNG, TÊN PHỐ

XUÂN DƯƠNG/ GDVN 2-12-2019
Con đường này được đoàn công binh 559 khởi công xây dựng từ năm 1959 chạy từ Miền Bắc vòng sang Lào, Campuchia vào Miền Nam.
Sau khi thống nhất đất nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, năm 2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 194/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh”, theo đó đường Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 3.183 km đi qua địa phận 28 tỉnh, thành phố điểm đầu ở Cao Bằng, điểm cuối là Cà Mau.
Một số nước trên thế giới có đại lộ mang tên Hồ Chí Minh như tại Angola, Algeria, Ấn Độ, Nga,…
Người viết luôn băn khoăn tự hỏi, ngoài thành phố Hải Dương có Đại lộ Hồ Chí Minh, còn nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là năm thành phố trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) có nơi nào có Đại lộ Hồ Chí Minh?
Vấn đề lấy tên các nhân vật lịch sử đặt cho đường phố, quảng trường, di tích tuy đã có một vài quy định song thực hiện lại không đơn giản.
Tại Hà Nội xưa (từ năm 1949) có phố Huyền Trân Công Chúa, đến năm 1964 phố này bị đổi tên thành phố Bùi Thị Xuân. [1] 
Trang thông tin điện tử Khamphahue.com.vn viết: 
“Thực hiện lời hứa hôn của vua cha Trần Nhân Tông là kết tình hoà hiếu với lân bang, Huyền Trân công chúa đã gạt tình riêng để sang Chiêm Thành, nên duyên với nhà vua Chế Mân và trở thành Hoàng hậu Paramesvari. 
Món quà sính lễ mà Vua Chiêm dâng lên nhạc phụ Trần Nhân Tông là hai châu Ô, châu Lý - vùng đất từ bờ Nam sông Hiếu, Quảng Trị đến bờ Bắc sông Thu Bồn, Quảng Nam - đã sáp nhập vào nước Đại Việt”. [2]
Sau khi bà mất, nhiều triều vua đã sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. 
Thành phố Hồ Chí Minh có đường Huyền Trân Công Chúa tại quận 1. Huế có khu Trung tâm văn hóa Huyền Trân rộng 28 ha dưới chân núi Ngũ Phong thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây).
Nguyên nhân nào khiến nơi đặt tên, nơi xóa bỏ dù cả nước chung một thể chế?
Không thiếu chuyện cười ra nước mắt về tên phố như tại Hà Nội tự nhiên xuất hiện tên phố Ngô Minh Dương, Huyndai hay "Đường nước Phần Lan". Tại một con hẻm thuộc Thành phố Hồ Chí Minh vừa xuất hiện tấm biển ghi “Đường Park Hang Seo”,…
Gần đây thành phố Đà Nẵng có đề án đặt tên 137 tuyến đường trên địa bàn. Trong đó dự định sẽ lấy tên 2 giáo sĩ (linh mục) Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina đặt cho hai tuyến đường thuộc quận Hải Châu.
Nhiều người ủng hộ, nhiều người phản đối khiến Đà Nẵng tạm dừng.
Đà Nẵng tạm dừng việc đặt tên đường theo tên 2 giáo sĩ Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina (Ảnh: Baovanhoa.vn)
Một trong những ý kiến ủng hộ là của Phó giáo sư – Tiến sĩ Phạm Mai Hùng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông Hùng nêu quan điểm:
“Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina là những người có công lớn tạo ra tiếng Việt hôm nay, đó là một thành tựu về khoa học và văn hóa…”.  [3]
Không biết có bao nhiêu người Việt tán đồng quan điểm của ông Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, rằng hai giáo sĩ nêu trên đã “có công lớn tạo ra tiếng Việt hôm nay”?
Người viết muốn biết ông Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam suy nghĩ thế nào về ý kiến của ông Phó Chủ tịch hội này?
Một số chuyên gia nói rằng công lao của hai vị giáo sĩ trên là dùng chữ cái Latinh “ghi âm” cách nói tiếng Việt thay vì dùng chữ Nôm hay chữ Nho, không biết các vị uyên thâm về ngôn ngữ có đồng quan điểm, rằng đây là “thành tựu về khoa học và văn hóa”?
Thời phong kiến, có tới 97% người Việt không biết chữ nhưng không ai không biết tiếng Việt, vậy “tiếng Việt hôm nay” mà ông Hùng cho là do hai vị linh mục “tạo ra” có khác với “tiếng Việt” trước khi các giáo sĩ theo các đoàn thuyền buôn xâm nhập vào nước 
Người Hoa dùng chữ tượng hình, nhìn chữ nếu không thuộc không thể đọc, khác với chữ tượng thanh nhìn vào là có thể phát âm.
Chính vì thế phiên âm Pinyin (còn được gọi là Bính âm hay Phanh âm) ra đời.
Đây là cách sử dụng chữ cái Latinh để phát âm các chữ Hán trong tiếng phổ thông. Pinyin được đề xuất từ năm 1958 đến năm 1979 chính thức được áp dụng tại Trung Quốc.
Xét về lịch sử, Pinyin không phải do người Trung Quốc sáng tạo ra, nó bắt đầu từ các tu sĩ dòng Tên truyền giáo tại khu vực Ma Cao vào thế kỷ 16. 
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, “Tại Liên Xô một thứ Hán ngữ Latin hóa được chế tác cho người Trung Quốc sống ở Liên Xô.
Nó được gọi là Latin thoại (拉丁話) và rồi được phổ biến nhanh chóng tại Trung Quốc, đặc biệt là những khu vực do Đảng Cộng Sản kiểm soát”. [4]
Vậy có phải những người sáng tạo Pinyin để đọc tiếng Quan Thoại cũng là những người “Tạo ra tiếng Trung Quốc hôm nay”?
Về phía phản đối, một kiến nghị được lan truyền trên mạng xã hội có 11 người ký tên đã khiến xuất hiện nhiều tranh luận.
Một trong những luận điểm phía phản đối lấy tên 2 giáo sĩ đặt tên đường đưa ra là: 
“Chữ quốc ngữ có thể nói làm mất cả hồn dân tộc, việc dịch truyện Kiều ra chữ quốc ngữ đã làm mất đi một phần, nếu không nói mất đi rất nhiều giá trị của tác tác phẩm này.
Mặt khác, chữ quốc ngữ không nhằm mục đích phát triển văn minh của dân tộc ta, mà chỉ là một phương tiện để truyền giáo, một công cụ để thực dân Pháp xâm lăng nước ta”.
Thế có phải các bậc “uyên bác” ấy muốn người Việt trở lại dùng chữ Nôm, chữ Nho?
Trong bài báo “Thưa ông Bộ trưởng Văn hóa, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại lai?” đăng năm 2014, [5] người viết từng có ý kiến với Bộ Văn hóa về chuyện ngôi chùa mới xây trên đảo Bạch Long Vĩ viết toàn chữ Trung Quốc, thế là trên mạng xã hội có tác giả giận dữ la lối, rằng người viết “Giận Tàu chém chữ nho”,… 
Nơi người viết đang sống là một làng cách Hồ Gươm chừng chục cây số, mấy năm trước, các chức sắc trong làng quyên tiền xây cổng tam quan trước lối vào khu di tích lịch sử văn hóa (đã được xếp hạng). 
Bỏ công đi hỏi những người già trong làng, cả Bí thư chi bộ - một cán bộ về hưu và Trưởng thôn - một đại tá quân đội nghỉ hưu, không ai đọc được những chữ Trung Quốc viết trên đó và cũng chẳng ai biết nghĩa của dòng chữ đó là gì!
Đó không phải là xâm lăng văn hóa từ bên ngoài. Chính một bộ phận không nhỏ người Việt, ít nhất đã không tự bảo vệ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, không thiếu sự nhầm lẫn giữa bảo vệ các giá trị văn hóa lịch sử và sự mơ hồ về tình hữu nghị.
Trong bài viết “Vài suy nghĩ về giọng nói và biểu tượng Quốc gia” [6] người viết từng đề nghị cần có sự chuẩn hóa “Quốc ngữ” bên cạnh Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.
Cụ thể là “Hiến pháp chưa có quy định cụ thể về Quốc ngữ”, nghĩa là chưa Hiến định “chữ viết và tiếng nói” (chính tả và phát âm) của người Việt. 
Chính điều này đã khiến hàng loạt công trình văn hóa tâm linh xây dựng gần đây thay vì buộc phải sử dụng chữ quốc ngữ lại là chữ Trung Quốc.
Liệu có phải đó là một trong những nguyên nhân khiến người Việt không chỉ “lùn” về tầm vóc theo nghĩa đen mà còn tụt hậu cả về trí tuệ?
Cãi vã và ném đá đã trở thành trào lưu xấu khó bỏ của một bộ phận người Việt, trong đó có không ít người tự xem mình là tinh hoa, là hiểu biết hơn số đông còn lại?
Trở lại chuyện đặt tên đường phố ở Đà Nẵng, việc lấy tên những nhân vật có công với đất nước, dân tộc đặt tên đường là chuyện bình thường. Vấn đề là đánh giá công trạng của những nhân vật đó thế nào để mọi người đều nhất trí.
Sự nổi tiếng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên thế giới là không phải bàn luận, tuy nhiên người viết chưa tìm được thông tin một tên phố hoặc đại lộ mang tên ông tại các quốc gia khác ngoài Việt Nam.
Vậy nên Đà Nẵng tạm dừng việc lấy tên hai vị giáo sĩ đặt tên cho đường phố là việc làm kịp thời, cần được ghi nhận.
Về phía Chính phủ, đã đến lúc cần có một văn bản chi tiết, quy định việc lấy tên các nhân vật lịch sử đặt cho đường phố.
Trong đó cần chuẩn hóa những luận cứ khoa học, được các Hội đồng khoa học có uy tín xác nhận về nhân vật lịch sử dự định đặt tên đường, đặc biệt là người nước ngoài.
Dựa vào đề xuất của một nhóm người liệu có bóng dáng của “nhóm lợi ích”, đặc biệt là trong lĩnh vực tôn giáo?
Tài liệu tham khảo:
[1] “Từ điển đường phố Hà Nội”, NXB Hà Nội - 2010 
[2] //khamphahue.com.vn/kham-pha/di-tich-di-san/tid/Kham-pha-ve-dep-di-tich-Huyen-Tran-cong-chua/newsid/B08C4ACC-1D60-41EB-B4CF-4FAEDE137038/cid/4EE56146-D26C-4783-898F-0EC4FA9BC944
[3] //nld.com.vn/thoi-su/ve-kien-nghi-khong-dat-ten-duong-alexandre-de-rhodes-tu-choi-tham-gia-van-bi-ghi-ten-20191128221408459.htm
[4] //chinese.edu.vn/lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-phien-am-pinyin.html
[5] //giaoduc.net.vn/Goc-nhin/Thua-ong-Bo-truong-Van-hoa-dau-la-phan-chim-cua-van-hoa-ngoai-lai-post149359.gd
[6] //giaoduc.net.vn/goc-nhin/vai-suy-nghi-ve-giong-noi-va-bieu-tuong-quoc-gia-post148998.gd
Xuân Dương

TIN LIÊN QUAN:


SAO KHÔNG ĐEM CÁC NHÂN VẬT VĂN HỌC ĐẶT TÊN PHỐ Ở VIỆT NAM ?

HÀ HIỂN/ BBC 2-12-2019

Việt Nam đã đổi thay nhiều so với 2, 3 thập niên trước

Việt Nam đã đổi thay nhiều so với 2, 3 thập niên trước
Những ai có thể có tên được đặt cho các đường phố hay địa danh khác của Việt Nam?
Nhiều người có thể trả lời ngay rằng đó là những nhân vật lịch sử có công trong sự nghiệp dựng nước và cứu nước như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thái Học..., bao gồm cả những nhân vật truyền thuyết như Hùng Vương, An Dương Vương, Lạc Long Quân...
Các nhà hoạt động chính trị, nhà yêu nước, nhà văn hóa, bác học, nhà ngôn ngữ... và cả các nhà truyền giáo đã có công trong việc phát triển văn hóa, ngôn ngữ và các lĩnh vực khác cho đất nước như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Alexandre de Rhodes... cũng rất xứng đáng có tên được đặt cho các địa danh của Việt Nam
Tất nhiên là không thể tránh khỏi còn có những nhân vật khác như các cụ Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Trần Phú... cũng phải có tên vì họ là những người có công xây dựng nên chế độ XHCN ở Việt Nam. Chế độ này đang tồn tại thì họ được chế độ đó vinh danh là điều tất nhiên, không nên thắc mắc làm gì...
Sài GònBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCảng Sài Gòn năm 1950
Tương tự như thế, nếu các cụ Karl Marx, cụ Lenin cũng có tên được đặt cho núi này, suối kia, công viên nọ trên một đất nước mà Nhà nước đang cai trị lấy học thuyết của các cụ ấy làm nền tảng cho sự sống còn của mình thì cũng là điều không nên bàn cãi.
Chỉ có điều, nếu chế độ vinh danh cụ Mác, cụ Lê vì đã có công truyền bá cái học thuyết mà mình tôn thờ ấy thì nếu đồng bào Công giáo cũng muốn có một đường phố nào đó của đất nước mang tên Cụ Alexandre de Rhodes vì có công truyền bá Đạo Thiên Chúa vào Việt Nam cũng là điều nên tôn trọng khi Tổ quốc không chỉ là nơi tá túc riêng của người cộng sản mà là ngôi nhà chung của tất cả mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo và dân tộc.
Nói thế để thấy lập luận của GS Nguyễn Đắc Xuân đại ý rằng Cụ Alexandre de Rhodes có công truyền đạo với người Công giáo thì không xứng đáng để người khác tôn vinh là không ổn.
Nếu có người cũng lại lập luận theo cách tương tự rằng cụ Mác, cụ Lê chỉ có công với người cộng sản thì cũng không nên lấy tên các cụ này đặt cho các địa danh ở Việt Nam thì có mà... loạn!
Đằng này Cụ Rhodes còn có công phát triển chữ Quốc Ngữ tuyệt vời cho người Việt. Mà thứ chữ này cũng đang được dùng không chỉ trong các cuốn Kinh Thánh của các học trò cụ Rhodes ở Việt Nam mà còn được dùng trong các bộ Lê-nin toàn tập đang trưng bày trong hiệu sách nhân dân to nhất ở Hà Nội nữa.
Ngoài ra, có thể kể đến tên các nhà văn, nhà thơ như Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tú Xương, Nguyễn Du... mà tên của họ cũng đã được đặt cho các đường phố ở Việt Nam và điều đó là hoàn toàn xứng đáng.

Nhưng còn ai nữa không?

Các đô thị của Việt Nam đang phát triển rất nhanh. Nếu chỉ lấy tên các nhân vật ở trên để đặt cho các đường phố thì cái "ngân hàng tên" ấy cũng đã đến lúc cạn.
Vì thế có người đã có ý kiến nên lấy các sô thứ tự như 1, 2, 12, 20... để đặt tên (hoặc tạm đặt tên) cho các đường phố mới. Nhưng theo tôi còn một danh sách các nhân vật nữa mà tên của họ có thể được đặt cho các đường phố ở Việt Nam.
Đạp xe xuyên ViệtBản quyền hình ảnhLOURDES HEREDIA
Image captionHai du khách nước ngoài chụp hình ở Huế
Đó là những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm văn học Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau, từ Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Chị Hằng, Chú Cuội cho đến Kiều, Kim Trọng, Tám Bính, Chí Phèo, Thị Nở, Chị Dậu...
Đừng nên bám lấy lối tư duy từ trước đến nay là phải lấy tên các nhân vật có công với nước, với chế độ để đặt tên cho các đường phố. Lấy tên của các nhân vật văn học cho mục đích này cũng là một cách để cho các thế hệ mai sau không bao giờ quên các tác phẩm văn học Việt Nam đã đi vào lịch sử văn học hoặc là điển tích văn hóa của Việt Nam. Đấy là một cách xử lý có văn hóa đối với nhưng vấn đề có tính văn hóa đặc trưng của Việt Nam.
Một ngôi nhà cổ từ thời Pháp được cải tạo thành nhà hàng ở trung tâm Hà NộiBản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
Image captionMột ngôi nhà cổ từ thời Pháp được cải tạo thành nhà hàng ở trung tâm Hà Nội
Thực ra thì ở một nơi là thành phố Hải Phòng tôi biết đã có một đường phố mang tên một nhân vật thần thoại trong văn học, đó là đường Thiên Lôi. Vậy thì Chị Hằng hay Chú Cuội hoàn toàn có thể là tên của những đường phố khác! Tại sao không?
Nguyễn Du đã được đặt tên phố thì tại sao không thể làm điều tương tự với Kiều? Tương tự như vậy, Nam Cao đã có tên thì tại sao tên Chí Phèo hay Thị Nở lại không thể có trên các đường phố Việt Nam? "Chị Dậu" cũng là một cái tên đáng đặt vì đó vừa là một nhân vật văn học nổi tiếng vừa là lời nhắc nhở cho các cấp chính quyền ngày nay chăm lo hơn nữa cho đời sống của nhân dân.
Việc lấy tên các nhân vật trong văn học Việt Nam để đặt cho các đường phố cũng là cách quảng bá và giới thiệu văn học và văn hóa Việt Nam với thế giới. Sẽ có những ông Tây bà Đầm đi trên đường phố Chí Phèo và thật là thú vị nếu từ đó họ muốn tìm hiểu xem ông Chí Phèo là ông nào.
Hoặc khi đi trên đường Chú Cuội hay Hằng Nga, họ sẽ thấy là người Việt đã từng... lên Cung Trăng trước cả Mỹ hay Liên Xô hàng ngàn năm!
Thế nên, chỉ ước một ngày nào đó được thong dong trên đường Chí Phèo để mơ về nàng Thị Nở một thời, hay được ăn phở ở phố Chị Dậu để nghĩ về những cảnh đời của những người dân Việt nào đó vẫn còn nghèo đói không có đủ cơm ăn áo mặc ở đâu đó...
Đặt tên đường cũng thể hiện cách nghĩ về văn hóa?Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionĐặt tên đường cũng thể hiện cách nghĩ về văn hóa?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

CHỮ QUỐC NGỮ ĐÃ CỨU TIẾNG VIỆT KHỎI NẠN DIỆT CHỦNG NGÔN NGỮ ?
NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG/ BVN 3-12-2019

https://i1.wp.com/www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2019/12/chu-quoc-ngu.jpg
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes và các ấn phẩm chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh: Luật Khoa tổng hợp
Thảo luận về công – tội của một trong những người định hình nên chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết mô tả tượng âm lại tiếng Việt, mà bạn đọc của Luật Khoa đang sử dụng để tiếp nhận và xử lý thông tin của chính bài viết này, đang được đẩy lên cao một cách khá bất ngờ. Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ truyền giáo gốc Pháp, người được thừa nhận là đặt những nền móng đầu tiên cho chữ Quốc ngữ, bị một số học giả cho rằng nó chỉ nhằm mục tiêu xấu xa.
Ví dụ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì phân tích rằng quá trình ban đầu của việc tạo ra chữ quốc ngữ không nhằm mục đích phát triển văn minh của dân tộc ta, mà là “một công cụ để thực dân Pháp xâm lăng nước ta”.
Hay Tiến sĩ Lê Cung, người đứng đầu nhóm phản đối đặt tên đường Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng, khẳng định “Rhodes là kẻ có tội thì làm sao vinh danh, đặt tên đường được”.
Vậy thật sự các đế quốc, các thế lực thực dân có cần thiết phải tạo ra một loại ngôn ngữ riêng biệt để đồng hóa và xâm lược hay không?
Nếu nói đến tầm ảnh hưởng của ngôn ngữ trong quá trình thực dân hóa (colonisation), sẽ là hơi ngờ nghệch nếu cho rằng những đế quốc hùng mạnh lại cần phải tạo ra một loại chữ viết đặc trưng, dựa trên đúng thứ tiếng bản địa để có thể thành công trong việc kiểm soát và đồng hóa văn hóa, tư tưởng của quốc gia bị bảo hộ.
Bài viết này, dựa trên các thông tin lịch sử về chủ nghĩa thực dân trên thế giới, hy vọng giúp bạn đọc hiểu thêm về tầm ảnh hưởng quan trọng của chữ Quốc ngữ trong việc duy trì văn hóa và tư duy độc lập của người Việt Nam.
Xu hướng diệt chủng ngôn ngữ thời thực dân 
Ngôn ngữ là một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong các nghiên cứu hậu thực dân. Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Chỉ vũ lực không thôi là không đủ để kiểm soát những dân tộc lớn và đông đảo gấp nhiều lần những quốc gia xâm lược và thực dân hóa. Trong quá trình này, hệ thống giáo dục thực dân trở thành một trong những công cụ quan trọng hàng đầu để kiểm soát tư duy và thế giới quan của các dân tộc bị đồng hóa. Song sự kiểm soát quan trọng không nằm ở đường lối hay tư tưởng, không nằm ở giáo trình lịch sử, mà chủ yếu nằm ở chữ viết và ngôn ngữ.
Như Ngũgĩ Wa Thiong’o, một tác gia lừng danh người Gikuyu đến từ Kenya, vốn nổi tiếng với độc giả thế giới bằng các tác phẩm tiếng Anh của mình, khẳng định: ngôn ngữ và văn hóa là không thể tách rời. Nếu một dân tộc không thể duy trì được ngôn ngữ của mình, văn hóa của họ cũng sẽ tiêu tan.
Với tư cách là một tác gia, một người có ảnh hưởng, Ngũgĩ tìm đến một biện pháp có phần cực đoan – từ bỏ hoàn toàn tiếng Anh và độc giả quốc tế (một phần nào đó). Trong quyển Decolonising the Mind phát hành năm 1986, lời “chia tay” chính thức của ông với chữ viết và Anh ngữ, ông ngậm ngùi nói rằng ngôn ngữ Anh (cũng như Pháp), được sử dụng và phát triển lấn lướt cả ngôn ngữ bản địa của người châu Phi ngay trên lục địa này trong thời kỳ hiện đại, là một “quả bom văn hóa” nổ chậm, tiếp tục quá trình xóa bỏ những ký ức và văn hóa tiền thuộc địa, từ đó dựng nên một phiên bản mới của chủ nghĩa thuộc địa tồi tệ không kém với chủ nghĩa thực dân trong lịch sử.
Góc nhìn của Ngũgĩ có vẻ khá một chiều, nhưng không phải là không có cơ sở trong lịch sử. Trong quá trình đào tạo của các trường học thực dân, nhiều tác giả đương đại còn nhớ cách họ bị sỉ nhục, bị cho ở lại lớp, thậm chí bị trừng phạt và bị đánh khi còn dám sử dụng ngôn ngữ bản địa. Chủ nghĩa thượng đẳng ngôn ngữ (linguistic supremacist) chắc chắn đã từng tồn tại, và có lẽ vẫn còn tồn tại đâu đó trên thế giới. Thomas B. Macaulay, một chính trị gia nổi tiếng của Vương quốc Anh sống trong nửa đầu thế kỷ 19, từng thẳng thừng tuyên bố rằng: Không một người đọc sách nào trên thế giới này có thể phủ nhận sự thật rằng chỉ một “giá sách” văn chương và tư liệu theo ngôn ngữ, chữ viết của châu Âu lục địa đã có giá trị tương đương với cả nền văn chương và tư liệu theo ngôn ngữ, chữ viết Ấn Độ hay Ả Rập.
Tại thời điểm những năm 1830, người viết khó có thể phản biện rằng tuyên bố của Macaulay hoàn toàn sai lầm. Nếu nói đến khoa học tự nhiên, khoa học kinh tế, luật học, xã hội học và các học thuyết chính trị cấp tiến… sự vượt trội của sách vở, chữ viết phương Tây là rất rõ ràng. Song cũng chính vì vậy người ta dễ quên mất rằng ngôn ngữ và chữ viết bản địa đóng vai trò sống còn trong việc duy trì lịch sử và văn hóa của chính dân tộc đó. Đáng tiếc, tại châu Phi, các nhà thực dân người Anh và Pháp đã thành công trong việc cấy ghép niềm tin phương Tây nói trên vào văn hóa bản địa.
Vốn có dân số phân mảng, thiếu thốn chữ viết, và thường xuyên phải vay mượn từ các nền văn hóa thống trị trong khu vực như chữ Arab, chữ Hy Lạp và chữ người Ai Cập cổ (tình thế rất giống với người Việt Nam vốn phải vay mượn chữ Hán làm công cụ lưu trữ thông tin và trao đổi), chữ viết nói riêng và ngôn ngữ nói chung của người Anh, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha nhanh chóng trở thành một lựa chọn thay thế hoàn hảo cho người châu Phi. Điều này càng đúng hơn đối với những vùng tại châu Phi mà chữ viết hầu như không tồn tại.
Không chỉ vậy, để phát triển và kiếm sống trong mô hình xã hội do giới thực dân xây dựng, những người dân bản địa buộc phải học ngôn ngữ của giới thực dân, có sẵn và dễ tiếp cận, và từ đó lại tiếp dạy cho con của họ thứ ngôn ngữ tiện lợi mới. Trong khi đó, không gian phát triển và tiến hóa của chữ viết và ngôn ngữ bản địa bị chèn ép đến khi hoàn toàn biến mất.
Đây là quá trình có nhiều tên gọi, đôi khi là “sự thay thế ngôn ngữ” (language displacement), “cái chết ngôn ngữ” (language death), và cũng thường xuyên được gọi là “diệt chủng ngôn ngữ” (linguistic genocide hay linguicide).
Và tác động của nó thì còn đến tận ngày nay. 
Có đến 29 quốc gia châu Phi sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ – chữ viết chính thức, với một lượng nhỏ người dân còn sử dụng tiếng địa phương (song chữ viết rất ít tồn tại).
Tại châu Mỹ Latinh, gần như toàn bộ các quốc gia tại đây đều sử dụng tiếng và chữ viết Tây Ban Nha (hoặc Bồ Đào Nha – hai quốc gia thực dân lớn mạnh nhất vùng này) làm ngôn ngữ chính thức. Cùng lúc đó, tất cả các ngôn ngữ bản địa khác đang đối mặt với bờ vực tuyệt chủng.
Tiếng Anh hiện nay đã là một ngôn ngữ quốc tế được học và phổ biến khắp năm châu nên khó có thể đánh giá tác động của quá trình thực dân hóa. Song nếu nhìn vào các cựu thuộc địa của vương quốc Anh tại châu Phi, có thể thấy hơn 10 quốc gia công nhận Anh ngữ là ngôn ngữ và chữ viết chính thức của mình, trong khi các ngôn ngữ bản địa khác thường không có hình thái chữ viết bổ trợ và chỉ sử dụng trong giao tiếp miệng của các cộng đồng nhỏ.
Chữ Quốc ngữ đã cứu Việt Nam khỏi bị đồng hóa ngôn ngữ? 
Người viết không dám bàn đến lợi thế hay lợi ích của hình thái chữ Latinh của chữ Quốc ngữ so với loại chữ biểu hình đặc trưng của nhiều quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Nhật Bản. Song xét về mặt lịch sử, cần nhớ rằng cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đều không bị đô hộ hoàn toàn, hay bị kiểm soát bởi một bộ máy cầm quyền thực dân phức tạp và hoàn thiện phần nào như tại Việt Nam, mà đặc biệt là miền Nam Việt Nam. Họ có thời gian hoàn thiện ngôn ngữ và chữ viết riêng của mình một cách tương đối độc lập. Vậy nên khó mà có thể so sánh chúng ta với những con rồng, con phụng châu Á này.
Và chúng ta cũng khác với ngôn ngữ của hai quốc gia Đông Dương còn lại là Campuchia và Lào, vốn đã bị “đồng hóa” và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ ngôn ngữ Ấn Cổ (Pallava script) từ nhiều thế kỷ trước khi bị thực dân Pháp đô hộ.
Việt Nam, vì vậy, nằm ở một vị thế không khác mấy với các quốc gia tại châu Phi: không có hệ thống chữ viết hoàn chỉnh để biểu âm (hoặc kể cả biểu hình) tiếng nói của mình, trong khi hệ thống chữ viết vay mượn (chữ Hán) lại được học hỏi, áp dụng một cách ngờ vực và nửa mùa. Cần nhớ rằng người Pháp thành công trong việc đồng hóa ngôn ngữ của gần cả một châu lục, vậy nên rào cản duy nhất ngăn Việt Nam rơi vào hoàn cảnh của các quốc gia châu Phi nói trên, theo người viết, chỉ có thể là chữ Quốc ngữ.
Đúng là người Pháp ban đầu rất sốt sắng trong việc yêu cầu phổ biến và hoàn thiện, áp dụng chữ Quốc ngữ. Nghị định 82 ký ngày 6/4/1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra cái mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ: “Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị… sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ Quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ Quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng…”.
Song, điều này chỉ nhằm trước tiên phục vụ cho mục tiêu quản lý và truyền bá văn hóa Pháp mà thôi; và chữ Quốc ngữ hoàn toàn không được thực dân Pháp ủng hộ một cách mạnh mẽ như nhiều sử gia Việt Nam tưởng tượng ra. Trong tài liệu nghiên cứu mang tên Colonialism and Language Policy in Viet Nam của John De Francis, một trong những tác giả người nước ngoài có tiếng nói và kinh nghiệm trong nghiên cứu ngôn ngữ tại Việt Nam, ông khẳng định rằng người Pháp rất hạn chế trong chính sách phổ biến Quốc ngữ, với mục tiêu không hơn 10% người Việt Nam được đào tạo thông thạo Quốc ngữ.
Nhiều tài liệu Việt Nam đang tưởng tượng nên hình ảnh một thực dân Pháp hùng mạnh dùng Quốc ngữ để đồng hóa người Việt Nam, bắt người Việt Nam quên đi cội nguồn. Trong khi đó, chính bản thân người Pháp cũng rất ngần ngại phổ biến Quốc ngữ ra đại chúng, thứ chữ viết dễ học, dễ viết, phù hợp với người bản địa – thứ hoàn toàn có thể được sử dụng để tập hợp, tuyên truyền và hình thành nên tư tưởng chống lại chính quyền thực dân.
Tuy nhiên, cho đến khi thực dân Pháp nhận ra điều này, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ chính trị hiệu quả của người Việt Nam. Cuối thế kỷ 19, các trí thức Nam Kỳ như cụ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản… trở thành những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ Quốc ngữ và phát triển tiếng Việt.
Hóa ra, thứ ngôn ngữ “hai mang” mà ban đầu người Pháp nghĩ rằng có bản chất Latinh có thể phục vụ cho việc kiểm soát và đồng hóa người Việt này lại mang đến một cơ hội hoàn toàn mới cho người bản địa. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có một thứ chữ viết phổ thông, dễ tiếp cận, biểu âm, và quan trọng hơn là tách biệt hoàn toàn với cả ngôn ngữ Pháp và ngôn ngữ Hán, chỉ dành cho tiếng Việt và người Việt Nam.
Nhận thấy điều này, trí thức cả nước nhanh chóng ủng hộ Quốc ngữ, kêu gọi mọi người hưởng ứng rộng rãi. Hội Truyền bá Quốc ngữ được hình thành. Các trí thức dẫn đầu phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thì từng ca ngợi chữ quốc ngữ:
Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước, sách Chi Na
Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường.
Chữ Quốc ngữ, theo đúng lịch sử, đã trở thành phương tiện để người Việt phổ biến, hun đúc lòng yêu nước, tinh thần đòi độc lập. Nó cũng giúp phổ biến và bình dân hóa năng lực yêu nước tại Việt Nam, thứ trước đó chỉ thuộc về giới trí thức biết đủ chữ Nho để dùng.
***
Mục tiêu của người Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ trong quá trình thực dân hóa nước ta có lẽ không phải là tốt lành gì. Lịch sử và các nhà sử học vẫn còn nhiều điều tranh cãi về vai trò và tư tưởng thực chất của Alexandre de Rhodes. Song điều rõ ràng nhất, là chữ Quốc ngữ – tự thân nó – đã mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam thứ chữ viết độc lập, đặc sắc, và hoàn toàn riêng biệt sau hàng thế kỷ vay mượn và phụ thuộc. Nó cũng là rào cản giữa việc thực dân Pháp quyết định có áp dụng tiếng Pháp như là một thứ tiếng phổ thông hay không, như cách họ đã làm với nhiều quốc gia thuộc địa khác của mình. Vì vậy, người viết không quá ngần ngại để ủng hộ quan điểm cho rằng chính Quốc ngữ đã giúp chúng ta thoát khỏi nạn diệt chủng ngôn ngữ hoàn toàn có thể nhìn thấy trước. Xét công và tội, công của chữ Quốc ngữ và người đặt nền móng của nó, có lẽ nhiều hơn. 
N.Q.T.T.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét