Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018

20180118. BÌNH LUẬN TIẾP BÀI VIẾT CỦA CỰU CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG

ĐIỂM BÁO MẠNG
THAM NHŨNG LÀ THỦ PHẠM GIẾT SỐNG ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CHỦ THUYẾT  MARX-LENINE TRÊN ĐẤT VIỆT NAM

NGUYỄN ĐĂNG QUANG/ BVB 16-1-2018



Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa có bài viết Ngay lúc này, Đảng phải kiên quyết hành động công bố vào đúng ngày xét xử 2 đại án tham nhũng hôm 8/1/2018 vừa qua. Ngay lập tức bài viết đã nhận được nhiều ý kiến, bình luận, phê phán trên nhiều phương diện khác nhau; có người chê, kẻ khen, và tất cả các người khen hay chê đều có lập luận riêng của mình, khó ai có thể bác bỏ được!
Riêng người viết bài này xin có lời hoan nghênh bài viết của ông Tư Sang, vì đây là một bài viết khá tâm huyết, thể hiện nỗi lo âu của người ít ra còn có suy nghĩ về trách nhiệm với dân, với nước! Việc ông Tư Sang lo cho sự sụp đổ của Đảng, của chế độ là có cơ sở, rất đúng và nhãn tiền! Nhưng việc ông lo cho sự tồn vong của đất nước, tôi cho là ông đã sai và nhầm lẫn! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam không thể tiêu vong, sẽ luôn trường tồn và chắc chắn sẽ phát triển, hạnh phúc hơn khi “ĐCSVN không còn đồng hành với dân tộc” nữa! Đây là điều hiển nhiên! Chính ông Tư Sang đã chứng minh điều đó trong bài viết của mình bằng cách trích dẫn lịch sử nước nhà qua các Vương triều Việt Nam. Lịch sử thế giới cuối thế kỷ XX đã chứng minh hùng hồn: Dân tộc Nga cũng như các nước Đông Âu vẫn trường tồn và lớn mạnh, đất nước của họ càng phát triển và hạnh phúc hơn khi các ĐCS ở đây tan rã và sụp đổ! Nguyên nhân vì sao ư? Đơn giản, bởi thể chế toàn trị mà chế độ độc tài đảng trị đã áp đặt lên các dân tộc và quốc gia này vào nửa sau của thế kỷ XX đã bị người dân đạp đổ không thương tiếc! Đây là một thực tế lịch sử không ai có thể phủ nhận!
Ông Tư Sang là một trong số hiếm hoi các lãnh đạo Đảng và Nhà nước ít có điều tiếng xấu, và sau khi nghỉ hưu còn được ít nhiều người dân quý trọng! Nhân đây tôi cũng xin nhắc lại một câu nói của ông Tư Sang lúc còn đang chức: “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm! Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bấy sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là “chết” cái đất nước này!”. Còn đối với các ông “nguyên” khác như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Sinh Hùng… và đặc biệt là 2 ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, tôi cho là không thể và không dám viết như ông Tư Sang! Lý do vì sao ư? Đơn giản bởi chính các ông này khi còn tại chức đã góp phần và có trách nhiệm không nhỏ làm cho đất nước lụn bại, lâm vào tình cảnh bi đát đến mức mà ông Tư Sang phải thốt lên: “Nếu tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Đảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu?”!
Người viết bài này cũng đã nhiều dip bày tỏ chính kiến về quốc nạn tham nhũng ở nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, ở đâu cũng có, song mức độ thì mỗi nước một khác! Ở nước ta, tham nhũng không chỉ là căn bệnh trầm kha mà nó đang lớn mạnh theo tỷ lệ thuận với chiến dịch chống lại nó! Đây là một nghịch lý kỳ quặc! Tham nhũng là căn bệnh ung thư không chỉ hủy hoại thể chế xã hội mà nó hủy hoại cả ngay chính đảng cầm quyền! ĐCSVN biết rõ điều này nhưng lại khoanh tay bất lực! Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991), ĐCSVN đã chỉ ra tham nhũng là 1 trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng. Nhưng đến nay, đã qua 6 kỳ Đại hội Đảng và 4 đời TBT, căn bệnh ung thư tham nhũng lại càng lớn mạnh thêm! Càng ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chống nó, thì nó lại càng sống khỏe! Nạn THAM NHŨNG bắt đầu lớn mạnh trong 10 năm khi ông Nông Đức Mạnh làm TBT (2001-2011), và nay nó phát triển lớn mạnh thành đại dịch sau khi ông Nguyễn Phú Trọng thay ông Mạnh làm TBT từ 2011 đến nay! Bọn tham nhũng không chỉ là “bầy sâu” nữa mà đã trở thành “tập đoàn sâu” cả rồi! Hai đại án tham nhũng đang xét xử ở Hà Nội và Tp. HCM chỉ là phần nổi của tảng băng chìm của quốc nạn tham nhũng. Hai đại án trên chỉ là phần nhỏ nhô lên của tảng băng chìm tham nhũng trong ĐCSVN hiện nay!
Cổ nhân đã cảnh báo chúng ta: “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục”. Câu này có nghĩa là “Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử”! Vâng, sư tử khỏe mạnh là chúa tể rừng xanh, một tiếng gầm vang lừng của nó làm muôn thú run sợ, nói chi đến việc dám lại gần nó, dám mó vào dái nó hay vật ngã nó! Đó là những con sư tử khỏe mạnh và như thế nó là vô địch! Nhưng một điều không thể tránh khỏi là con sư tử kia sẽ ngã quỵ một khi bầy sâu trong cơ thể nó ngày một sinh sôi và lớn mạnh! Chúng ta đều thấy, khắp nơi nơi trên đất nước ta nhan nhản những khẩu hiệu oai phong như “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!”, “Chủ nghĩa Marx-Lenine vô địch muôn năm!”… làm ta liên tưởng đến sự vô địch của con sư tử! Vâng, nó vô địch thật nếu nó không bị lũ sâu bọ kia đục khoét! Nhưng tiếc thay, con sư tử oai hùng kia đang mang trong cơ thể nó cả một “bầy sâu”! Điều đương nhiên không thể tránh khỏi, con sư tử đó sẽ ngã quỵ một ngày. Đây là quy luật tất yếu!
Cách đây 6 năm, tháng 1/2012, ĐCSVN ban hành NQTƯ4 (Khóa XI), nhận định “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên - trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp - suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống…” Nhưng 6 năm qua nạn tham nhũng và suy thoái trong nội bộ Đảng ngày càng trầm trọng! Bộ phận không nhỏ kia ngày một lớn mạnh! Đầu năm 2013, trước khi bị kết án 2 năm tù giam về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ…”, nhà báo Trương Duy Nhất có viết: “Hồi TBT Nguyễn Văn Linh đã nghe nói “nhà dột từ nóc”. Đến giờ, hình như “cái nhà” ấy không những dột từ nóc mà “dột nhiều chỗ khác nữa”. “Dột nhiều chỗ khác” là cách nói của TBT Lê Khả Phiêu, chứ thực ra không phải dột mà nhiều chỗ đã thực sự …mục nát rồi!” . Rõ ràng là cái nhà đó không chỉ dột từ nóc mà nó dột nhiều nơi, nhiều chỗ khác trong ngôi nhà này rồi! Một ngôi nhà đã dột nát và mục ruỗng khắp nơi như vậy, thử hỏi ai trong chúng ta có thể sống trong ngôi nhà như thế?
Nay nhà báo Duy Nhất đã ra tù, song tình hình suy thoái và vấn nạn tham nhũng trong Đảng như ông đã đề cập không những không bị đẩy lùi, ngược lại nó càng trầm trọng hơn! Đề cập đến quốc nạn tham nhũng ngày nay, nhiều người cho rằng loại tham nhũng tệ hại và nguy hiểm nhất chính là tham nhũng quyền lực và tham nhũng chính trị! Cấu trúc quyền lực ở ViệtNam là cái nôi sản sinh ra tham nhũng, trong khi ta lại chưa có thiết chế kiểm soát quyền lực! Chính bọn sâu bọ tham nhũng lại là những kẻ to mồm nhất trong việc hô hào chống tham nhũng và ra sức bảo vệ cái cơ chế đã sản sinh ra chúng! Nói một cách nôm na, bọn chuột bọ tham nhũng sinh ra và ẩn nấp trong cái BÌNH nào thì chúng tìm mọi cách bảo vệ cái BÌNH ấy, không để bất cứ ai ném vỡ nơi trú ẩn của chúng! Nói như tác giả Xuân Dương của báo GDVN là bọn tham nhũng hiện đã liên kết với nhau và đã trở thành các “nhóm lợi ích bán nước, hại dân”, ngang nhiên tồn tại trong nội bộ Đảng và hệ thống chính quyền!
Không thể chống tham nhũng bằng cơ chế độc quyền, độc đảng! Càng không thể tiêu diệt nạn tham nhũng chỉ bằng những văn bản suông như quyết định, nghị quyết, chỉ thị được! Chỉ có thể chống lại nó, ngăn chặn và tiêu diệt được tệ nạn này bằng cơ chế pháp luật nghiêm khắc! Đặc biệt bộ máy nhà nước phải được thiết kế và tổ chức sao cho 3 nhánh quyền lực (gồm luật pháp, hành pháp và tư pháp) phải độc lập thật sự với nhau, phải đối trọng với nhau và có thể kiểm soát và giám sát lẫn nhau, đồng thời phải thiết lập sự kiểm soát từ phía xã hội, nghĩa là phải có xã hội dân sự! Một cơ chế như vậy mới có thể kiềm chế được quyền lực, và mới đủ sức ngăn chặn các hành vi lạm quyền, lộng quyền, vượt quyền, chuyên quyền và độc quyền như hiện nay! Đó chính là cơ chế tam quyền phân lập của nhà nước pháp quyền thật sự, chứ không thể là cơ chế tam quyền nhất lập XHCN dưới sự chỉ đạo của một thiết chế siêu quyền lực là ĐCSVN như hiện nay!
         Hà Nội, ngày 15/01/2018.
                 N.Đ.Q. (Tác giả gửi BVB)

ĐỪNG 'VÕ MỒM' NỮA TƯ SANG HÃY 'NGẬM MIỆNG' LẠI !

ĐĂNG LÂM/ BVN 16-1-2018

Sau khi rời chính trường, ông Trương Tấn Sang (Tư Sang) liên tục đi các địa phương, viết bài, trả lời phỏng vấn thể hiện “Thái thượng hoàng”, tự coi mình đứng trên Đảng, trên Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng, Nhà nước, chỉ đạo Bộ Chính trị. Vậy xem ông Tư Sang là người như thế nào?
Năm 2003, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7, kỳ II đã kỷ luật ông Tư Sang bằng hình thức khiển trách vì trong thời kỳ làm Bí thư thành ủy TP Hồ Chí Minh (khóa VI) chưa làm tròn trách nhiệm trong việc chỉ đạo điều tra, ngăn chặn hoạt động tội phạm của Trương Văn Cam cùng đồng bọn (thực ra là có liên quan đến Năm Cam và đồng bọn, nhưng dùng từ “chưa làm tròn” để nhẹ tội cho ông Tư Sang) và có những khuyết điểm trong công tác cán bộ.
Hồ sơ ky luật ông Tư Sang vẫn còn lưu tại Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Lật lại đối chiếu với hiện nay, với sai phạm đó chắc chắn ông Tư Sang bị xóa tên khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Hồi đó, Ban Chấp hành Trung ương chưa xem xét việc ông Tư Sang đầu hàng, khai báo địch. Nếu xem xét, chắc chắn bị khai trừ Đảng rồi. Hồ sơ thu được của địch chắc vẫn còn lưu tại Tổng cục II - Bộ Quốc phòng. Đồng chí Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục II - Bộ Quốc phòng biết rất rõ việc này.
Ông Tư Sang phát biểu luôn tỏ vẻ ta đây là người liêm khiết, vậy xin hỏi chị em Đặng Thị Hoàng Yến- Đặng Thành Tâm là ai, có phải là doanh nghiệp sân sau, sân trước không? Sau khi Đặng Thành Tâm làm ăn thua lỗ, Đặng Thị Hoàng Yến trốn ra nước ngoài thì ông Tư Sang bỏ rơi, theo kiểu “vắt chanh bỏ vỏ”. Khi giá cao su cao vời vợi, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam làm ăn phát đạt, ông Tư Sang và Ba Thung, Tổng giám đốc, quyền chủ tịch Tập đoàn cao su Việt Nam đi đâu cũng như hình với bóng; Ba Thung lo tài chính, hậu cần cho gia đình để “anh Tư Sang yên tâm hoạt động chính trị”. Nay Ba Thung bị bắt giam, ông Tư Sang viết báo đề nghị xử lý nghiêm tham nhũng?!
Rồi quan hệ của ông Tư Sang với Đặng Văn Thành, Trương Mỹ Lan, Ba Vui, Khoa Keangnam, Hùng Anh – Techcombank, Hiền “mít”, Tiền “còi”, Nhơn Novaland, Dũng Tân Hoàng Minh và số đã bị bắt như Nguyễn Đức Kiên, Phạm Công Danh, Lý Xuân Hải... Trương Tấn Sơn, con trai ông Tư Sang có còn làm cho Đặng Văn Thành không? Có bao nhiêu cổ phần trong tập đoàn Thanh Thành Công? Có dám đứng tên không hay lại nhờ một kẻ vô danh đứng tên hộ?
Trương Mỹ Lan làm mưa, làm gió thị trường bất động sản ở thành phố Hồ Chí Minh có bóng hình của ông Tư Sang không? Thử hỏi mấy bà bán nước gần 60 Thạch Thị Thanh là Trương Mỹ Lan, Đặng Văn Thành, Ba Vui, Khoa Keangnam, Hùng Anh Techcombank, Hiền “mít”, Tiền “còi”, Nhơn Novaland, Dũng Tân Hoàng Minh và số đã bị bắt như Nguyễn Đức Kiên, Phạm Công Danh, Lý Xuân Hải bao nhiêu lần đến nhà ông Tư Sang thì biết ngay.
Hỏi tất cả các doanh nghiệp lớn ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, có ai chưa đến nhà ông Tư Sang không? Chắc chắn là không, bởi họ không chỉ đến một mà đều đến nhiều lần rồi.
Ông Tư Sang nói với cử tri là nhà ông nhỏ, sẵn sàng trả lại Đảng, Nhà nước khi về hưu, không lấy một mét biệt thự, vậy những thông tin tài sản trên trang Chân dung quyền lực, ông Tư Sang có dám mời cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra vào xác minh để chứng minh sự trong sạch của ông không?
Người dân Đức Hòa nói, nhà thờ gia đình ông Tư Sang ngày nào cũng đông khách, chủ yếu là các doanh nghiệp. Doanh nghiệp đến không phải quý ông, mà sợ ông ném họ và “lò”.
Ông Tư Sang thù anh Năm Chi vì không kỷ luật ông Ba Dũng, làm giấc mộng thành Tổng bí thư của ông Tư Sang bất thành. Vì vậy, ông trút giận nên đầu Xuân Anh. Chính ông Tư Sang là một trong những người tích cực nhất trong việc đánh Xuân Anh mất chức Bí thư thành ủy, Ủy viên Trung ương Đảng. Ông Tư Sang đã viết về anh Bá Thanh: “Đà Nẵng bây giờ khác hẳn Đà Nẵng trước đây-văn minh, hiện đại hơn, đã được nhân dân trong nước và nhiều người nước ngoài biết đến, trong đó có phần đóng góp quan trọng của đồng chí Nguyễn Bá Thanh”. Xuân Anh là học trò cưng, được anh Bá Thanh đào tạo, bồi dưỡng làm người thay thế!
Ông Tư Sang cũng là người đứng đằng sau cổ vũ đánh tan thường vụ Quảng Nam.
Cán bộ, đảng viên Đà Nẵng, Quảng Nam hận ông Tư Sang (tất nhiên trừ Trương Quang Nghĩa, Huỳnh Đức Thơ. Cặp Nghĩa- Thơ có thuê các công ty truyền thông hàng đầu để PR thì nhân dân Đà Nẵng cũng không ai yêu quý họ, cũng không thể xóa hình ảnh thần tượng Bá Thanh trong lòng nhân dân Đà Nẵng được)!
Ông Tư Sang tham gia Bộ Chính trị nhiều khóa, đã từng là Thường trực Ban Bí thư, Chủ tịch nước. Mọi việc thành công hay thất bại, được hay chưa được đều có trách nhiệm của ông Tư Sang. Sao ông Tư Sang lại phát biểu về những cái chưa được, cái thất bại như là của ai đó, ông vô can, ông lương thiện, ông trong sáng, còn mọi người khác đều tối. Đúng như cha ông ta thường nói “lưỡi không xương nhiều đường uốn éo”. Hay ông bức xúc về việc không được làm Tổng bí thư!
Này, ông Tư Sang, nghỉ hưu rồi thì hãy ráng làm người tử tế! Nếu không làm người tử tế được thì ít nhất cũng ngậm miệng lại.
Đăng Lâm (Cựu cán bộ thành ủy Đà Nẵng)
* Bài của tác giả gửi đến TTHN
(Tin tức Hàng ngày)
'ĐI VỀ ĐÂU, HỠI EM '?

HẠ ĐÌNH NGUYÊN/ BVN 17-1-2018
Nhân đọc bài viết “Gặp gỡ đầu tuần hôm nay", đăng trên các báo Đảng của tác giả Trương Tấn Sang, tôi bỗng nhớ đến lời bài ca của Trịnh Công Sơn: “Đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không còn chút nắng”.
Ấy chỉ là tâm trạng riêng tôi hay ai đó, chứ ở anh Tư Sang thì nắng hãy còn đầy, mà rực rỡ hay không thì chưa biết, nhưng biểu hiện ở bài viết với khí văn ngồn ngộn những ý tưởng lớn, như là bài khai bút có tính thông điệp đầu năm mới như thường lệ, mà anh Tư khiêm tốn – vì không còn là Chủ tịch nước chăng – nên gọi là “Gặp gỡ đầu tuần” cho nhẹ nhàng hơn, hơi hám một cuộc hẹn hò đâu đó.
Như mô tả, đương nhiên là mùa xuân Hà Nội rất đẹp theo truyền thuyết, anh Sang thơ thẩn đi dạo trong “Hoàng thành” Hà Nội, vốn là Cố đô văn vật ngàn năm, và cũng là Thủ đô rực rỡ hôm nay, nơi một thời anh từng ngồi ở ngôi vị cao nhất nước. Anh thăm thú những thắng cảnh - di tích, khi “sáng sớm tinh sương”, lúc “chiều tà nắng tắt” với nhiều cảm xúc hoành tráng, như khi còn ở ngôi cao. Nhân lúc hứng thú, với vài dòng mở đầu bài viết cho cuộc nhàn du, anh lôi tuột một mạch, đưa người đọc lao vào lịch sử, ngồn ngộn sự kiện các triều đại được gọi là thời phong kiến Đinh Lê Lý Trần … làm người đọc có thể tối mắt. Sau đó anh dắt tay người đọc quay về hiện tại, gây một cảm giác ngỡ ngàng đột ngột, ngoài dự kiến:
Nếu tình hình tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Đảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu?”.
Hình như anh muốn gọi hồn dân tộc để về phù trợ, thúc đẩy cái gì đó cho hôm nay?
Thật sự hiếm hoi trong hàng ngũ cấp cao của Đảng lãnh đạo, lại có người yêu môn lịch sử đến như anh. Tôi bâng khuâng tự hỏi: Sao anh xưa không là một giáo viên lịch sử nhỉ?! Dù sao cũng rất đáng hoan nghênh, nhưng liệu anh có lạc đường không đây, con đường mà Đảng của anh đã vạch? Đầu tôi hơi bị đảo lộn, vì nhớ lại mấy câu thơ của Lê Đức Thọ, với tư cách một lãnh tụ khét tiếng, đã xác định hướng đi cho Đảng Cộng sản Việt Nam, dứt khoát và triệt để:
Ta đi đào hố chôn đế quốc,
Chôn bọn chó săn, bọn chúa đất
Chôn cả thời xưa đã tắt rồi.
Dựng lại cơ đồ trong tiếng hát,
Cho mùa xuân nở có hoa tươi…
Mấy câu thơ ngắn ngủi, nhưng hàm súc những quyết tâm sấm sét.
Nhưng “đế quốc” thì đã không chôn được rồi, nay nó bành trướng dữ dội ngay trước mũi. Núi liền núi sông liền sông với hàng đống hợp đồng toàn diện và chiến lược. Bọn chúa đất cũ lạc hậu đã bị chôn cả rồi. Các vị chúa đất mới đã nổi lên nhiều như nấm, dưới các hình thái mới tân kỳ hơn, tính toán kỹ hơn, càng to đẹp với những “biệt phủ” đó đây, ăn đứt thời xưa. Mà toàn diện cái thời xưa cũng đãtắt rồi. Sao anh Tư, cũng có một thời ngồi ở ngôi cao trên ấy, nay lại khơi dòng cảm xúc đến nao lòng những oái oăm của dòng lịch sử đã qua? Và,bao mùa xuân đã nở những đóa hoa tươi mà chính anh Tư cùng nhiều đồng chí của mình, đã từng “tương ánh hồng”, cùng nhau rực rở trên hội trường Ba Đình, các hội trường trong cả nước đó đây, vào những dịp đăng quang các thứ, lễ lạc, hội hè. Chẳng phải cái ước ao của nhà thơ lãnh tụ rất tiếng tăm ấy, như đã thành tựu gần trọn vẹn nửa thế kỷ, mà anh Tư vinh hạnh là người trong cuộc đó sao? Vẫn luôn có hoa tươi dù trên sự đổ nát, khi xuân về.
Bài viết chào xuân năm nay của anh Tư, lại khởi duyên ngay với mùa đại án nở hoa, rất nhiều quan chức cấp trung và cao của Đảng đã đứng trước vành cong cong móng ngựa, người dân thường không thể nhớ hết tên. Có những kẻ mừng vui, lại có những người mang nét u hoài. Cái u hoài ở chỗ nơi Tòa án không hoa, mà trước đây trên sân khấu hội trường thì đầy hoa rực rỡ cũng với những nhân diện ấy. Tôi thấy nhiều hình ảnh anh Tư trao hoa hay nhận hoa gì đấy, cũng cười tươi như hoa vậy. (Khứ niên kim nhật thử môn trung/ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng – Thôi Hộ)
Đang dạo bước thưởng xuân ở Hà thành hoa lệ, bỗng dưng anh dẫn người đọc đi vòng vèo vào lịch sử. Anh nói nhiều thứ, về lẽ đời lẽ đạo, các lẽ hưng vong, suy thịnh của các triều đại. Vẫn cố đọc, những mong được anh soi sáng điều chi hôm nay. Cuối cùng, hóa ra anh bảo, người người hãy vỗ tay cho to về cuộc chống tham nhũng do Tổng Bí thư Trọng làm Nguyên soái, mà anh vẫn tiếp tục là người trợ lý âm thầm cần mẫn! Đồng ý thôi, tham nhũng thì toàn dân không ưa rồi, nhưng “ta đánh ta”, tức tham nhũng đánh tham nhũng, thì người dân không phe phái, vỗ tay theo kiểu cách nào đây? Đừng nhanh chóng gắn vào miệng dân hai chữ hồ hởi hưởng ứng. Có đấy, nhưng lại rất nặng lòng ưu tư.
Cách đây không lâu, thời kỳ quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc xâm chiếm, dân tình sôi động thì Đảng trấn áp, bảo: “Hãy để cho Đảng lo”. Nay Đảng đánh Đảng, chuyện nồi da xáo thit, lò Đảng nấu Đảng, đến “củi tươi khô gì cũng cháy”, thì dân nỡ lòng nào mà xía vô, mà cố xía cũng không được, vì lẽ Đảng không thích! Chỉ được phép vỗ tay thôi sao, và không được có ý kiến? Người dân không còn ngoan như thế nữa, dù bị coi thường. Nhưng lòng dân bao la, đứng trên các loại lợi ích phe phái mà ngẫm nghĩ. Tất cả “chúng” – kẻ đánh và người bị đánh – đều là con em của họ mà ra, nên không khỏi ngậm ngùi. Không nô nức hùa theo, mà dân tự hỏi: Cái gì đã tạo nên cái lò nấu khốn cùng ấy?
Những nam, những nữ, mới ngày nào xinh tươi hớn hở, được Đảng – chứ không ai khác – dìu dắt đào tạo, tung hê khen tặng, gởi gắm niềm tin với hoa choàng rực rỡ, nay héo úa tả tơi, đẫm nước mắt trước vành cong của quan tòa. Cái hào khí và ánh quang vinh mà Đảng trao cho, lại đổi màu, bèo nhèo những lời xin xỏ và khóc lóc thậm tệ. Và anh Tư, đã nhồi thêm những lời mắng mỏ cay nghiệt, nhưng rất hay: Lòng tham vô đáy, lợi dụng kẽ hở của chính sách, lạm dụng quyền lực để móc túi nhân dân, rồi chính những kẻ đó và bè cánh lại tìm mọi cách để "chui sâu, leo cao" hơn, nhằm bảo đảm cho khối tài sản ăn cắp đó tiếp tục sinh sôi, nảy nở?”.
Người ta tự hỏi, cái bối cảnh nào để các thứ ấy sản sinh? Tham nhũng là nguyên nhân đầu tiên, hay nó chỉ là sản phẩm? Sao bọn này giỏi thế? Lợi dụng kẽ hởlạm dụng quyền lựcmóc túi người dân,chui sâu leo cao… Và chúng từ đâu ra? Cũng toàn là bậc anh tài nhá nhem của Đảng. Hàng hàng hoàng tử, thái tử, thế tử và các loại thê tử đông như kiến ở các ngóc ngách những cấp những ngành, chẳng thể do thế lực thù địch nào cài cắm. Và cái khung sườn giàn giá nào để cho chúng nương tựa bò leo ngang dọc đến thế? Toàn cảnh là bức tranh mang màu hắc ám của sự xung đột giữa những cái xấu nội tại không được gọi tên. Nếu không gọi cái cấu trúc bất ổn đó là sản phẩm của một thứ cơ chế cầm quyền, thì là gì, của ai? Đảng không phải mới ra đời hôm qua, mà ít nhất đã hơn 40 năm toàn trị. Anh Tư la hét vào chỗ dường như trống không.
Nguyên nhân của các thứ nguyên nhân đẫm lệ ấy là đâu? Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh tự nêu ý kiến trên facebook của mình, vượt hẳn cái điều trăn trở lập lòa, và sự lên án vòng vo lợi, lạm, móc, chui, leo như sự tả chân về một thời kỳ xã hội mạt rệp nào đó. Chênh nói ngắn mà rõ: “Ngày nay không còn là thời đại đi tìm hay tin vào một minh chủ, minh chúa, mà là cần một minh chếAnh Tư không hề hé môi tới cái minh chế” anh nhà báo vừa đặt tên, mà chỉ thích nói chuyện xa vời của lịch sử, ở đó cứ thấp thoáng bóng dáng minh chủ, minh chúa, có khi gọi thuần Việt là “ông vua tốt”, với bản “anh hùng ca dang dở” như trong bài thông điệp đầu năm ngoái. Thầm nghĩ, chỉ có cái minh chế mới có thể cứu vớt được anh Tư ra khỏi nỗihằn học rất tâm huyết có tính ẩn dụ này, bao gồm cả sự lo âu và phấn khích. Là một thể chế minh bạch, công bằng mà dân là chủ, không cần thứ đầy tớ lộn sòng, giả danh. Vì chính họ – những vị này – đã lậm ma túy quyền lực, nên tự huyễn hoặc mình là “vua tốt” mà không thể tự nhận ra, đã làm rối việc. Thậm chí, minh chủ còn đòi bỏ tù cái minh chế ấy, và khai trừ những ai gọi tên và cổ xúy nó (chỉ thị 102, 105), nhằm giữ cái uy tưởng tượng của mình. Lại có người cứ tơ tưởng lau gương, rồi soi gương lịch sử. Chuyện hôm nay thật quá rõ, hà tất phải mượn ưu, mượn nhược của năm triều đại ra suy gẫm, học tập. Lịch sử không thể hà hơi tiếp sức cho những chuyện nhá nhem không rõ ràng. Nhưng đâu chỉ là tham nhũng vật chất và quẩn quanh chuyện đốt lò? Người ta còn nói đến tham nhũng quyền lực, tham nhũng sự công bằng của luật pháp, tham nhũng niềm tin từ bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, tham nhũng thành tích của quá khứ, và tham nhũng cả lịch sử, bằng cách bẻ cong, uốn dẻo, tái tạo sao cho “lịch sử” chảy quanh mục tiêu trước mắt của mình, để phục vụ chuyện đốt lò chẳng hạn. Các loại tham nhũng này – là sự suy thoái từ não – thì cái lò nào đốt được nó? Bí quá, người ta kêu gào lịch sử chăng? Và dường như cũng thống nhất phong thái khẩu khí cách điệu, xa vắng xưa nay của anh Tư khi anh viết: “Mỗi chúng ta rồi đây, đều phải đứng trước sự phán xét công bằng của lịch sử, của dân tộc.
Như một lời nhát ma kẻ yếu bóng vía!
Lịch sử không biết lên tiếng cãi vã, lịch sử dường như nằm im đấy, nhưng vẫn tồn tại bền bỉ. Mặt khác, “lịch sử” là một từ ngữ phức tạp, ai mượn dùng tạm cũng được, theo nghĩa mình muốn. Lịch sử không thể nửa đêm thức dậy dựng phiên tòa để phán xét ai đó. Lịch sử cũng không thể đem ra dọa dẫm bằng thuyết định mệnh. Đảng ta vốn vô thần, sao “đồng chí” lại có chuyện “đồng bóng” thế kia! Lịch sử để nghiên cứu phục vụ cái gì đó, nhưng không thể thay cho luật pháp. Một đất nước đi xuống, yếu kém, bệ rạc thì lịch sử của nó cũng bị chôn vùi, dân tộc lầm than, có khi bị xóa sổ, không còn nữa để mà chờ ngày phán xét. Người cầm quyền chỉ được quyền duy nhất là nói về luật pháp và nhân danh luật pháp. Đạo đức, lịch sử, giáo dục hãy nhường cho những chuyên ngành đã được xã hội phân công. Hễ cầm quyền là dạy dỗ được tất cả người ta sao! Có cái hay của thời xưa không thể áp dụng cho ngày nay. Sự lộn sòng đó đã là lợi dụng, là lạm dụng, là biểu lộ lòng tham không đáy về mặt chức năng và tư tưởng rồi còn gì! Lại nữa, nếu quan chức không thể làm cái việc “móc túi người dân ở đường phố được, thì công khai lấy thông qua các chính sách, vốn đã mở toang mênh mông những thứ mà anh ấy cố gọi là kẽ hở, theo cách nói giảm nhẹ của ngôn ngữ tòa án hiện hành. Thật ra thì bóp cổ và tịch thu, như đang tiếp tục diễn ra quyết liệt với hàng trăm thứ thuế mánh khóe chồng chất. Một số không ít người, lại có thể cùng nhau lén lút chui sâuleo cao trong một hệ thống quyền lực chặt chẽ và khổng lồ này được sao? Các từ ngữ sử dụng như trên rất mỉa mai, nhưng đầy sáng tạo, nó lạng lách như đám choi choi đua xe ngoài phố.
Cái gốc mọi sự đáng nói, không phải chỉ ở tham nhũng, nhưng anh Tư không nói tới, phải chăng vì vướng bóng quân vương của anh ở đâu đây. Cái đạo đức thời xưa phong kiến thì quan như phụ mẫu. Đạo đức ngày nay của người cầm quyền nằm ở thực thi hai chữ “Dân chủ”, xin đừng lượn lờ đánh tráo. Sự suy tàn của các triều đại xưa nằm ở chỗ bất tài, ăn chơi trụy lạc của lớp người kế thừa. Sự sụp đổ của một chế độ ngày nay nằm ở thể chế độc tài, vốn là cha sinh mẹ đẻ của suy thoái, tham nhũng, bè cánh. Sao lại nâng cao tham nhũng suy thoái lên thành nguyên nhân đầu tiên, ở vào vị trí cao hơn cái triết lý nền tảng của chế độ ấy? Có thể nói ngược lại được không? Sau khi khệnh khạng băng qua lịch sử vài bước chân, anh công khai bày tỏ nỗi lo lớn của mình. Thẳng thắn, hùng hồn, xanh rờn trách nhiệm, anh hỏi: “Nếu tình hình tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Đảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu?”.
Câu hỏi của anh thật là khẩu khí tràn đầy, nhưng không biết anh hỏi ai?
Hơn 40 năm qua, anh ngồi đứng ở đâu, và làm gì? Anh đào và chôn cái gì? Sao anh trút phẫn nộ đến thế vào bọn tham nhũng ngày càng sanh sôi nảy nở, mà không phải vào cái đằng sau lưng tham nhũng, mà nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh gọi ất ơ là thiếu cái “minh chế”?
Xin tạm trả lời câu hỏi của anh: Tất cả các thứ ấy –tham nhũngsuy thoáiĐảng viết hoachế độ, đất nước sẽ đi về cùng chung một mối.
Nó nhẹ nhàng thôi: Chuyện tham nhũng thì có thể tạm hiểu được, dù rắc rối. Nhưng cái suy thoái về mặt sinh học ở trong não rất khó tự biết, thì làm sao loại trừ? Đảng này thì có thể xàng xê sao đó, nhưng cái tên vẫn còn thì không sao cả, anh này về hưu có anh khác thay, như các đợt trước vậy! Chế độ nàycó thể chỉnh sửa cũng dễ, cứ na ná sơn theo màu sắc Trung Quốc, và gắn thêm cụm từ 30 năm đổi mới, là tạm được. Dân tộc này có thể tàn tạ, nhưng vẫn trường tồn, ít nhất vài ba thế kỷ nữa, những chiếc ghế đầu triều vẫn còn đó cho nhiều lượt người ngồi. Còn đất nước này thì vẫn mãi ở bên cạnh ông láng giềng, vẫn núi liền núi sông liền sông, bền vững!
Tất cả sẽ không đi về đâu cả, anh ạ! Vẫn như hàng ngày, nó tiếp tục ổn định đi xuống.
Mượn chút tinh sương sáng sớm, cả chút nắng tắt chiều tà, nhắn gởi anh lời chào đầu tuần hôm nay,với chút chia sẻ nhỏ nhoi. Cũng xin ghi nhớ lời khuyên của Tiên nhân gởi gắm thông qua anh Tư, đến toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xã hội chủ nghĩa: “Tri túc tâm thường lạc, vô cầu phẩm tự cao”, dù cái bụng đói cồn cào của người dân không đạt đến đỉnh cao ấy, cũng xin quyết không lăn tăn thêm nữa. Tôi cũng nhớ lời của vị tiền nhiệm Sáu Phong, khi rời chức thì về nhà “vui thú điền viên” (là “viên” của ông Sáu Phong, chứ cái “viên” nhà dân hay nhà tôi thì không vui được: bọn có lòng tham không đáy, chui sâu leo cao đàng hoàng đến vẽ ngang vẽ dọc, gọi là quy hoạch cho tương lai!). Anh Ba Dũng thì về nhà “làmngười tử tế”, còn chưa biết có ổn không! Dù vậy, tôi cũng hóng hớt chờ đợi một ngày ông Tổng Trọng về vườn, sẽ để lại câu dạy gì đây, thường thường cũng làm vui cho hậu thế? Cũng xin gởi bâng quơ lời ngợi ca đến anh Đoàn Ngọc Hải quận 1 – quan nhỏ thôi – cái khí phách về vườn khá đậm nét của anh.
Xem chừng, câu nào để lại cũng khó thực hiện. Vì chính anh Tư – vốn đã đạt cái thường lạc, vô cầurồi – mà chẳng phải đang viết những lời hú gió gọi trăng đó sao? Tôi e là ông Trọng cũng không cần dùng đến.
Tôi cũng theo chân anh Tư, cùng lũ trẻ hàng xóm hăm hở bước sang năm mới, nhưng lòng vẫn chưa may mắn có được “một tâm trạng tươi tắn với“niềm tin đã được xốc dậy  cũng không “cùng phấn khởi bước sang năm Mậu Tuất 2018 như anh đã gắn lửa vào miệng dân. Tôi vẫn hắt hiu ca cẩm: Đi về đâu hỡi em, “khi sáng sớm tinh sương, lúc chiều tà nắng tắt”, như âm hưởng câu hỏi hoành tráng “sẽđi về đâu” của anh, đang vang vang trong bài luận văn đầu năm, kêu gọi “lịch sử” hãy về cùng anh hò reo “chống tham nhũng”?
15/1/2018
H.Đ.N.
Tác giả gửi BVN.
'HỌA PHÚC HỮU MÔI PHI NHẤT NHẬT'
TƯƠNG LAI/ BVN 17-1-2018
Để rồi “anh hùng di hận kỷ thiên niên” nối tiếp câu thơ trên! Đây là lời Nguyễn Trãi. Phải chăng đây cũng là sự đúc kết về tính bi hùng của lịch sự từ sự trải nghiệm của chính sự nghiệp lẫy lừng và cuộc đời bi hận của người anh hùng. Quy luật nghiệt ngã này rồi sẽ vận vào cái kết cục bi thảm cuộc đời của người đứng vào hàng số một trong những danh nhân Việt Nam từ cổ chí kim.
Hãy đặt sự đúc kết này vào trong toàn cảnh của bài “Quan hải” (Đóng cửa biển)* mới thấy hết được tư tưởng và những dự phóng từ một tầm vóc thiên tài gửi vào những tứ thơ bất hủ:
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận
(Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ, 
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên. 
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật, 
Anh hùng di hận kỉ thiên niên. 
Kiền khôn kim cổ vô cùng ý)
Tầm vóc thiên tài của Nguyễn Trãi khiến cho ông có đôi mắt vượt lên phía trước khi ông được giao viết chiếu chỉ của Lê Thái Tổ “Cấm các đại thần tổng quản cùng các quan ở Viện, Sảnh, Cục tham lam lười biếng” và “Phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải dụng phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua hết trung, đối dân hết hòa, bỏ thói tham ô. Trừ tệ lười biếng; bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa; coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của chính mình…”.
Chỉ có điều, thiên tài, thật sự là thiên tài, vĩ nhân đích thực là vĩ nhân thường đơn độc. Nguyễn Trãi vượt hẳn lên người đương thời, và vì vậy ông là đối tượng của sự ghen ghét, thù hận và tìm cách hãm hại. Kết thúc chiến tranh, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi được phong đến tước hầu, hàm thượng thư, tham dự việc cơ mật, rồi cũng chính bậc thang danh vọng ấy đã ẩn chứa trong lòng nó hiểm họa không sao tránh khỏi. Có lẽ ông đã dự cảm được điều đó:
Cửa nhà càng rộng, thế càng phiền
(Gương báu răn mình, bài số 16)
Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co
(Tỏ chí mình, bài số 19)
Không phải ai khác mà Lê Thái Tổ vì nghe lời xiểm nịnh đã bắt giam người công thần số một từng nằm gai nếm mật với mình là Nguyễn Trãi. Cho dù là khai quốc công thần, nhưng với phẩm tính trung thực và dứt khoát không khoan nhượng vói những kẻ chỉ ưa xiểm nịnh thì Nguyễn Trãi làm sao tránh khỏi sự căm tức của lũ quyền thần chuyên nghề nịnh hót. Chẳng những thế khó mà được triều đình trọng dụng. Trong một thư gửi cho bạn Nguyễn Trãi đã nói về cái nết “ngông” ấy trong tính cách của ông thời trẻ. Lúc về già, sống giữa triều đình lúc nhúc lũ nịnh thần, ông vẫn giữ lấy cái bản ngã đáng trọng ấy và cũng do đó ông càng lắm kẻ thù!
Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh
Vô thuất năng y lão cánh gia
(Bình sinh vu khoát thật là bệnh của ta
Không thuật gì chữa được, mà già lại thêm nặng)
(Bài “Ngẫu thành” làm vào thời bị thất sủng)
Cái quy luật tàn nhẫn “Thỏ khôn chết, chó săn bị mổ làm thịt; chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ; nước địch phá xong mưu thần bị giết” (Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh; cao điểu tận, lương cung tàn; địch quốc phá, mưu thần vong) đâu chỉ xuất hiện bên Tàu từ thời Xuân Thu với Văn Chủng và thời Tây Hán với Hàn Tín! Hầu như các triều đại phong kiến Việt Nam cũng không thiếu những thảm trạng “điểu tận cung tàn”, chim hết thì xếp cung nỏ vào kho. Những công thần chính trực không mấy khi đi trọn đường đời, mà thường nửa đường đứt gánh. 
Càng trung chính thì càng dễ đứt gãy, càng phải gánh chịu nhiều lời thị phi từ những kẻ mà lòng dạ “khó hiểu như vực sâu”, miệng lưỡi “sắc nhọn hơn chông mác” như Nguyễn Trãi đã từng chiêm nghiệm. Oái oăm thay, sống dai dẳng nhất lại là bọn nịnh thần khéo luồn cúi để được sủng ái, giỏi kéo bè kết cánh để hãm hại người ngay.
Việc Lê Sát, một khai quốc công thần cùng với Nguyễn Trãi và nhiều người khác sát cánh cùng Lê Lợi từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi toàn thắng được phong Huyện thượng hầu, công hàng thứ nhất, đến triều Lê Thái Tông được phong làm tể tướng, lại là người ưa nịnh, hống hách và tham quyền, đã tìm cách diệt Nguyễn Trãi cũng là chuyện dễ hiểu. Nhưng đến lượt Lê Sát lại bị Lê Thái Tông giết cũng lại là chuyện không lạ. Những người đứng ra can ngăn cũng bị trị tội. Sử còn chép họ “cùng bị truy đoạt tấm biển "công thần" được ban cho từ thời Lê Thái Tổ”.
Vậy là, vào thế kỷ XV dẫu là thiên tài Nguyễn Trãi cũng không thể nào vượt qua được cái nan đề của lịch sử vừa nhắc ở trên. Nguyễn Trãi chưa thể nào biết được vào thế kỷ của mình, xã hội Châu Âu trung cổ đang trăn trở chuyển mình. Đó là thời đoạn lịch sử của trào lưu phục hưng văn hóa với những Bocasse, Petrarque, trước đó là tên tuổi của Dante “người khổng lồ” của nước Ý với Thần khúc (Divina Commedia) được xem là “Kinh thánh của thời trung cổ” và sau đó là Thomas More người Anh, với tác phẩm Utopia, được xem là “nhà cách tân tư tưởng vĩ đại”. Nguyễn Trãi của chúng ta chưa hề biết đến họ, nhưng sử học thì nhận biết ở ông “có sự tập hợp của nhiều tính cách nhân vật lớn như thế” (Văn Tạo). Phải chăng vì vậy Nguyễn Trãi được phong tặng là danh nhân văn hóa thế giới năm 1980.
Bi kịch thảm khốc mà nhà văn hóa lớn của Việt Nam phải gánh chịu chình là vì thời đại của Nguyễn Trãi hàm chứa trong nó những nghịch lý: Một là thời thế đã thay đổi, cần phải đổi mới, nhưng đề xướng đổi mới lại là xu hướng Trung Quốc hóa, phản dân tộc (đại diện là các nho thần Lê, Phạm). Hai là cái truyền thống thì bảo thủ (mất tính năng động buổi đầu nhà Trần) tuy rằng nhờ biết nhân danh dân tộc đã nêu lên được một nguyên lý tiến bộ: “Nam, Bắc khác nhau không cần bắt chước nhau”. Ba là xã hội văn hóa khủng hoảng mà không có đường lối tháo gỡ. Hồ Quý Ly tuy đã kiên quyết chống giặc Minh xâm lược, bước đầu gợi ra quan điểm giải Hán hóa về văn hóa và giáo dục song điệu kèn lại ngập ngừng với những giải pháp nửa vời.
Vậy là, đúng như nhận định của học giả đáng kính Trần Quốc Vượng “Nguyễn Trãi tắm mình trong một bầu không khí văn hóa, ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa “Truyền thống” và “Đổi mới”, cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng Trung Quốc hóa và xu hướnggiải Trung Quốc hóa trong nội bộ các thế lực cầm quyền và giới trí thức, văn hóa Đại Việt”. (Văn hóa Việt Nam. Tìm tòi và suy ngẫm. NXB Văn học, 2003, tr.728)
Với sứ mệnh phát huy truyền thống dân tộc và thân dân thời Lý-Trần, trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã dõng dạc và đanh thép chỉ rõ: “Đại Việt ta thuở trước, Vốn xưng văn hiến đã lâu, Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Như vậy là đã xác định được sự “dị thù” giữa nước ta với nước láng giềng phương Bắc cả về cương vực, cả về văn hóa. Tuy nhiên xét trên tổng thể về triều đại, nhất là từ thời Lê Thánh Tông (1460-1497) chính trị thì củng cố chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, tư tưởng thì theo hướng độc tôn nho giáo, bài xích Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian. Vì thế, ngày càng rơi vào quỹ đạo của văn hóa phong kiến Trung Quốc cho dù Nguyễn Trãi từng cố tạo dựng một bước đột phá. Đương nhiên, sức sống của dân tộc tạo nên môt lực nội sinh đã cưỡng lại quyết liệt. Vả chăng, cái thực tế ngoại diên bao giờ cũng vượt lên trên cái duy ý chí của tầng lớp thống trị. (Xem thêm Trần Quốc Vượng, sách đã dẫn).
Chính vì vậy, vượt hẳn lên những người đương thời, Nguyễn Trãi có những cống hiến lớn cho đất nước khó có danh nhân nào trong lịch sử nước ta có thể so sánh được. Riêng một điều này đã cho thấy sự độc đáo của ông: Nguyễn Trãi là nhân vật lịch sử duy nhất đã tự tay mình viết ra những tư tưởng chính trị, quân sự và đạo lý sống của chính mình. Đáng tiếc là sau thảm án của người anh hung, nhiều tác phẩm của ông đã bị bọn quyền thần thắng thế trong triều thiêu hủy.
Sự đúc kết về bi kịch “họa phúc hữu môi phi nhất nhật, anh hùng di hận kỷ thiên niên” của ông với ý nghĩa khái quát sâu sắc có giá trị như một quy luật lịch sử. Mà thật ra, đâu phải đợi đến thảm án Lệ Chi viên thời Lê Thái Tông, ngay thời Lê Thái Tổ, vị đệ nhất công thần Nguyễn Trãi đã thất sủng và đã có lần bị vua hạ lệnh bắt giam, đến khị được tha thì cũng không được trao những trọng trách để thực thi tài kinh bang tế thế. Ông viết điều ấy trong bài “Ngẫu thành”: “Hỷ đắc thân nhân quan hưu lãnh” (Mừng được thân nhàn mà chức quan lại rỗi)!
Chỉ kẻ nịnh bợ và có tài kéo bè, kết cánh như Lê Sát mới được nắm trọn quyền bính. Chính Lê Sát đã có lần đàn hặc, khiển trách Nguyễn Trãi, người mà ông ta biết rằng tài năng và đức độ vượt hẳn mình và những người đang nắm giữ những trọng trách trong triều. Lê Sát là “khắc tinh” của Nguyễn Trãi như nhận định của một nhà sử học! Nhận định ấy ngẫu nhiên lại rọi thêm chút ánh sáng để hiểu về diện mạo của những kẻ hoạt đầu, trí trá nham hiểm, lá mặt lá trái trong mưu toan leo lên cao hơn nữa trên bậc thang danh vọng bằng nhiểu thủ đoạn hạ gục đối thủ có bản lĩnh và quyền uy hơn mình! Quả thật lịch sử là một nhân tố mà thiếu nó thì khó soi tỏ cái đang diễn ra, bởi lẽ “một nền văn minh bao giờ cũng là một quá khứ, một quá khứ sống động nào đó. Do đó, lịch sử một nền văn minh là sự tìm tòi trong những tọa độ cũ, những tọa độ mà ngày nay vẫn còn giá trị (Fernand Braudel,Tìm hiểu các nền văn minh). Chính từ những sự kiện đang xảy ra mà tìm về “những tọa độ” có tác dụng gợi lên một cái nhìn tham chiếu đặng hiểu sâu cái đương đại.
Bằng tầm nhìn của một vĩ nhân, Nguyễn Trãi từ lâu đã hiểu được nghịch lý ấy: Mấy bài thơ mở đầu cho Ức Trai thi tậpđã cho thấy điều đó. Xin dẫn ra đây mấy câu:
Binh thư thân thích bán ly tinh
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng…
(Ký cữu Dịch trai Trần công)
(Sau cuộc binh hỏa, thân thích đã rơi rụng một nửa
Trải muôn chết thân tàn ngẫu nhiên còn sống
Việc cũ xưa đã thành giấc mộng Hòe quốc…)
Vậy là đúc kết quy luật của lịch sử ở tầm vóc của một vĩ nhân khác xa việc mượn lịch sử một cách lố bịch của kẻ xu thời muốn ăn theo cái xu thế ngỡ là đang thượng phong để kiếm chác chút đỉnh khi vốn liếng chính trị chẳng còn gì qua bao toan tính bẩn thỉu để rồi “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”! Của đáng tội, lịch sử không thiếu gì những kiểu người như vậy. Thì chẳng phải Nguyễn Trãi đã mắng thẳng vào mặt lũ giảo hoạt, quay quắt bon chen, nịnh bợ để cốt leo lên cao đó thôi: “Sở dĩ có tai nạn ấy chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là loại người thích sưu cao thuế nặng để vơ vét của dân cho nhiều”. Theo cách nói hôm nay là “ăn của dân không chừa một thứ gì”! Nguyễn Trãi dám mắng bọn quyền thần sâu mọt vì ông đã thật sự nêu gương sáng trong suốt thời kỳ “nằm gai nếm mật” với Lê Lợi, rồi vào buổi “đảng ngụy ngầm gian, theo hùa [với giặc Minh] mà bán nước” cho đến khi bị thất sủng “triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải”, cho dù “Bữa ăn dù có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là” (Nói chí mình, bài số 3) vẫn ung dung tự tại “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bồ quen cật vận xênh xang” (Tức sự, bài số 4) . Nguyễn Trãi chỉ có một điều canh cánh trong lòng không bao giờ nguôi:
Suốt đời ôm mãi lòng lo trước
Chăn lạnh choàng vai thức suốt đêm
Bình sinh độc bão tiêu ưu niệm
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm, bài số 9)
Đối với triều đình nhà Lê lúc bấy giờ, sau “bốn biển đã yên lặng”, Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá! Nguồn gốc sâu xa của thảm án vô cùng đau thương của Nguyễn Trãi bị tru di ba họ là ở đó” (Phạm Văn Đồng). Duyên do của họa phúc đâu chỉ phải một ngày mà nếu bằng vào sự nghiệp và vận mệnh của Nguyễn Trãi thì quả là vì ông “nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá”. Đúng như thế, nhưng cũng cần nói rõ thêm là trong lịch sử, những người phải gánh chịu nỗi oan khiên như Nguyễn Trãi không chỉ có một, Nguyễn Trãi là bi kịch thảm khốc nhất, được nói đến nhiều nhất vì ông vượt hẳn lên trên những người khác về đức độ và tài năng của một anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới. Nhiều oan khiên trong suốt tiến trình lịch sử là do cái nan đề của lịch sử nhân loại vẫn tồn tại từ buổi Nguyễn Trãi tham chính và dai dẳng cho đến tận hôm nay chứ không chỉ trước 1945!
Một khi quyền lực được tập trung vào độc quyền cá nhân nhà vua (thiên tử) thì cái ông “con trời” ấy tùy theo lợi ích của chính nó, có khi do tính cách cá nhân, trình độ hiểu biết, dục vọng riêng tư mà định đoạt mọi vấn đề của đất nước. Cùng với cái đó, sự chuyển giao quyền lực giữa các chủ thể quyền lực theo cơ chế nối truyền hoặc gia đình, dòng tộc còn nhân dân, lũ “dân đen con đỏ” gọi là “bách tính” là viên đá lát đường cho các cá nhân đại diện cho gia đình, dòng tộc trong cuộc tranh bá đồ vương để leo lên ngai vàng, cái ghế quyền lực cao nhất. Chính cái nan đề đó khiến cho tất thảy mọi triều đại đầy rẫy những “tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây” không sao kể xiết. Có chăng chỉ ít hay nhiều tùy thuộc một phần vào thời thịnh trị so với thời suy vong, với minh quân hay với hôn quân trị vì mà thôi.
Đúng là, sự vĩ đại thuộc về Nguyễn Trãi, còn những hạn chế thuộc về điều kiện lịch sử như Võ Nguyên Giáp đã khẳng định nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Gợi lại hình ảnh của Nguyễn Trãi với câu đúc kết ở tầm triết lý mang tính quy luật cốt để có cái nhìn tham chiếu như vừa nói với những gì đang diễn ra trong thời đại đau thương của dân tộc trong buổi nhá nhem, tranh tối tranh sáng đầy nhiễu nhương với câu khái quát của Nguyễn Phú Trọng: “Nhìn tổng quát đất nước có bao giờ được thế này không?” và lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã kịp thời phản bác lại thật tường minh: “Nhìn tổng quát đất nước có bao giờ bi đát thế này không?”.
Bi đát thể hiện tập trung nhất ở chế độ toàn trị phản dân chủ ngày càng bộc lộ rõ cái nan đề của lịch sử đã phân tích ở trên lại đang được phơi bày lộ liễu. Câu chuyện “tiếm quyền” cứ ngỡ chỉ là sản phẩm của chế độ thần quyền thời phong kiến với các “con trời” muốn cho ai sống thì được sống, ai chết thì phải chết thì nay đang hiện diện một cách trắng trợn trong xã hội ta hiện nay. Hai từ “nhân dân” đầy rẫy trên mặt báo, và là điệp khúc mỹ miều được nói đến từ cửa miệng các quan chức từ chóp bu cho xuống đến nơi “thôn cùng xóm vắng”. Thế nhưng trên thực tế thì nhân dân hoàn toàn đứng ngoài mọi quyết định của bộ máy quyền lực do Đảng hoàn toàn áp đặt. Việc “trưng cầu dân ý” được ghi vào Hiến pháp 1946 bị cố tình lờ đi suốt 70 năm qua.
Câu mở đầu cho Khế ước xã hội của J.J.Rousseau ra đời năm 1762, đánh dấu một cột mốc lớn trong tư duy của con người tự nhận thức về quyền làm ngườicủa mình: “Con người sinh ra đã là tự do, vậy mà ở khắp mọi nơi, con người lại đang bị cùm kẹp vẫn đang là một giục giã cho tất thảy những người đang bị cùm kẹp hiện nay. Thành tựu của văn minh loài người với sự ra đời nhà nước pháp quyền với Montesquieu và nguyên lý “Nhà nước của dân, do dân, và vì dân” của Abraham Lincoln đã bị đánh tráo. Đúng hơn là bóp méo và xuyên tạc khi thêm cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào để dễ lừa mị.
Cùng với việc đặt cương lĩnh của Đảng lên trên hiến pháp, gần đây với các “Quy định 105” và “Quy định 102” dấn thêm một bước trắng trợn hơn việc chà đạp lên những thành tựu của văn minh vừa nói. Trên thực tế thì điều đó vẫn đã diễn ra trong nhiều thập niên, nhưng với việc nói toẹt tra là cấm không được có ý nghĩ và nói đến “tam quyền phân lập, xã hội dân sự” cho thấy triều đại Nguyễn Phú Trọng với sự dẫn dắt và áp lực nặng nề, tức thời của tư tưởng và đường lối Tập Cận Bìnhđộc trị hành pháp, “đảng chỉ huy súng” ở Trung Quốc đã vượt xa những tiền nhiệm như Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn Linh.
Sự đàn áp khốc liệt những người yêu nước chống Trung Quốc xâm lược, đòi dân chủ dân sinh diễn ra dồn dập song song với cuộc thanh trừng nội bộ mỗi lúc một tàn bạo và hối hả hơn. Xin dẫn ra đây một nhận định vừa tìm thấy trên mạng:
Vietnam – Cali Today News – Tổng bí thư Trọng đã như thể “lột xác” kể từ tháng Mười Một năm 2017, đặc biệt sau cuộc gặp với Tập Cận Bình của Trung Quốc vào ngày 12/11/2017. Gần một tháng sau cuộc gặp vừa lộ diện vừa cực kỳ bí mật đó, cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng đã bị còng tay. Và đúng hai tháng sau cuộc gặp đó, Đinh La Thăng đã phải đối diện với một mức án nặng chưa từng có đối với một quan chức cấp cao. Chỉ mới vào ngày thứ tư của phiên tòa xử “Thăng – Thanh”, Viện Kiểm sát tối cao đã xuất hiệ n với đề nghị mức án 14 – 15 năm đối với cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng và chung thân đối với Trịnh Xuân Thanh. Với sự xuất hiện khá sớm như thế, có khả năng phiên tòa trên – dự định kéo dài khoảng 2 tuần – sẽ được rút ngắn hơn.
Chính vì thế Theo quan điểm của tôi, Việt Nam không phải là một quốc gia pháp quyền”, nữ luật sư PetraSchlagenhauf đã khẳng định. Cho nên,một phiên tòa công bằng ư? Theo quan điểm của vị nữ luật sư ở Berlin, CHLB Đức, điều này sẽ không thể có. Suốt hai tháng ở Hà Nội, thân chủ của bà không hề được tiếp cận với sự trợ giúp pháp lý, nhóm biện hộ Việt Nam của người này có quá ít thời gian để nghiên cứu bản cáo trạng. Bà là người bị từ chối cho nhập cảnh trước khi bắt đầu phiên xử. Rồi chuyên gia am hiểu sâu sắc Việt Nam, giáo sư Carl Thayer cũng đưa ra một kết luận tương tự: “Ở Việt Nam không có những cuộc điều tra độc lập”. Theo nghĩa này, mọi cáo buộc đều mang tính chính trị. Nhưng vụ tố tụng này có nghĩa như thế nào? Đằng sau đó phải chăng là cuộc chiến quyền lực giữa các phe phái trong Đảng Cộng sản? Một bức tranh rõ nét khó được đưa ra trong những tình trạng không minh bạch đến vậy.
Trong bài này chưa tiện phân tích sâu về sự kiện Đinh La Thăng, nhưng lập luận sau đây của một người tự giới thiệu “chỉ là gã dân đen, bằng những quan sát của riêng mình, tôi thấy những điều sau đây” không phải là không gợi lên những suy ngẫm:
Tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2, của Petro Việt Nam (PVN) vào tháng 5 năm 2011. Thăng là người quyết liệt, ngay lập tức, không úp úp mở mở theo kiểu “tàu lạ” “tàu quen”, cho họp báo, chỉ rõ tọa độ, tố cáo thẳng mặt Trung Quốc xâm phạm lãnh hải, tại thềm lục địa Việt Nam, bùng lên ngọn lửa chống Tàu trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Vụ này, Tàu đau lắm. Đó là tội thứ nhất của Thăng với bọn Tàu.
Thăng là người đầu tiên dám đập bàn mắng chửi tổng thầu Trung Quốc, bố láo, láu cá láu tôm, tại công trường Cát Linh – Hà Đông. Thêm tội thứ hai của Thăng với Tàu.
Thăng là người cách chức hàng loạt những cán bộ cao cấp ngành Đường sắt Việt Nam thân Tàu, tay sai của Tàu, mua đầu máy, toa xe, phụ tùng đểu, toàn đồ phế thải của Tàu với giá cắt cổ, nhưng không dùng được – Tàu hậm hực lắm . Đó là tội thứ ba của Thăng.
Thăng là người công khai ủng hộ Bob Kerry làm chủ tịch quỹ tín thác Đại học Fulbright tại thành phố Hồ Chí Minh. Bọn Tàu cho đó là ý đồ thoát Trung. Tàu điên lên. Tàu càng điên tiết khi không còn người Việt nào căm thù Đế quốc Mỹ, mà lại chỉ căm thù Tàu. Đó là tội thứ tư của Thăng.
Petro Vietnam (PVN) đang ở tuyến trước trên Biển Đông, đối đầu, trực diện với Trung Quốc, bị lôi ra cắt tiết vào lúc này. Ai hưởng lợi nếu không nói là Tàu. Từ nay về sau, PVN còn dám to miệng tố cáo nữa không? Có dám đối đầu không? Có dám xông lên tuyến trước không? PVN suy sụp là loại được một hiểm họa. Trung Quốc giờ đây một mình một chợ trên Biển Đông, hưởng lợi to trong vụ án này.
Nếu một mai lỡ Thăng vào Bộ Tứ, thì hiểm họa thoát Trung là hiển nhiên. Bọn Tàu nham hiểm, thủ đoạn, nên đã phải tính trước, không để Thăng yên. Giết Thăng! Tàu thêm vây cánh. Mỹ và phương Tây mất đi một người bạn quan trọng tại Việt Nam.
Chỉ cần một “tội”, bọn Tàu đã không tha. Đằng này Thăng mắc tới bốn tội với Tàu….
Làm quan có ông nào là không tham ô chấm mút. Tham ô như Thăng thì bao nhiêu người không tham ô trong giới quyền chức Việt Nam. Làm việc và lãnh đạo sao không mắc sai lầm. Sai lầm như Thăng thì nhiều người còn sai lầm nghiêm trọng hơn. Sao không mang ra cắt tiết, xẻ thịt.
Tôi không tin Đảng giành lại được chiến trường quần chúng sau đại án Đinh La Thăng. Trái lại, Đảng còn mất thêm, gây thù chuốc oán, suy sụp lòng tin, mất đoàn kết nội bộ. Đảng càng suy yếu, Tàu càng hưởng lợi. Chỉ có Đất Nước Việt Nam là nạn nhân.
Sẽ quá dài và không cần thiết nếu cứ đi mãi vào cái mê hồn trận của những phiên tòa với những bản án bỏ túi theo một quyết định đã có từ trước của người đang thâu tóm mọi quyền lực vào một tay mình. Chưa bao giờ mà sự dằn vặt của nhà văn Nguyễn Khải từng được dẫn ra trong bài viết về sự ngột ngạt của môi trường xã hội của tôi cách đây nhiều năm lại giằng xé trái tim tôi như những ngày vừa qua: Một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả, thì số phận những cá nhân sẽ ra sao”? (Nguyễn Khải, Đi tìm cái tôi đã mất).
Trong những ngày này quyền lực không còn là “cái bóng” nữa mà đã hiển hiện lên bằng nhà tù và những phiên tòa nhân danh luật pháp xã hội chủ nghĩa. Mà vì vậy, sự đúc kết mang tầm triết lý của Nguyễn Trãi hơn 600 trước đây “họa phúc hữu môi phi nhất nhật” cũng đang là hiện thực bằng xương bằng thịt của những bản án phi luân kết tội rất nặng những người phụ nữ Việt Nam yêu nước, kiên cường trong khát vọng tự do cho bản thân mình, cho con mình như Mẹ Nấm, Trần Thị Nga và bao nhiêu người khác nữa đang bị hành hạ trong nhà tù chế độ xã hội chủ nghĩa này.
Cũng nên nói thêm rằng, chính vào lúc đúc kết về quy luật tàn nhẫn của cuộc sống, Nguyễn Trãi vẫn đủ bản lĩnh và tinh thần lạc quan để ước ao làm sao xóa đi những thảm trạng giày vò cuộc sống của con người, muốn đem nồi nước hoa lan gội cho khắp cả thế gian sạch sẽ:
Nguyện bả lan thang phân tứ hải
Tùng kim tảo quyết cựu ố dân
(Đoan ngọ nhật)
Bởi vậy ông răn dạy con cháu phải sống có đạo lý:
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon
(Bảo kính cảnh giới, bài số 22)
Liệu Nguyễn Trãi có rơi vào ảo tưởng? Thì chẳng phải Albert Einstein từng cảnh báo “Quyền lực thường muốn thu nạp những người vô đạo đức” nên cũng chính Einstein đòi hỏi: Hãy có can đảm để đại diện một cách nghiêm túc những niềm tin đạo đức trong một xã hội đầy rẫy những kẻ vô liêm sỉ”.
Dù sao thì cũng cần nói rằng, làm sao sống mà không có đủ dũng khí để giữ vững một niềm tin về công lý và chính nghĩa trong cái xã hội đang bì thao túng bởi những kẻ vô liêm sỉ!
Ngày 13.1.2018
T. L.


Tác giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét