Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018

20180104. NĂM MỚI CHUYỆN CŨ: DÂN TRÍ VÀ VẬN MỆNH QUỐC GIA

ĐIỂM BÁO MẠNG
NĂM MỚI CHUYỆN CŨ: DÂN TRÍ VÀ VẬN MỆNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUANG DY/ viet-studies 2-1-2018

Kết quả hình ảnh cho nguyễn quang dy
Ông Nguyễn Quang Dy đã từng học tập và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Úc (ANU, 1976-1979), Đại học Harvard (Nieman Fellow, 1992-1993), công tác tại Bộ Ngoại giao (1971-2005). Ông là chuyên gia về nghiên cứu quốc tế, truyền thông báo chí, và đào tạo; đã làm cố vấn cấp cao cho một số tổ chức/chương trình đào tạo; hiện nay là nhà báo tự do và nghiên cứu/tư vấn độc lập. (Ảnh: Tia Sáng)
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn / Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con” (Trích bài “Bính thìn Xuân Cảm” của Tản Đà (1916) trong tập thơ “Khối Tình Con”).
Với trái tim nhạy cảm của một thi sỹ lớn nặng tình với đất nước, trong bài thơ thất ngôn bát cú cố tình viết dang dở (thiếu hai câu kết), cụ Tản Đà đã đau lòng nhận xét về dân trí quốc gia bằng mấy vần thơ cô đọng như lời sấm truyền. Và với bộ óc nhạy cảm của một nhân sĩ lớn có tầm nhìn xa, cụ Phan Châu Trinh đã tâm huyết đề xuất giải pháp chấn hưng quốc gia bằng “khai dân trí” (enlightened wisdom) và “chấn dân khí” (heightened morale). Ngày nay các nhà khoa học gọi sự nhạy cảm đó là “trí tuệ cảm xúc” (emotional intelligence).
Nhiệm vụ bất khả thi 
Không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Obama đánh giá cao tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh như một “triết lý” (philosophy) khi ông đến thăm Việt Nam (23/5/2016). Phải chăng ông Obama muốn nói rằng tư tưởng đó của cụ Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên giá trị, và người Việt lúc này vẫn cần “khai dân trí”? Cũng không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Trump ca ngợi Hai Bà Trưng khi ông đến thăm Việt Nam (10/11/2017). Phải chăng ông Trump cũng muốn nói rằng người Việt đang cần “chấn dân khí”? Không biết điều đó có phải là dấu hiệu của “Đông Tây hội ngộ” hay không, nhưng chắc chắn nó càng khẳng định những gì các cụ Tản Đà và Phan Châu Trinh nói cách đây gần một thế kỷ đáng để hậu thế suy ngẫm. 
Một điều nữa cũng đáng suy ngẫm là vào thời Minh Trị (Meiji era), các nhân sĩ Nhật như ông Fukuzawa Yukichi đã giúp nước Nhật khởi nghiệp quốc gia, trở thành một đế quốc hùng mạnh khi phương Đông còn chìm đắm trong đêm dài lạc hậu. Sau chiến tranh, giới trí thức Nhật một lần nữa lại giúp nước Nhật bại trận chấn hưng, trở thành một cường quốc dân chủ. Người Nhật đã làm được điều đó vì họ trọng dụng trí thức và mở cửa để học hỏi phương Tây. Người Việt không làm được điều đó vì coi thường trí thức và đóng cửa để “bế quan tỏa cảng” với phương Tây, mà họ chỉ coi trọng khổng giáo (nay đã thành hủ nho). Gần đây, Việt Nam phát động “định nghĩa trí thức” thì e rằng đã quá muộn (too little too late). 
Việt Nam hiện nay có hàng chục vạn giáo sư tiến sĩ, nhưng chắc chỉ có vài trăm người là trí thức thực sự có tư duy độc lập và sáng tạo. Thói háo danh, thích xu nịnh và trọng bằng cấp (dù bằng giả và đạo văn), làm nhiều người ngộ nhận mình là trí thức. Hệ quả không định trước của chính sách cai trị độc đoán và ngu dân làm cho quan trí ngày càng thấp. Có người gọi đó là “định luật trên dưới cùng ngu”. Dân trí thấp kéo theo mọi cái đều thấp, dẫn đến vô cảm và vô minh, làm cho ý tưởng khai dân trí trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.
Cách đây một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh hô hào “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như một triết lý để chấn hưng quốc gia. Nhưng đến nay, người Việt vẫn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường, chưa thoát khỏi bãi lầy ý thức hệ đã lỗi thời. Trong khi người Nhật đã khởi nghiệp quốc gia (từ thời Minh Trị) và chấn hưng đất nước (từ sau chiến tranh thế giới hai) thì người Việt vẫn loay hoay “định nghĩa trí thức”. Trong khi người ta hô hào “công nghệ 4.0”, thì các quan cũng như dân vẫn còn đồng bóng, tin vào bói toán và cúng bái, cầu xin người chết thuộc thế giới âm làm thay việc của người sống ở thế giới dương (như “xin cho”).    
Khai dân trí thế nào
Khai dân trí được hiểu là mở cửa trí tuệ để đưa dân trí từ chỗ tối ra chỗ sáng, như một cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa, nhằm giải phóng trí tuệ con người khỏi vô minh và ngộ nhận do theo đuổi một ý thức hệ đã lỗi thời. Ý nghĩa của Khai dân trítương tự như Enlightenment trong tiếng Anh. Còn Dân khí thường dùng để chỉ sức mạnh tinh thần, không chỉ dựa trên lý trí mà còn bao gồm cả cảm xúc (EQ). Chấn dân khí chính là nhằm khôi phục và tăng cường sức mạnh tinh thần và nhuệ khí của dân tộc. Một khi dân trí thấp kém và dân khí yếu hèn thì giới trí thức phải giúp nhau và giúp người dân khai mở trí tuệ để đổi mới tư duy, góp phần chấn hưng quốc gia và hội nhập cùng với trào lưu chung của nhân loại tiến bộ.  
Có nhiều khái niệm liên quan đến người dân như “của dân, do dân, vì dân” (of the people, by the people, for the people) của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1863), hoặc “tam dân chủ nghĩa” (three principles of people) của ông Tôn Trung Sơn (1924) bao gồm “dân tộc” (nationalism), “dân quyền” (civil rights), “dân sinh” (people’s livelihood)… Sinh thời, cụ Phan Châu Trinh và các nhân sĩ khác đều quan tâm vận dụng những tư tưởng này. Nhưng các cụ không biết rằng một thế kỷ sau, những tư tưởng cấp tiến đó vẫn còn là khẩu hiệu. 
Không phải chỉ có giới cầm quyền, mà cả người dân với tư duy truyền thống, cũng tin rằng “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Có lẽ vì vậy mà sau khi quốc gia khởi nghiệp bằng bạo lực do “cướp chính quyền” (năm 1945), Việt Nam đã “khai dân trí” bằng hệ thống “bình dân học vụ”, và sau chiến tranh (năm 1954) bằng hệ thống “bổ túc công nông”. Điều đó không sai về công bằng xã hội, nhưng là thảm họa nếu phủ nhận vai trò của trí thức khi người Việt muốn khởi nghiệp hay chấn hưng quốc gia. Nó lý giải tại sao Việt Nam vẫn tụt hậu và chính phủ “kiến tạo” còn gặp khó khăn khi xây dựng một nền kinh tế tri thức.  Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với Nhật Bản (và các nước khác). 
Nhưng làm sao có dân trí cao khi người Việt Nam bắt chước người Trung Quốc đấu tranh giai cấp cực đoan bằng bạo lực (với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”). Thời “cách mạng văn hóa”, Mao Trach Đông đã nói thẳng “trí thức không bằng cục phân” và đuổi họ về nông thôn để “cải tạo lao động” (trong đó có cả Tập Cận Bình). Nhiều người vẫn chưa quên những bài học kinh hoàng về “cải cách ruộng đất” và những màn đấu tố đầy bạo lực. Những gì diễn ra ở Trung Quốc thường lặp lại tại Việt Nam, tuy quy mô, mức độ và thời gian có khác nhau, nhưng mô hình và phương thức gần giống nhau (đến tận bây giờ). Việt Nam chống tham nhũng là rất đúng và cần thiết, nhưng vẫn bắt chước Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên mà chính quyền hành xử cực đoan và thiếu dân chủ. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Mỹ), 79% người Việt trả lời là họ ủng hộ dân chủ “vừa phải”, 29% coi chính quyền là thể chế “rất tốt”, 41% coi là “hơi tốt” và chỉ có 3% coi là “rất xấu”. Nhiều người dân vẫn thích chuyên chính (đối với kẻ khác). Cực đoan và thù hận, vô cảm và vô minh là những căn bệnh nan y mãn tính của người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước). Ai đã khủng bố và giết hại năm nhà báo người Việt tại Mỹ (giai đoạn 1981-1990)?  Cái gì đã làm người Việt (cả hai phía) khó hòa giải dân tộc để chấn hưng quốc gia?  
Một số người phê phán cách dùng chữ “người Việt” là không đúng (mà theo họ phải gọi là chính quyền cộng sản). Phải chăng họ chỉ muốn áp đặt ý của mình cho người khác, và quen đổ lỗi cho người khác, còn mình thì vô can. Chẳng có ai thực sự vô can hay “ngoại phạm” vì người ta hay nói “dân nào thì chính phủ ấy” và “quan tham vì dân gian”. Chính quyền tham nhũng vì người dân hay hối lộ. Có vấn nạn thực phẩm độc hại vì dân gian và tham. Có vấn nạn chạy bằng cấp vì người dân hám danh và thích bằng cấp (do dân trí thấp).
Đánh tráo khái niệm và tụt hậu
Trong bối cảnh Việt Nam, hai chữ “nhân dân” được sử dụng quá nhiều như lạm phát. Từ “ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, chính quyền nhân dân, đến công an nhân dân, tòa án nhân dân, quân đội nhân dân, và chiến tranh nhân dân…Hầu như cái gì cũng gắn với “nhân dân” như khẩu hiệu dân vận. Người Việt thích vay mượn khái niệm “của dân, do dân, vì dân” của người Mỹ và mặc nhiên coi đó là của mình. Thực ra của ai không quan trọng, nhưng họ có thực sự tin vào điều đó không và lời nói có đi đôi với việc làm không. Gần đây, bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng có nói một câu làm bộc lộ bản chất, “Nếu ta sai, ta sẽ xin lỗi dân. Nếu dân sai, dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ một kinh nghiệm thu thuế thật ấn tượng, “Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá vội để vịt nó kêu toáng lên”.
Tại Việt Nam có rất nhiều khẩu hiệu dân túy như “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân” với “dân chủ cơ sở”, theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên tinh thần “dân chủ tập trung” trong nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng các ý tưởng dân chủ đã bị đánh tráo không còn như ban đầu, giống một đoàn tàu bị bắt cóc (hijacked) và người cầm lái bẻ ghi đoàn tàu chạy theo hướng khác. Người ta chỉ giữ lại cái vỏ và những khẩu hiệu mỵ dân để che đậy bản chất mới. Đó chính là “diễn biến” và “suy thoái”. 
Trong Hiến pháp 1946, lời nói đầu đã khẳng định ba nguyên tắc cơ bản là: (1) Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; (2) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; (3) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Đó là một hiến pháp tiến bộ, được lòng dân. Trong thời kỳ hậu chiến (1975-1988), tại Việt Nam vẫn tồn tại ba đảng là Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, và Đảng Dân chủ. Nhưng từ năm 1988, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đã buộc phải “tự giải thể”, chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hiến pháp mới, đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện đất nước. Đó là một bước tụt hậu về dân chủ.
Cụ Hồ đã từng định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu: “Dân chủ là để làm sao cho dân được mở miệng ra. Đừng để dân sợ không dám mở miệng, nhưng còn nguy hại hơn là khi người dân không thiết mở miệng nữa” Nhưng thời thế thay đổi, khi dân chủ và tự do báo chí ngày càng bị thu hẹp. Theo xếp hạng của tạp chí Economist (2012) về chỉ số dân chủ, Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được xếp hạng và nằm trong nhóm các nước độc tài thiếu dân chủ, được bộ ngoại giao Mỹ xếp vào nhóm nước “chưa có dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tôn giáo. Nhưng để lý giải sự suy thoái và tụt hậu hiện nay, không nên chỉ đổ lỗi cho những người cầm lái đoàn tàu, mà còn phải xem lại dân trí của hành khách đi trên tàu.   
Năm ngoái, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã mượn câu đó của cụ Hồ để nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân trong luật báo chí sửa đổi (GDVN,18/2/2016). Trong bối cảnh đó, ông Hùng nhấn mạnh: “Ta mà hiểu rằng quản lý là siết lò so lại không cho làm là không được đâu, là vi phạm Hiến pháp”. Theo “quy trình”, Luật Báo chí điều chỉnh các loại hình báo chí và không cho tư nhân hóa báo chí, còn quản lý thông tin trên mạng được điều chỉnh theo Nghị định 72. Ông Hùng lý giải, “Hiến pháp nói về quyền tự do và chỉ hạn chế bằng luật, thế thì bây giờ các đồng chí định hạn chế cái gì, cấm cái gì thì phải đưa vào luật chứ để trong nghị định là không được đâu… Quản lý bằng nghị định cũng được, nhưng nghị định mà đụng đến quyền tự do dân chủ thì không được”.  Nhưng sang năm 2017, việc kiểm soát báo chí và mạng xã hội còn bị “siết lò so” mạnh hơn, như một bước thụt lùi.
Thực trạng về dân trí
Dân trí về quản trị đất nước chưa trưởng thành (immature). Tuy kinh tế Việt Nam tiếp tục tụt hậu (một số lĩnh vực thua cả Campuchia), nhưng đất nước vẫn đi theo một mô hình “không giống ai” (mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan gọi là “không chịu phát triển”). Tuy chiến tranh lạnh đã chấm dứt gần ba thập kỷ, nhưng Việt Nam vẫn hồn nhiên cử đặc vụ sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, vi phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia Đức, gây khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt, làm chính phủ Đức nổi giận, đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam (và có thể phủ quyết EVFTA). Trong khi nhà nước hô hào về “chủ quyền quốc gia” và “an ninh quốc phòng”, thì người Trung Quốc được thuê dài hạn rừng đầu nguồn và chiếm các vị trí hiểm yếu làm dự án. Gần đây, chính phủ do túng tiền đã quyết định bán các doanh nghiệp hàng đầu (Vinamilk và Sabeco) cho nước ngoài kiểm soát. Phải chăng đó là biểu hiện của dân trí thấp như “khôn nhà dại chợ” và “tham bát bỏ mâm” (nên lợi bất cập hại?).
Dân trí về hợp tác và hội nhập còn kém. Người ta nói rằng người Việt làm việc gấp 3 lần người Nhật, nhưng khi hợp lực lại thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật. Theo tiến sĩ Lê Thẩm Dương, người Nhật biết cách quản lý thời gian và làm việc nhóm hiệu quả, còn người Việt thì không. Giám đốc VJCC tại Hà nội nhận xét, “Người Việt Nam làm việc rất thông minh, cần cù, khi được các chuyên gia hướng dẫn thì họ biết phải làm gì và học hỏi rất nhanh. Thực tế là các bạn làm việc tốt hơn 3 lần so với người Nhật nhưng chỉ khi các bạn làm một mình. Tuy nhiên, khi các bạn làm việc tập thể thì các bạn làm không tốt bằng người Nhật chúng tôi vì khả năng làm việc nhóm (teamwork) của các bạn không tốt bằng người Nhật, và tôi có thể khẳng định rằng khi làm việc tập thể thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật”. 
Dân trí về văn hóa ứng xử xuống cấp nghiêm trọng, dẫn đến bạo hành gia đình, bạo lực học đường và bạo lực xã hội (ngay trong các lễ hội văn hóa truyền thống). Trong khi nhiều cô “bảo mẫu” bạo hành với trẻ em mẫu giáo (hết vụ này tới vụ khác), thì Bộ giáo dục và các địa phương vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để chấm dứt tình trạng đó, mà chỉ rút kinh nghiệm và đổ trách nhiệm cho nhau. Dân trí về lịch sử và ngôn ngữ cũng có vấn đề, khi một số “trí thức” lúc thì đề xuất “bỏ môn lịch sử”, lúc khác lại đề xuất “cải cách chữ viết tiếng Việt”, như một trò đùa vô minh về “cải cách giáo dục”, làm cho dư luận cả nước bức xúc.
Dân trí về bảo vệ sức khỏe của người dân còn lạc hậu, đa số thiếu ý thức “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Họ thường không kiểm tra định kỳ để phát hiện bệnh sớm, vừa do hoàn cảnh vừa do dân trí thấp. Nhiều người mắc bệnh vì thực phẩm độc hại hay ô nhiễm môi trường (do nhân họa) trong khi đó một số “không nhỏ” các quan chức y tế và bác sỹ (thoái hóa) lại tiếp tay cho các công ty dược như VN Pharma nhập thuốc ung thư dổm về bán cho bệnh nhân. Việt Nam đang trở thành tâm điểm của ung thư, mỗi năm có hơn 126.000 ca mắc bệnh ung thư mới, và khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư. Xu hướng này ngày càng gia tăng, không những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà còn làm cho biết bao gia đình điêu đứng. 
Dân trí và tham nhũng
Chống tham nhũng “giai đoạn 2.0” quyết liệt hơn với hình tượng “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” mà TBT Nguyễn Phú Trọng đã cao hứng mô tả. Sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt tại Berlin (23/7/2017), Đinh La Thăng cũng bị bắt tại Hà Nội (8/12/2017). Nhưng chống tham nhũng chắc không dừng lại ở “đại án PVN” mà còn tiếp diễn nhằm chiếu tướng (tuy chưa rõ là chiếu tướng ai). Trong khi nhiều người tin rằng đánh ông Đinh La Thăng là để chiếu tướng ông X (cầm đầu “bên thua cuộc”), những một số khác cho rằng đánh “Vũ Nhôm” là để chiếu tướng ông Y (đối thủ số một đang cầm quyền). Đây là trò chơi vương quyền (game of thrones) có nhiều ẩn số. Nhưng việc khám nhà và truy nã “Vũ Nhôm” sau khi thả rông để đương sự thoái vốn và bỏ trốn, là một vở kịch vụng về. Dân trí cao hay thấp khi công tác an ninh, tình báo của quốc gia cũng bị “thương mại hóa” và biến thành bi hài kịch.    
Gần đây, nhiều người bức xúc hỏi tại sao người ta lại để những người “vi phạm đặc biệt nghiêm trọng” tiếp tục vào Trung ương và Bộ Chính trị… Ông Trần Quốc Hương (nguyên phó chủ nhiệm Ban Tổ chức TW) hỏi lúc đó “các cơ quan kiểm tra, tổ chức của Đảng có ý kiến gì không trước những vi phạm của Đinh La Thăng?” Luật sư Trần Quốc Thuận nói: “Đó là một ẩn số cần làm rõ”. (Tiền Phong, 18/12/2017). Phải chăng vì vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng phải dự họp chính phủ (28/12/2017) để triển khai chủ trương “nhất thể hóa”. Không biết ông Nguyễn Phú Trọng có ý gì khi nói “Từ bé đến giờ mới được dự họp chính phủ”.  
Chiến dịch chống tham nhũng nhắm vào hai nhóm đối tượng chính là một số “thái tử đảng” và quan chức địa phương (để đánh “từ vòng ngoài vào vòng trong”). Sau khi xử lý Vũ Huy Hoàng và Trầm Bê, ngày 8/1/2017 sẽ xét xử Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh. Dường như vòng vây đang gấp rút khép lại để chiếu tướng ông X, nhưng vụ khám xét và truy nã “Vũ Nhôm” ở Đà nẵng (21/12/2017) lại mở ra một hướng khác như để chiếu tướng ông Y. Nhưng dù chiếu tướng ông nào thì đất nước cũng là “bên thua cuộc” và nhân dân vẫn là nạn nhân của “trò chơi vương quyền” đang làm đất nước phân hóa và kiệt quệ, đứng trước những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế và những hiểm họa khôn lường về an ninh và chủ quyền quốc gia.
Thay lời kết
Đã gần một thế kỷ trôi qua kể từ khi cụ Phan Châu Trinh kêu gọi “khai dân trí và chấn dân khí”, nhưng Việt Nam vẫn còn loanh quanh tại ngã ba đường, chưa thoát khỏi hệ tư tưởng đã làm đất nước tụt hậu so với Nhật Bản hàng trăm năm. Muốn “khai dân trí”, Việt Nam phải thay đổi hệ quy chiếu đã lỗi thời, và phải đổi mới thể chế toàn diện. Nếu không thực sự đổi mới thể chế thì việc chống tham nhũng cũng giống như trò “hàn soong hàn nồi”. Để thay cho câu kết, xin mượn lời Albert Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng ta không thể giải quyết được vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã dùng để tạo ra chúng” (We can't solve problems by using the same kind of thinking we used when we created them).
NQD. 01/01/2018

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 1--1-18

DỰ BÁO DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ  CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

ĐOÀN HƯNG QUỐC/ viet-studies 3-1-2018

Để có được cách nhìn tổng thể nhất, tác giả xin nhắc lại một luận điểm của người sáng lập ra Chủ nghĩa cộng sản: Karl Marx viết trong cuốn Tư bản  như sau: Chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách tạo giá trị lợi nhuận thặng dư, chúng không trừ thủ đoạn gì để đạt được giá trị thặng dư cao nhất.  Khi giá trị thặng dư lên tới 70, 80, 100% thì chúng sẽ có những tâm lý điên loạn đến mức chúng có thể tự treo cổ!! Rất tiếc rằng những người tự nhận là đệ tử trung thành của chủ nghĩa Marx còn lại trong đội ngũ lãnh đạo của môt số quốc gia xã hội chủ nghĩa ít ỏi còn sót lại đã tạo ra một thế hệ lãnh đạo mới, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nhân loại, đó là tầng lớp tư bản đỏ. Tầng lớp những người lãnh đạo này mặc dù luôn khoác áo cộng sản hay xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất họ lại có ham muốn làm giàu cho bản thân một cách cuồng nhiệt nhất. Họ bất chấp những chuẩn mực về đạo đức, sẵn sàng thực hiện những thủ đoạn từ trắng trợn đến tinh vi để kiếm tiền. Phương tiện kiếm tiền của họ là “quyền lực”, sự ranh ma tinh quái và cả sự tàn bạo... Lợi nhuận họ thu về luôn tỉ lệ thuận với những “phẩm chất” này. Hiện tượng tham nhũng trở nên phổ biến và dần trở thành xu thế, có tính chất nguyên lý tất yếu của việc hình thành bộ máy cai trị do họ lập ra mặc dù họ luôn khẳng định “quyết tâm xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân”.
Thực tế đã chứng minh rằng đội ngũ lãnh đạo tại các nước xã hội chủ nghĩa này đã trở thành những kẻ giàu có nhất trong xã hội. Bọn họ giàu có hơn hẳn bất cứ một đội ngũ lãnh đạo nào của các nước tư bản phát triển. Nhóm người này có tâm lý làm giàu như các nhà tư bản chó sói thời hoang dại. Họ núp dưới bóng của  chủ nghĩa vô sản nhưng lại hành động như những kẻ điên rồ tham lam tàn bạo nhất. Họ đã tự đặt mình lên trên pháp luật, lũng đoạn pháp luật. Đội ngũ lãnh đạo tại các nước này theo thời gian đã được phân hóa thành nhiều nhóm lợi ích... Các  nhóm lợi ích tranh giành xâu xé thậm chí triệt tiêu nhau để vơ vét tiền bạc của cải của đất nước mà chính họ là những người  đang giữ cương vị  lãnh đạo. Các nhóm lợi ích tại các quốc gia này trong đó có Việt Nam đang có xu hướng phát triển không có giới hạn. Các nhóm lợi ích dùng quyền lực chính trị, tư pháp, hành pháp và cả lập pháp để tranh giành biển thủ, tước đoạt những gì có thể, cho phe nhóm của mình, họ sẵn sàng dùng hàng tỷ đô la ngân sách nhà nước để phục vụ cho các dự án bình phong mà những nhóm lợi ích của họ dựng lên với chiêu bài phát triển kinh tế, phục vụ  dân sinh, phục vụ an ninh quốc phòng để thực hiện các hành vi tham ô, tham nhũng. Trên thực tế sự tha hóa này phát triển rất nhanh từ thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Thế hệ sau tham lam tàn bạo, táo tợn và tinh vi hơn thế hệ trước. Đây là một thực tế mà tất cả mọi người đều nhận ra. Mọi người trong đó có cả những kẻ tham nhũng đều nhận thức được rằng sự suy thoái này chắc chắn sẽ dẫn tới sự đổ vỡ diệt vong nhanh chóng cho đất nước của họ nhưng lại không ai có đủ dũng khí và khả năng để tìm cách ngăn chặn dòng thác tham nhũng đang cuốn phăng đi tất cả thậm trí cả lương tâm, lương tri… Dòng thác này được hình thành một cách tự phát như một xu thế và là hệ quả tất yếu trong quá trình chuyển đổi từ việc quản lý kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường.
Bài viết này không có ý định đi sâu vào việc phân tích các nguyên nhân cội rễ cũng như các biến cố lịch sử đã hình thành nên “dòng nước lũ tham nhũng” có tính đặc thù này mà chỉ định nêu ra một vài nhận định cơ bản để làm cơ sở nền tảng giúp bạn đọc hiểu thêm những phân tích về diễn biến trên chính trường tại Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
Sự hình thành các nhóm lợi ích đã làm thay đổi đời sống chính trị tại Việt Nam ngay từ khi bắt đầu thực hiện quá trình “đổi mới”. Các nhóm lợi ích luôn tìm cách tranh giành “ hơn thua” với nhau trên chính trường. Quá trinh “đổi mới” tại Việt Nam tất yếu đã đưa tới sự gắn kết chặt chẽ giữa quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế. Tuy rằng mặt tích cực do sự nghiêp đổi mới mang lại đối với Việt Nam là rõ ràng thậm chí đôi khi là kỳ diệu không thể phủ nhận được, cụ thể: sức sản xuất được cởi trói một phần, sức sáng tạo trong xã hội được phát huy, nền kinh tế không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cơ sở hạ tầng, mức sống của người dân trong xã hội không ngừng được nâng cao, bộ mặt đất nước được thay đổi toàn diện, vị thế của đất nước được nâng cao trên trường quốc tế v.v… Song những thành tựu do công cuộc đổi mới mang lại ngày càng bị hạn chế và dần bị triệt tiêu bởi mặt trái của nó là tệ nạn tham những.
Trước hết trong lĩnh vực chính trị sự tranh giành giữa những nhóm lợi ích đã tạo ra một đặc thù trong việc hình thành bộ máy lãnh đạo đất nước mà trước đây chưa từng xẩy ra là vị trí số 1, vị trí của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản thay vì phải là những cá nhân xuất sắc nhất, mạnh mẽ nhất nhưng trên thực tế lại ngược lại. Tại Việt Nam gần hai thập kỷ trở lại đây vị trí Tổng Bí Thư lại giành cho những người có hình ảnh: nhu mỳ, ba phải, dĩ hòa vi quý, ít góc cạnh... Rõ ràng đây là những giải pháp tình thế để tạo sự hòa hoãn mà các nhóm lợi ích đã đi đến thỏa hiệp. Hai nhiệm kỳ làm tổng bí thư của Nông Đức Mạnh là cơ hội vàng cho các nhóm lợi ích tại Việt Nam kiếm chác và ăn chia. Sang đến thời của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khi các mặt trái của sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích tham nhũng đã bi phơi bầy không thể che giấu nổi, nhưng trong nhiệm kỳ đầu làm Tổng Bí Thư với phương pháp tư duy và hành động mang nặng tính lý thuyết giáo điều, cộng với sự hạn chế về sức mạnh quyền lực cả trên lĩnh vực tài chính lẫn bạo lực cũng như không có phe cánh, nên Nguyễn Phú Trọng ngoài việc chỉ đưa ra hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, trên thực tế hầu như không làm được gì cụ thể đáng kể nào. Trên chính trường Nguyễn Phú Trọng trở thành một anh “hề cung đình” bất đắc dĩ. Thực tế “tập thể” ban lãnh đạo Đảng của ông ta luôn làm vô hiệu hóa các nghị quyết của đảng và làm ngược với mong muốn của ông ta về các vấn đề mà đặc biệt là vấn đề nhân sự cốt lõi của đảng. Thực tế này sẽ dẫn tới sự cáo chung rất nhanh chóng theo cách thức xấu nhất đối với chế độ cộng sản: Sự việc lên tới đỉnh điểm là tại hội nghị TƯ 6 khóa 11, ông trùm của những ông trùm tham nhũng và lợi ích nhóm Nguyễn Tấn Dũng đã bi phơi bầy quá nhiều sai phạm trên rất nhiều phương diện, việc trừng phạt con người này đã trở thành đòi hỏi của công lý và người dân Việt Nam. Nhưng đến giờ chót Nguyễn Phú Trọng cùng với “tập thể” Đảng Cộng sản không làm nổi cái điều tưởng như đương nhiên này, Nguyễn Tấn Dũng vẫn tại vị và ngạo nghễ thách thức quyền lực của Nguyễn Phú Trọng và đặc biệt thách thức những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng. Thực tế này lần đầu tiên tại Việt Nam Tổng Bí Thư đã trở thành một anh hề cung đình.
Có lẽ sự kiện này đã làm cho Nguyễn Phú Trọng phải tự lột xác, vì chỉ có như vậy thì mới có cơ may cứu Đảng Cộng sản và chế độ do Đảng Cộng sản lập ra khỏi sụp đổ một cách nhục nhã. Đến nay trên thực tế đã ghi nhận một số thành công bước đầu trong quá trình tự lột xác này của Nguyễn Phú Trọng. Bề ngoài ông ta không tỏ ra có bất kỳ một thay đổi đáng kể nào, vẫn phát ngôn giáo điều, lạc lõng, thái độ lời nói vẫn nhỏ nhẹ nhu mỳ đến buồn ngủ, nhưng bên trong ông ta cùng một số đội ngũ thân tín của mình chuẩn bị cho việc loại bỏ con “sâu chúa” bằng “mọi giá” trong đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 12. Cái chữ MỌI GIÁ ở đây được thể hiện là ông ta đã chấp nhận mọi sự nhân nhượng kể cả việc để cho các đệ tử thân tín nhất của sâu chúa Nguyễn Tấn Dũng, những trùm tham nhũng  được ở lại và lên chức cao hơn, mặt khác lại để cho môt số người tâm phúc của ông ta phải về vườn. Tất cả chỉ nhằm tới mục đích loại được “con sâu chúa” Nguyễn Tấn Dũng. Người ta nhìn thấy ông ta đã trả một cái giá rất đắt để đạt được muc tiêu này. Một trong những cái giá phải trả là chấp nhận cho những đệ tử ruột nhất, trung thành nhất của sâu chúa và Bộ Chính trị và hơn thế nữa còn được đưa vào những vị trí sống còn của bộ máy cầm quyền. Một thành công nhất cho đến nay trong quá trình “lột xác” của Nguyễn Phú Trọng là ông ta hành động rất “quyền biến” và khôn ngoan, biết mình biết ta, trái ngược phong cách giáo điều cứng nhắc, quan liêu như ông ta vẫn thể hiện. Mặt khác ông ta luôn giữ được bí mật tuyệt đối phương án hành động của mình, biết đánh hỏa mù, biết dàn trận giả để làm lạc hướng đối thủ. Để làm được những việc này chắc chắn Nguyễn Phú Trọng cũng đã thành công bước đầu trong việc xây dựng cho mình một “team hành động đủ mạnh” Nhưng cần nhận định rằng sẽ là quá sớm nói đến một sự thành công chắc chắn, bền vững để ít nhất là đẩy lùi được sự đổ vỡ, hỗn loạn của chế độ hiện hành trong tương lai gần. Nguyễn Phú Trọng và đồng chí của ông ta phải hóa giải được các nguy cơ to lớn sau:
  1. Mọi sự thanh trừng, tiễu phạt chỉ thành công khi Nguyễn Phú Trọng đảm bảo được sự ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ gìn. Đây là một thực tế rất mong manh tại Việt Nam hiện nay: đa số các nhân vật có kinh nghiệm trong chính phủ hiện nay đều đã từng là những đệ tử thân thiết của Nguyễn Tấn Dũng. Chính họ là những kẻ gây ra các ung nhọt trong nền kinh tế nhưng đồng thời cũng là những nhà ảo thuật bậc thầy về sự che đậy, biến báo cho những ung nhọt này. Đinh La Thăng là một trong những nhân vật sáng giá hàng đầu như vậy. Chỉ cần chính những nhân vật này không tiếp tục che đậy nữa thì cũng đủ để đất nước rơi vào khủng hoảng về tâm lý, sau đó là vỡ bung những ung nhọt trong nền kinh tế ở những nơi yếu nhất và nhạy cảm nhất, rồi lan sang các lĩnh vực khác về kinh tế, tài chính và xã hội. Tất nhiên khi còn chức quyền hoặc ít ra được hạ cánh an toàn thì những kẻ tham nhũng còn “ vun đắp” cho chế độ, nhưng khi bị lao lý và truy thu của cải, tài sản thì tình hình sẽ khác, rất khác. Liệu Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị các biện pháp để đối phó hay chưa?
  2. Mục tiêu lớn nhất của chống tham nhũng là lấy lại uy tín cho Đảng Cộng sản, khôi phục lại lòng tin cho nhân dân là Đảng thực sự tôn trọng sự công bằng và công lý. Nhưng tại Việt Nam tham nhũng đã quá trầm trọng, diễn ra ở mọi nơi mọi cấp mọi lĩnh vực, vậy nếu chống tham nhũng không đúng cách thì sẽ phơi bầy sự mọt rỗng của chế độ qua nhiều thời kỳ lãnh đạo. Mặt khác chính việc chống tham nhũng sẽ gây ra sự bất công giữa các phe nhóm, giữa các cá nhân. Liệu những kẻ bị đưa vào tù có chấp nhận, những kẻ giống mình nhưng chưa bị lộ vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật  thậm trí còn đang giao giảng về đạo đức ?
  3. Các cơ quan sức mạnh của nhà nước Việt Nam hiện nay lại chính là nhưng cơ quan có tham nhũng nhiều nhất, trầm trọng nhất trong đó đặc biệt là cơ quan Công An,  vây  khi “đánh” vào các nhân vật chủ chốt của các cơ quan này thì liệu có đảm bảo được An ninh, Quốc phòng cho đất nước hay không?
  4.  Liệu Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta có chứng minh được sự trong sạch của lực lượng chống tham nhũng hiện nay trước tin đồn cho rằng họ nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của Trung Quốc, cả về kinh tế, tài chính, an ninh, quốc phòng, hay không ? Cần hiểu rằng đây cũng là một tử huyệt về chính trị khi mà lòng dân Việt Nam đang có một sự mặc cảm rất lớn về chính sách bành trướng và bá quyền Trung Quốc.  Rõ ràng rằng yếu tố Trung Quốc có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự thắng hay thua của chiến dịch chống tham nhũng tại Việt Nam, nếu không nói là sự ảnh hưởng này có tính quyết định trong tình thế hiện nay tại Việt Nam. Nhưng lịch sử cận đại đã dạy cho Việt Nam những bài học quá đắt giá của việc lệ thuộc vào Trung Quốc. Chỉ cần Trung Quốc của Tập Cận Bình “VÔ TÌNH” đối với cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam hiện nay mà tổ chức một vài sự kiện giống như dàn khoan 981 hay Formosa hay tấn công ngư dân Việt Nam trên Biển Đông... thì cũng đủ để đẩy Nguyễn Phú Trọng và đồng chí vào chân tường. Nhưng nếu Tập Cận Bình mà ủng hộ Nguyễn Phú Trọng không đủ độ  KÍN ĐÁO,TẾ NHỊ  thì Trung Quốc sẽ biến lực lượng chống tham nhũng do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu trở thành tay sai của Trung Quốc. Người dân Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận lãnh đạo của đất nước là tay sai của TRUNG QUỐC.
  5. Thái độ của Mỹ và phương Tây cũng ảnh hưởng nhiều tới cuộc chiến này. Tuy không mạnh mẽ, trực tiếp bằng sự ảnh hưởng của Trung Quốc nhưng xã hội Việt Nam và tâm lý của người dân Việt Nam đang hướng tới một xã hội dân chủ công bằng và văn minh. Khi nói đến khái niệm này thì tuyệt đại đa số người Việt Nam đều nghĩ tới Mỹ và phương Tây.

Trở lại một chút về thái độ của chính phủ Đức trong vụ Trịnh Xuân Thanh. tác giả bài viết này không cho rằng phản ứng mạnh mẽ của chính phủ Đức đối với chính phủ Việt Nam chỉ xuất phát từ những nguyên nhân bề nổi như báo chí đã nói. Ngược lại tác giả cũng không  cho rằng lực lượng chống tham nhũng của nhà cầm quyền Việt Nam lại có hiểu biết và hành động thô thiển, vụng về nhưng những gì đã diễn ra công khai đã được công luận tường thuật. Ngay từ khi Trịnh Xuân Thanh được đưa về Việt Nam các cơ quan an ninh và chuyên gia trong và ngoài nước đã có những tư vấn kịp thời với lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam nhằm tránh đi những tổn hại đáng tiếc về ngoại giao và bang giao kinh tế nhưng dường như chẳng ai trong lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam quan tâm đến những lời tư vấn này và đã không làm những việc cực kỳ đơn giản để không làm trầm trọng hóa vấn đề này. Nhưng khi sự việc đã tiến triển theo chiều hướng xấu vượt mức bình thường thì phía Nguyễn Phú Trọng lại quy trách nhiêm cho Phạm Bình Minh?  Môt số dấu hiệu này đã nói lên rõ ràng rằng cuộc chiến chống tham nhũng đã vượt qua phạm vi biên giới của Việt Nam mà sẽ là cuộc chiến giành ảnh hưởng giữa phương Tây và Trung Quốc đối với Việt Nam. Liệu Nguyễn Phú Trọng còn giữ được đường lối “đa phương hóa ,đa dạng hóa với các nước” được hay không, hay lại theo chân  Malaysia, Thái Lan, Philippin thậm chí là Campuchia trong chính sách đối ngoại với Trung Quốc? Chắc chắn câu trả lời cho câu hỏi này không chỉ là ở phía Việt Nam mà còn ở Trung Quốc và các nước phương Tây và Mỹ. 
Tóm lại Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông đã chọn một con đường khác hẳn với con đường mà người tiền nhiệm của ông là Nông Đức Mạnh đã lựa chọn. Cứ giả thiết, như nhiều lời đồn đoán dù thiện ý hay ác ý, cho rằng cuộc chiến chống tham nhũng  này chỉ là một cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái thì một thực tế không thể phủ nhân là:
  1. Việt Nam không thể không chống tham nhũng và càng không thể chống tham nhũng bằng cách đưa những kẻ tham nhũng lên làm lãnh đạo đất nước.
  2. Cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam sẽ không phải chỉ là câu chuyện nội bộ của Việt Nam.


Tác giả gửi cho viet-studies ngày 2-1-18

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét