Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018

20180107. BÀN VỀ THUẬT NGỮ : 'CỰU'- 'NGUYÊN'

ĐIỂM BÁO MẠNG
CỰU VÀ NGUYÊN : SAO CỰU QUAN CHỨC-LÃNH ĐẠO CHỈ THÍCH NGUYÊN ?

PHÙNG HOÀI NGỌC/ VNTB/ BVN 7-1-2018

Kết quả hình ảnh cho CỰU VÀ NGUYÊN
Cựu TBT Nông Đức Mạnh
Cựu và Nguyên, căn bản đồng nghĩa chỉ một chức vụ quan chức đã trải qua, nay không làm nữa.

Nhưng cách dùng hai chữ đó thì khác nhau, tuỳ vào hoàn cảnh của quan chức và nội dung mục đích của người nói/viết.

Khi một ông quan đã nghỉ việc hay nghỉ hưu, nếu nhắc đến thì dùng “cựu” như một định ngữ gắn liền họ tên. Ví dụ nhắc đến Nông Đức Mạnh người ta sẽ nói “cựu TBT. Nông Đức Mạnh”, hay là “cựu chủ tịch Nước Trương Tấn Sang”… tham gia hoạt động nào đó”.

Tuy nhiên, đài báo vẫn đưa tin các ông ấy là “nguyên…”.

Những bản tin nhắc đến hoạt động của các ông lãnh đạo cao cấp hết thảy đều viết “nguyên”. Chẳng hạn “Nguyên TBT Lê Khả Phiêu, nguyên TBT Nông Đức Mạnh, nguyên chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. v.v…”.

Tất cả là sai lầm hết

Trong tất cả các trường hợp trên, đều phải nói và viết là “cựu + chức vụ + họ tên”.

Người đầu tiên làm con dê thí điểm cho hình thức kỷ luật “cách chức nguyên” là ông Vũ Huy Hoàng cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương. Ông Hoàng bị tuyên bố cắt tất cả các “nguyên chức vụ” liên quan thời gian làm bộ trưởng. Ông Hoàng đã có vinh dự làm “nhân vật đầu tiên” trong chương Kỷ luật của cuốn lịch sử Đảng CSVN rồi.

Báo Dân Trí ngày 19/10 đưa tin: “PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng vừa đưa ra đề xuất thành lập ‘Viện nghiên cứu và giáo dục đạo đức cách mạng’ nhằm dạy cán bộ đạo đức và những chuẩn mực đạo đức trong Đảng”.

Đáng lẽ phải viết “Nguyễn Trọng Phúc, cựu Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng”.

Nhân đây xin mạn phép bàn về các từ ngữ trên trong truyền thống ngôn ngữ dân tộc.

Các từ ngữ nêu trên đều có gốc Hán, đã được Việt hoá nhuần nhuyễn từ bao đời.

Cựu: gọi đầy đủ là Cựu nhiệm (旧任).

Cựu + Nhiệm (chức vụ) + họ tên

Dùng “cựu” hô gọi một nhân vật đã thôi quan chức, về làm dân.

Nguyên: gọi đầy đủ là nguyên nhiệm (原任), khi bàn về, nhắc đến một ông quan hiện đã cải nhiệm đến nơi khác, hoặc làm chức vụ khác. Có khi cũng nói “tiền nhiệm” nhằm nhắc nhở bàn về ông “đương nhiệm”. Không dùng “nguyên” tả nhân vật ấy làm chủ ngữ trong câu. Chẳng hạn không thể nói “Nguyên TBT Nông Đức Mạnh đi dự hội nghị gì đấy”.

Công thức: Nguyên + nhiệm (chức vụ) + họ tên

Đương: gọi đầy đủ là “đương nhiệm” (當任): người đang giữ một chức vụ. Tuy nhiên theo mặc định ngôn ngữ, khi nói về quan chức đương nhiệm thì không cần kèm định ngữ “đương nhiệm”. Ví dụ: Bí thư Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa.

Bàn về cách gọi các quan chức cựu/nguyên

Nói về ông Thăng đang “công tác” ở trại giam Bộ CA, nếu cần nói/viết đến giai đoạn trước, CA sẽ nói/viết như sau “Ông Thăng nguyên là Phó ban Kinh tế Trung ương, hiện đang ở trong vòng tay chăm sóc của chúng tôi”.

Báo chí cũng có thể nói “Ông cựu Phó ban KTTW Đinh La Thăng sẽ hầu toà ngày 8 tháng Giêng năm 2018”. Vì “cựu” mang ý nghĩa chức vụ chót chấm dứt (dù chưa hoàn thành, vào thời điểm bị bắt).
Lúc trước, khi Đinh La Thăng đang làm Bí thư TP.HCM, nếu cần nhắc lại quá trình, người ta sẽ nói: ông Thăng là nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT. Ngược lên nữa, khi ông Thăng đang làm Bộ trưởng GTVT, cần nói về giai đoạn trước của Thăng thì nói “ông Thăng là nguyên Chủ tịch Dầu khí Việt Nam”.v.v…

Lưu ý rằng không thể dùng “Nguyên Phó ban KTTW Đinh La Thăng” làm chủ ngữ của một câu nào đó.

Khi bàn về ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cần nói đến quá trình công tác thì người ta nói “ông Nguyễn Phú Trọng, nguyên Chủ tịch Quốc hội”. Không thể nói “Nguyên Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng đang hành động chi đó” như một ngữ danh từ đóng vai chủ ngữ.

Bây giờ Đảng tuyên bố “cắt” chữ “nguyên” thì biết ăn nói thế nào cho đúng với sự thật lịch sử? Lý lịch con cháu sẽ ghi về ông cha thế nào? Ghi theo Kỷ luật Đảng thì CA lại báo khai man lí lịch? Ghi theo thực tế thì lại bị vu là ngoan cố chống Đảng?

Quyền nhiệm 權任: tạm thay việc của một chức quan, nguyên từ gốc: 權變 (quyền biến): Xử trí linh hoạt, tạm thời ứng phó.

Ông Hồ Chí Minh đi sang Pháp đàm phán năm 1946, bổ nhiệm cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc ấy đương nhiệm Bộ trưởng Nội vụ, nay kiêm nhiệm Quyền Chủ tịch nước. Cụ Huỳnh chỉ làm “Quyền Chủ tịch nước” hơn một tháng, sách lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi danh cụ là “Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thức Kháng”.

Trường hợp tương tự, ông Đinh Thế Huynh UVBCT giữ chức vụ Thường trực Ban Bí thư bị bệnh nghỉ điều trị khá dài, ông Trần Quốc Vượng tạm thay đã mấy tháng nay, nhưng không được gọi là “Quyền thường trực BBT” mà lại là “Tham gia thường trực BBT”. Ô hay! chức vụ “tham gia” mới lạ thật, chả hiểu thế nào nữa!

Dẫn chứng thêm cái chức vụ cổ xưa “bí thư” (祕書: chức quan giữ các giấy tờ, cam kết bí mật gọi là "bí thư") đã chết từ lâu vì không còn tồn tại trong thực tiễn thì Đảng lại moi ra dùng sai, thậm chí vô nghĩa (chức vụ “bí thư” chỉ có một mình Việt Nam sử dụng, đáng lẽ dùng “thư ký” như mọi nước). Việt Nam chỉ dùng “bí thư” cho Đảng, Đoàn và các đại sứ quán, như để tôn trọng đặc biệt ba chức vụ trên. Trung Quốc đất nước sinh ra chức vụ “bí thư” đã bỏ từ khi lập nước 1949, nay đều đang dùng thư ký 書記.

Kể từ khi “đời ta có Đảng”, rất nhiều từ ngữ “lạ” cùng khái niệm kỳ dị cứ mọc ra trong tiếng Việt với cách dùng tuỳ nghi bừa bãi. Vì sao Đảng không tiếp nối truyền thông ngôn ngữ dân tộc nữa?

Đảng muốn phá bỏ từ pháp và ngữ pháp Việt Nam, để tạo ra một hệ thống “thuật ngữ đảng” hay sao? Như thế sao gọi là danh chính ngôn thuận!

Cắt “nguyên” hay không xưng hô “cựu” đều là xuyên tạc sự thật.

Không thể cắt bỏ hoặc thay đổi được quá khứ.

Tại sao các báo chí toàn dùng “nguyên” thay cho “cựu”?

Thực ra, chắc là do các lãnh đạo đã dùng trước trong các hội nghị và thông báo, nên các nhà báo, dù biết là sai, vẫn phải “thuật” theo đúng văn bản gốc. Biết sai không dám sửa. Riết rồi thành quen.

Vậy hoá ra, quan chức lãnh đạo nghỉ hưu vẫn thích được gọi là “nguyên” tức là mọi thứ “vẫn còn nguyên”, không mất mát gì. Họ rất sợ chữ “cựu” nghe có vẻ xưa xưa, cũ cũ, qua rồi, chẳng còn gì trong hiện tại, sẽ chẳng còn ai nể nang, tôn trọng. Họ không thể quen được khi trở về đời thường, dân thường. Họ chỉ muốn, đã làm quan thì một đi không trở lại làm dân.

Quan chức bị kỷ luật cắt “nguyên” thực tế nghĩa là “cắt bổng lộc quyền lợi, không còn nguyên vẹn”. Đương sự chỉ được lĩnh lương của cán bộ thường, không được lĩnh phụ cấp chức vụ và chế độ chính sách của “nguyên chức vụ”.

Đảng muốn kỷ luật như thế thì tại sao không ghi rõ hình thức kỷ luật là: “Cắt hết mọi phụ cấp và chế độ chính sách của chức vụ X”. (nghĩa là: chức vụ khác trong quá khứ vẫn được hưởng chế độ chính sách). Ghi rõ như thế mới là minh bạch. Dù cắt “nguyên” nhưng vẫn phải còn “cựu”, cho tới khi thành “cố”.

“Cựu “ và “nguyên” đều dùng khi nhân vật đang còn sống. Khi nhân vật ấy qua đời, sẽ gắn thêm chữ “cố”. Như cố Bộ trưởng Quốc phòng VNG.

Trường hợp cắt phéng cái “nguyên” cũng sẽ gây phiền phức không nhỏ khi đương sự chuyển thành “cố”.

Về ông Vũ Huy Hoàng, tháng 4/ 2006, được phân công làm Bí thư. Tháng 8/2007, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm làm bộ trưởng). Nay ông bị cách cái “nguyên Bộ trưởng GTVT” thì cái chức “nguyên” kế trước đó sẽ đôn lên thành danh xưng chính thức của ông: cựu Bí thư Tỉnh uỷ. Vậy là, ông vẫn được lãnh tất cả phụ cấp lương bổng và các chế độ khác dành cho “Bí thư Tỉnh uỷ”, ông chỉ mất hết phụ cấp chế độ “Bộ trưởng” mà thôi.

Nói dại, xin lỗi ông Vũ Huy Hoàng, tôi chỉ mượn tên ông nêu thí dụ cho bà con dễ hiểu. Khi ông hết lộc hoặc “thất lộc” (tức qua đời), người ta sẽ phải ghi họ tên chức vụ ông trên cáo phó. Căn cứ theo kỷ luật của Đảng đã tuyên năm 2017, cáo phó sẽ ghi là “cố Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn”.

Còn ông Ngô Văn Tuấn phó chính quyền xứ Thanh, hiện tại bị “cách hết mọi chức vụ trong Đảng” (mọi nguyên trong Đảng), chờ xem bên Chính phủ sẽ cách tiếp cái “nguyên nào”. Sau đó ông Tuấn sẽ lấy cái chức vụ kề cận trước “nguyên” - cái chức vụ bị cách, để gọi xưng tên và nhận phụ cấp tương ứng.

Đảng CSVN xưa nay đã dùng rất nhiều “thuật ngữ” lạ, khó mà kể hết.

Làm chính trị trước hết và thực tế là hành vi ngôn ngữ. Từ xa xưa cổ nhân đã yêu cầu mọi chuyện đều phải 'danh chính ngôn thuận' là như vậy.

P.H.N.
VNTB gửi BVN.

ĐIỀU ĐÁNG LO SỢ CỦA VỤ VŨ NHÔM Ở ĐÂU ?

BÙI QUANG VƠM/ BVN 7-1-2018

Đến bây giờ, người ta vẫn cứ tranh cãi với nhau về việc Vũ Nhôm có vai trò gì đối với vụ Trịnh Xuân Thanh, chỉ vì ngay từ quyết định khởi tố của Tổng cục An ninh điều tra Bộ Công an cũng ghi rõ là “tiết lộ bí mật quốc gia” mà không phải là “lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản công”. Tại sao vậy? Trong khi, trước khi biết đến Trịnh Xuân Thanh, người ta đã biết Vũ Nhôm là một trùm bất động sản tại Đà Nẵng. Có một chủ trương đánh lận con đen, lôi Vũ Nhôm ra chỗ khác, tung hoả mù che đậy sự thật? Vậy có thể là sự thật nào?

Trước hết Vũ Nhôm là Giám đốc công ty bình phong của chính Tổng cục An ninh điều tra Bộ Công an, nghĩa là cơ quan này quyết định khởi tố bắt giam chính người của mình.

Chức năng của công ty bình phong là giả danh doanh nghiệp để trà trộn theo dõi thu thập chứng cứ vi phạm luật pháp của các tổ chức kinh doanh, một loại cảnh sát, mật vụ và đặc tình trong lĩnh vực kinh tế.
Cái đáng được chú ý là Bộ Công an bắt người của Bộ Công an. Sẽ phải đặt ra một câu hỏi, ai trong Bộ Công an bắt người của ai trong Bộ Công an? Tính nghiêm trọng của sự vụ nằm ở câu hỏi này, không phải việc tiết lộ bí mật quốc gia. Một ông trùm bất động sản nếu có được bí mật quốc gia thì cũng do có kẻ khác cung cấp, và nếu ông Vũ có ý định tiết lộ thì cũng chỉ để phục vụ cho “kẻ khác ấy”. Nên chính “kẻ ấy” mới đúng là đối tượng truy nã.

Nhưng nếu khởi tố Vũ Nhôm do tội tham nhũng thì Bộ Công an tự phơi ra một sự thật rằng, các công ty bình phong thực chất chẳng giúp gì cho việc chống tham nhũng, mà chính ngay các công ty bình phong này là thủ phạm gây ra và trực tiếp tham nhũng, tức là tham nhũng ngay trong cơ quan chống tham nhũng, một thứ bệnh của hệ thống, “bệnh Đảng”, như đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc nói. Chủ trương là của Đảng, của Bộ Chính trị, các tổng cục, hay ngay cả cấp bộ chỉ là cấp thực hiện. Việc đẻ ra hàng trăm công ty “bình phong” chứa đựng mưu toan tham nhũng.

Thứ hai, tội danh tham nhũng chỉ có giá trị nội bộ, không có gía trị quốc tế, trong trường hợp Vũ Nhôm thoát ra được nước ngoài và lao đơn xin tị nạn chính trị, giống như vụ Trịnh Xuân Thanh. Nhiều quốc gia không thừa nhận Luật chống tham nhũng của Việt Nam vì không cùng quan niệm về tội tham nhũng. Chế độ độc đảng toàn trị vẫn được cho là hệ thống tham nhũng quốc gia. Tham nhũng là sản phẩm tất yếu của thể chế, nên chế độ không có tư cách xử tội tham nhũng. Mặt khác, dưới chế độ phi dân chủ, luật pháp không có tính độc lập, sự tuỳ tiện giải thích luật và lạm quyền của hệ thống xét xử có thể là nguyên nhân của các án tử hình oan sai, vi phạm đạo đức nhân loại. Đó là lý do mà rất nhiều quốc gia, đặc biệt với các quốc gia dân chủ đích thực, không có hiệp định dẫn độ tội phạm với Việt Nam, Trung Quốc và nhiều quốc gia phi dân chủ khác.

Vũ Nhôm đã bị khởi tố bằng tội “tiết lộ bí mật quốc gia”, mục đích để dù trốn ở đâu, Chính phủ Việt Nam đều có quyền can thiệp trên danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia, nội dung phạm tội không rơi vào khung tử hình.

Cái đau đầu của câu chuyện Vũ Nhôm không phải chỉ là chuyện tham nhũng đơn thuần hay có trong tay hồ sơ tài liệu tuyệt mật, chẳng hạn như “kế hoạch bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin”. Nghĩa là nếu bộ hồ sơ này lộ ra, thì không những Chính phủ Việt Nam không còn đường lấp liếm rằng Trịnh Xuân Thanh tự về đầu thú, và lộ diện người chủ trương và toàn bộ hệ thống cấp tổ chức thực hiện, không chỉ mất thể diện quốc gia mà có khả năng bị liệt vào danh sách của Luật Magnitsky.

Thực chất những bí mật này đã trở thành không còn giá trị từ nhiều tháng nay rồi. Nhà nước Đức đã có đủ tài liệu để kết luận vụ bắt cóc và lãnh đạo cao nhất của hai nhà nước có thể cũng đã đi đến cách giải quyết thống nhất. Việt Nam chịu nhận tất cả và làm tất cả để thoả mãn yêu cầu của Chính phủ Đức, nhưng ngược lại, Chính phủ Đức cũng chấp nhận quyền của Chính phủ Việt Nam trong việc bắt và xử án các tội phạm của chế độ như một nhà nước có chủ quyền với công dân của mình. Có thể Chính phủ Việt Nam đã tiết lộ với Chính phủ Đức những bằng chứng chi tiết chứng minh Trịnh Xuân Thanh là con bài liên quan tới những khuôn mặt cao cấp nhất của chế độ, ảnh hưởng trực tiếp tới nền tảng an ninh quốc gia. Mức độ quan trọng đủ để Chính phủ Đức thấy rằng việc vi phạm pháp luật Đức là cái giá không thể khác.

Như vậy, Vũ Nhôm có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Điều quan trọng này liên quan trực tiếp tới bản chất chế độ. Vũ Nhôm là công ty được lãnh đạo Bộ Công an lập ra và trực tiếp chỉ đạo. Ngoài những nhiệm vụ phải thực hiện, Vũ Nhôm cũng như tất cả các công ty bình phong khác còn làm nhiệm vụ cung cấp nguồn kinh phí cho các hoạt động của Bộ, và cung cấp nguồn thu nhập ngoài lương cho bộ máy lãnh đạo, trước hết là bộ máy những quan chức cấp trên trực tiếp của Vũ Nhôm. Nói cách khác, bản chất hệ thống các công ty này là làm kinh tài cho Bộ.

Sở dĩ hệ thống kinh tài này thường là đầu mối gây ra nạn tham nhũng ngay trong chính cái ngành có chức năng tiêu diệt tham nhũng, nhưng vẫn nghiễm nhiên tồn tại, vì lý do đặc biệt. Với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, đội ngũ công an, đặc biệt mật vụ chìm nổi cài cắm mọi chỗ, bành trướng không thể kiểm soát, đã khiến kinh phí từ ngân sách chỉ đủ để chi trả cho một nửa hệ thống. Lương cơ bản không đảm bảo đời sống là nguyên nhân của những tệ nạn tham nhũng của toàn hệ thống. Quỹ lương thiếu hụt, khiến lương và thưởng giành cho đội ngũ cán bộ, nhất là các cán bộ cao cấp đầu ngành không thể cải thiện so sánh với thu nhập bên Quân đội. Cùng cấp bậc, nhưng lương và thu nhập ngoài lương của bên quân đội có thể gấp hàng chục lần bên Công an. Tự kinh tài nuôi bộ máy, là một cố gắng không ai có thể bác bỏ, và người ta buộc phải bỏ qua hay làm ngơ những hiện tượng gọi là tiêu cực. Với thâm niên hai mươi năm, hệ thống kinh tài này đã trở thành một lực lượng ma, một thứ hội kín, một thứ Bộ trong Bộ.

Vũ Nhôm bị khởi tố, tất nhiên phải bởi bộ phận An ninh điều tra “không được gì” từ chia chác của Vũ Nhôm. Vũ Nhôm là người thuộc biên chế của Tổng cục An ninh điều tra, như vậy, nếu chính Tổng cục An ninh điều tra khởi tố, thì người ký lệnh không thể là thủ trưởng của Vũ Nhôm, tức là ông tướng phụ trách toàn bộ hệ thống công ty bình phong, trong đó có Vũ Nhôm. Và nếu Vũ Nhôm đã được báo trước để thu gom tiền vốn từ cách đây hai tháng, thì cái phe chống lại quyết định khởi tố đương nhiên đã có kế hoạch. Không ai khác có thể làm trước cho Vũ Nhôm cả 3 hộ chiếu, trong đó gồm một hộ chiếu giả.

Người ta biết lệnh khởi tố do ai ký, và không khó tìm ra hệ thống những kẻ báo trước cho Vũ Nhôm từ rất sớm do ai cầm đầu và gồm những ai?

Đấy là chưa kể, ngay bộ hồ sơ mật mà Vũ Nhôm đang có trong tay, tố cáo vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, chính An ninh điều tra là người cung cấp, một là hy vọng tầm quan trọng của hồ sơ có thể giúp Vũ Nhôm có vé máy bay đi Đức, mặt khác lại có thể do chính bộ phận chống lại chủ trương bắt cóc lợi dụng Vũ Nhôm để lật tẩy phe chủ trương, trong đó chắc chắn có liên quan tới chính Tổng Bí thư. Nếu điều này xảy ra, thì có thể nghĩ rằng tập hồ sơ đó do chính Tô Lâm hoặc người của Tô Lâm cung cấp.

Người ta đã biết từ lâu rằng có hai bộ trong Bộ Công an. Một bộ gắn kết với hệ thống kinh tài, các công ty bình phong, và một bộ không “xơ múi gì” từ các nguồn lợi đó. Nhưng vụ án Vũ Nhôm có điểm tương tự như vụ Trịnh Xuân Thanh, đều xuất phát từ lỗi cá nhân. Trịnh tự lộ vì máu hưởng lạc, còn Vũ chết lại vì thói “coi trời bằng vung”. Tưởng là ngẫu nhiên, nhưng thực chất thì không thoát khỏi quy luật: “quái sinh thì sớm muộn cũng phải chết”.

Tương tự như vậy, người ta cũng biết từ gần ba chục năm nay, luôn có hai bộ rõ rệt trong Bộ Quốc phòng. Một bộ gắn với các tập đoàn kinh tế, và một bộ chỉ làm công tác chính trị, đào tạo và huấn luyện. Bắt đầu từ chủ trương cho quân đội làm kinh tế. Hết chiến tranh, nền kinh tế đứng trước nguy cơ sụp đổ với lạm phát tới 1800%. Ngân sách ngoài tiền tước đoạt của “tư bản tư nhân”, không có nguồn thu nào. Một đội quân trên 2 triệu miệng ăn là một thứ không thể nuôi nổi. Giải ngũ một đội quân vừa về từ cõi chết mà không có việc làm, không nghề nghiệp, không thu nhập thì xã hội không thể không loạn, chế độ không thể không sụp đổ.
Quyết định tổ chức quân đội đi lập khu kinh tế, đi khai hoang, đi trồng rừng, trông lúa, trồng dứa v.v. làm bất cứ gì có thể tự nuôi nhau. Nhưng khốn nạn nằm ở Công ty Sư đoàn 319, là một loại công ty kinh doanh. 319 có tất cả các lợi thế về nhân công, về phương tiện thiết bị quân sự, về các ưu thế địa điểm và ưu tiên quốc phòng. Không giống các công ty kinh doanh khác, 319 lập lờ giữa ngân sách quốc phòng với nguyên tắc hạch toán kế toán. Những năm đầu tiên, lợi nhuận quá dễ dàng đã làm lãnh đạo Đảng tối mắt. 319 không những không cần tới ngân sách, mà ngược lại nộp lên cấp trên những khoản tiền không ai ngờ!

Nhưng với thời gian, 319 trở thành một thứ tập đoàn lũng đoạn. Cậy thế quốc phòng bất chấp luật pháp và khai thác tất cả những nguồn tài nguyên thuộc quốc phòng quản lý để tạo ra lợi nhuận. Đặc biệt là những khu đất do quốc phòng quản lý ngay từ những ngày đầu tiếp quản từ chế độ cũ, mặc dù với thời gian tính chất quân sự không còn giá trị, nhưng Bộ Quốc phòng kiên quyết giữ lại chia chác, phân phối cho nhau, hoặc bán cho các nhà đầu tư nước ngoài, giành những khoản ngoại tệ kếch xù.

Những hoạt động như vậy làm cho một loạt các sĩ quan cấp cao trở nên giàu có, xa hoa và sa đoạ, trong khi những sĩ quan chỉ hương lương thì vật vã tìm kiếm cách nuôi sống gia đình. Cũng cùng hàm cùng cấp, nhưng thu nhập có thể chênh nhau hàng chục, thậm chí hàng trăm lần. Và đặc biệt là hàng ngũ các sĩ quan này lại thăng quan tiến chức nhanh kỳ lạ.

Ngân hàng Quân đội và đặc biệt là siêu Tập đoàn Viettel là những tổ chức kinh tài của quân đội theo khuôn mẫu của 319. Hàng ngũ tướng tá giàu có là nhờ những tập đoàn siêu lợi nhuận này.

Ba chục năm, hàng ngũ những quan chỉ huy cao cấp nhất trong quân đội không một người nào có thể còn nguyên vẹn trong sạch, tức là tay không thể một lần nhúng bùn hoặc nhận bùn từ tay người khác. Không một ai, không một thế lực nào được phép đụng đến lãnh địa đó. Chế độ, nếu đụng đến sẽ không tránh khỏi sụp đổ. Nhưng ba chục năm đủ để biến Bộ Quốc phòng thành hai bộ không có gì chia sẻ với nhau được, và không sớm thì muộn sẽ “sống mái” với nhau.

Vụ Út Trọc có nguy cơ khơi mào cho một cuộc chiến nội bộ, vì thế lập tức nhận được chỉ thị cấm các báo được nhắc đến và xoá mọi dấu vết có thể. Nhưng đó là điều không thể. Vì mâu thuẫn giữa “hai bộ” là chuyện từ nhiều chục năm nay, không thể một chốc một lát hay chỉ vì cùng phải “trung thành” với Đảng mà bỏ qua hoặc nhân nhượng cho nhau, vả lại, một sự thật khi chui ra khỏi bọc thì không thể thu hồi. Báo chí có thể không nói gì, nhưng chuyện xảy ra thì vẫn cứ xảy ra. Nó có thể không ầm ĩ, nhưng âm thầm để bùng ra thành một vụ nổ vào lúc nào đó.

Ở đây xuất hiện một loại nghịch lý đặc biệt. Hệ thống các “bộ đen” trong bộ máy công an và quân đội là một thực tế tồn tại từ rất lâu và ai cũng biết, nhưng không ai trong số những người ăn lộc của chế độ muốn để lộ ra những mụn ghẻ đó. Ông Trọng không thể và không dám nhận gì từ phía các “bộ đen” đó, nhưng ông Trọng biết chúng vẫn chia nhau sau lưng ông và ông buộc phải làm bình phong che chắn cho chúng, để người ta không thấy cái chế độ mà ông bảo vệ bằng được là một thứ chế độ thối ruỗng từ trong. Nhưng nếu ông nhận, thì dù một thứ “nhận” không ra gì, ông cũng thành thằng hề cho chúng giật dây. Cho nên trong tư cách người đúng đầu chế độ, ông càng được tiếng trong sạch càng lợi cho chúng, càng tạo ra lá chắn an toàn cho lòng tham đốn mạt của chúng. Ông đang là một con ngoáo ộp cho Ngô Xuân Lịch để ông này công khai chống lại chủ trương quân đội thôi làm kinh tế. Ông ta đang che chắn cho Viettel, và muốn nhân lên, tạo ra hai, ba Viettel nữa. Nhưng do được “Đảng lãnh đạo trực tiếp”, ông ta sẽ phá nát quân đội nhân danh ông Tổng Bí thư Đảng.

Ông Trọng có thể học ở Trung Quốc rất nhiều, đặc biệt là cách sử dụng Ban Kiểm tra Trung ương kết hợp với Ban Tổ chức Trung ương, vừa dùng quyền kỷ luật để tước bỏ, vừa dùng quyền sắp đặt để ban phát và quyết định sinh mệnh của hệ thống. Nhưng ông Trọng quá sợ hãi bạo lực. Ông không dám sờ tới những kẻ có vũ khí trong tay. Trong khi Tập ưu tiên trấn áp hàng ngũ tướng tá, dùng cải tổ quân đội để loại bỏ và thiết lập trật tự, ban phát theo ý mình, thì ông Trọng như câm như điếc trước sự ngông nghênh, ngạo mạn của ông Ngô Xuân Lịch.

Vũ Nhôm là bom nổ trong lòng Bộ Công an, đó là một sự kiện quan trọng, nhưng người ta sẽ phải để mắt nhiều hơn tới ông Ngô Xuân Lịch, bởi vì, Út Trọc được xử lý như thế nào, sẽ cho thấy chế độ mà ông Trọng cố ra sức gồng giữ cho nó đứng, có đủ sức tồn tại tiếp hay sụp xuống cùng với sức khoẻ của ông. Và bởi vì, sức người không cản được bước đi của lịch sử, sự mục ruỗng của một chế độ chính trị có nguyên nhân từ cơ cấu của thể chế, không phải do ý chí chủ quan của con người. Cái chế độ độc đảng phi dân chủ sẽ tự nó tiêu vong bất chấp sự cưỡng lại của ông.

05/01/2018
B.Q.V.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét