Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

20180111. BÌNH LUẬN VỀ BÀI VIẾT CỦA CỦA CỰU CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG

ĐIỂM BÁO MẠNG
 NGHĨ VỀ THỊNH SUY CỦA ĐẤT NƯỚC, HƯNG VONG THỜI CUỘC

TRƯƠNG TẤN SANG/ VOV/ GDVN 9-1-2018

Ông Trương Tấn Sang - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Trải qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, dân tộc ta đã viết nên những trang sử hào hùng.
Nhưng cũng trên chặng đường dài hàng chục thế kỷ ấy, dân tộc ta cũng từng nếm trải biết bao nỗi cay đắng, gian truân.
Lịch sử không chỉ là những cái đã qua mà còn là người thầy dạy cho chúng ta hiểu hiện tại và giúp chúng ta dự báo cả tương lai.
Những bài học từ lịch sử còn giúp chúng ta tự nhận thức chính mình... 
Nhiều năm công tác tại đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, tôi thường đi ngang qua Hoàng Thành, qua Hồ Tây, khi sáng sớm tinh sương hay lúc chiều nắng tắt.
Có lúc tôi dừng lại bên những dấu tích của thời đại vàng son Lý - Trần, hoặc ngắm nhìn Hồ Tây sương khói, ngẫm nghĩ về những thời kỳ thịnh, suy của đất nước, về những lẽ hưng vong của thời cuộc.
Cứ mỗi lần như vậy, trong đầu tôi lại thoáng hiện lên câu thơ "Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong" (Bạch đầu quân sĩ tại, vãng vãng thuyết Nguyên Phong) trong bài thơ "Xuân nhật yết Chiêu Lăng" (Ngày xuân thăm Chiêu Lăng) của Vua Trần Nhân Tông.
Câu chuyện thời Nguyên Phong phá giặc Mông Cổ, trận đánh của người Việt làm kinh động cả thế giới, vẫn luôn được các lão chiến binh kể lại cho con cháu và trở thành điểm tựa sức mạnh để quân dân Ðại Việt tiếp tục thắng cường địch Nguyên - Mông lần hai, lần ba.
Lịch sử luôn có một sức mạnh như thế! Những giây phút thả mình vào lịch sử cũng đã hình thành trong tôi nhiều suy nghĩ và hành động.
Vừa may, khi có anh bạn vong niên tặng bộ tiểu thuyết lịch sử Bão táp triều Trần của nhà văn Hoàng Quốc Hải, tôi đọc và thấy nhiều điều tâm đắc.
Tiểu thuyết là sáng tạo của nhà văn nhưng nó phản ánh thực tại đời sống và mang lại những chiêm nghiệm quý giá.
Nhân vật Hoàng tiên sinh trong Bão táp triều Trần nói với Ðức ông Trần Thủ Ðộ: trì quốc chứ không phải trị quốc; trì quốc khó hơn nhiều, làm được điều đó mới đảm bảo được sự lâu bền, mới là sáng nghiệp tổ tông.
Giữ nước là công việc của trăm họ, của muôn dân còn trị nước chỉ là công việc của một số ít người.
Triều đình nào cũng thế, vua nào cũng vậy, lập thân, lập quốc bằng nhiều con đường khác nhau nhưng khi đã nắm quyền tất thảy đều phải xây dựng tính chính Danh:
Khi nhà Trần soán ngôi nhà Lý ấy là bởi nhà Lý lúc ấy đã mạt, không còn điều khiển, kiến thiết được quốc gia, giặc dã nổi lên khắp nơi, ngoại bang nhòm ngó.
Nhà Trần lên ngôi định đoạt, cơ đồ vững như bàn thạch ấy là bởi xã hội lấy lại được thế quân bình, dân chúng an cư, lạc nghiệp, triều đình tựa được vào lòng dân. Cứ đem lòng dân mà đo vận nước thì luôn chính xác.
Năm 1258, sau hơn 30 năm xác lập vương triều, Trần Thái Tông, Hoàng đế đầu tiên của nhà Trần đã cùng với tôn thất vực dậy được một dân tộc vốn ốm yếu, loạn lạc giai đoạn cuối đời Lý Huệ Tông, trở thành một cường quốc được lân bang nể trọng, đủ sức lãnh đạo toàn dân đánh bại đạo quân Mông Cổ hùng mạnh.
Kỳ tích đánh bại đế quốc Nguyên - Mông dưới triều Trần không dừng lại ở đó.
Năm 1285 và 1288, đội quân bách chiến bách thắng, vó ngựa giẫm nát khắp Á-Âu Nguyên - Mông đã phải dừng lại và thảm bại trước quân và dân nhà Trần.
Thắng lợi của Ðại Việt trước đại quân của một đế chế hùng mạnh vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ đã cho thấy sức mạnh vô địch của nhân dân ta và chỉ ra một chân lý của lịch sử dân tộc là một khi đã trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức (lời Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn) thì không kẻ thù nào có thể khuất phục được dân tộc ta.
Dù là nhân vật lịch sử đem đến nhiều tranh cãi, nhưng Trần Thủ Ðộ cũng nổi tiếng đức độ, công tư phân minh, biết nghe lời phải trái, cương trực.
Khi là Thái sư thống quốc, trụ cột triều đình, ông đã lệnh chặt ngón chân để phân biệt cháu của vợ mình là Linh Từ Quốc mẫu với những tiểu quan nhỏ khác, vì kẻ này nhờ Quốc mẫu xin một chân Câu đương, một chức dịch nhỏ ở làng xã, khiến kẻ này kêu van mãi mới được tha.
Ðây là người đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, không đan xen tình riêng vào việc công.
Cũng vẫn nhân vật Hoàng tiên sinh trong Bão táp triều Trần đã khuyên Trần Thủ Ðộ trước khi chia tay rằng việc tối kỵ là chỉ san định những điều có lợi riêng cho các người cầm quyền, mà thiệt hại cho dân chúng, thì đấy sẽ là đầu mối của sự loạn.
Tránh được việc tối kỵ đó đã giúp cho nhà Trần kéo dài 175 năm, nhưng hỡi ôi, cũng vì không làm được điều răn dạy đó mà Trần triều rốt cục cũng bị sụp đổ...
Âu cũng là bài học cho hậu thế.
Hơn 100 năm kể từ vị Hoàng đế đầu tiên của Trần triều, vào buổi sáng sớm cái ngày mà quan Tư nghiệp Quốc tử giám Chu An (Chu Văn An), bậc quốc sư dạy dỗ cho hai Hoàng đế Hiến Tông và Dụ Tông, phải chấm tay áo gạt nước mắt, treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi về quê dạy học, kinh thành Thăng Long vẫn vắng lặng.
Tờ sớ mà ông liều thân xin chém đầu 7 tên gian thần đầu triều vẫn nằm im đâu đó trong mật viện hay trên long án...
Ðó cũng là cái ngày báo hiệu cho sự lung lay và sụp đổ của vương triều Trần từng một thời rực rỡ.
"Ðại Việt sử ký toàn thư" chép: Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can Dụ Tông không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu.
Người bấy giờ gọi là Thất trảm sớ. Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê.
Ðại Việt sử ký cũng ghi nhận dù không làm quan nữa nhưng Chu Văn An vẫn nặng lòng với vận nước, mỗi khi có triều hội lớn ông lại về kinh sư; những dịp ấy vua thường muốn trao cho ông tham gia chính sự song ông nhất quyết không nhận, vật phẩm ban tặng thì thường đem cho lại người khác.
Tiền nhân đã dạy qua câu đối Tết: Tri túc tâm thường lạc, vô cầu phẩm tự cao (biết là đủ, không tham lam thì tâm lúc nào cũng tĩnh tại, không xin xỏ thì phẩm giá tự nó đã cao trọng) là vậy.
Cơ đồ mà Thái sư Trần Thủ Ðộ đã dày công khai môn dựng nghiệp, trải các đời vua Trần thống lĩnh toàn dân đoàn kết 3 lần đánh bại Nguyên - Mông, tiếc thay, lại rơi vào tay Dụ Tông, bậc quân vương mà hoang dâm xa xỉ.
Dẫu cho tôi có làm đúng phận tôi trung, nhưng vua không còn thực hiện phận làm vua sáng, ghét bỏ người hiền, không ưa lời nói thẳng, trọng dụng kẻ bất tài, để gian thần lộng hành, tham nhũng tràn lan... thì cái Danh đã không còn Chính nữa. Mạt lộ không còn xa.
Nhìn lại lịch sử, các triều đại trị quốc tuy có khác nhau nhưng sự suy vong nói như Chu An, đều có nguyên nhân giống nhau như khuôn đúc, từ chỗ "không ưa lời nói thẳng, ghét người hiền, bỏ người tài, khinh dân, nghi ngờ kẻ sĩ, trọng dụng kẻ bất tài, vô đạo".
Dụ Tông chết (năm 1369) để lại di họa, nhà Trần còn tồn tại thêm 31 năm với 5 đời vua, đến năm 1400 mất vào tay nhà Hồ.
Nhà Hồ sau khi giành ngôi báu đã làm được không ít việc, nhưng được Nước mà không được Dân nên cũng chẳng giữ được bao lâu, chỉ vỏn vẹn 7 năm rồi lại để đất nước rơi vào tay giặc Minh.
Ở giai đoạn lịch sử đất nước tiếp theo, không giống với nhà Trần và nhà Hồ, nhà Lê bước lên vũ đài chính trị trên cơ sở thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Các lãnh tụ nghĩa quân được xem như những vị cứu tinh đưa dân tộc thoát khỏi họa làm nô lệ cho ngoại bang.
Như một lẽ đương nhiên, triều đại do những người anh hùng lập ra được nhân dân tôn thờ như những giá trị thiêng liêng.
Triều Lê với những vị hoàng đế anh minh như Lê Thánh Tông, người lệnh cho danh sĩ Thân Nhân Trung soạn văn bia với câu "hiền tài là nguyên khí quốc gia", đã dựa vào các nhân tài để tạo dựng hàng loạt những giá trị văn hiến truyền lại cho đời sau, đưa Ðại Việt lên hàng cường quốc trong khu vực.
Vậy nhưng chính triều đại ấy rồi cũng sụp đổ hoàn toàn vào cuối thế kỷ XVIII.
Con đường đi tới quyền lực và đưa đất nước lên tới đỉnh cao hưng thịnh của các triều đại rất khác nhau, nhưng nguyên nhân suy vong thì chẳng khác nhau là mấy.
Ðó là do tài năng yếu kém và đạo đức suy đồi của những người cầm quyền.
Vào thời Lê Trung Hưng, nhà bác học Lê Quý Ðôn (1726 - 1784) có tổng kết 5 nguy cơ dẫn đến quốc gia suy vong là: Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt.
Cả năm điều ấy đều là những yếu tố bên trong. Dân tộc Việt Nam không bao giờ sợ giặc ngoại xâm, chỉ sợ những người cầm quyền không đủ dũng khí để tự sửa mình, để thực hành nghiêm khắc nội bộ.
Tìm hiểu lịch sử là con đường đưa chúng ta đến với kho tàng những kinh nghiệm vô giá mà cha ông ta đã đúc kết bằng cả mồ hôi và xương máu.
Hôm nay chúng ta bước sang một năm mới với một tâm trạng tươi tắn, niềm tin trong nhân dân đã trở lại, sức khỏe nền kinh tế có phần hồi phục, vị thế đất nước được lan tỏa rộng rãi.
Nhìn lại năm ngoái, phải khẳng định một điều, những gì Ðảng ta đã làm trong công tác cán bộ và xây dựng Ðảng là đúng với mong muốn và nguyện vọng của toàn dân.
Cũng cần khẳng định rằng việc phanh phui, gột rửa những nhem nhuốc, tiêu cực sẽ không dừng lại, mà từ đây, với niềm tin đã được xốc dậy, cả đất nước sẽ đồng lòng, chung sức diệt trừ giặc nội xâm.
Chẳng phải trong nhân dân, trong mỗi Ðảng viên đã luôn bất bình và phẫn nộ trước nạn tham nhũng, suy thoái?
Chẳng phải chúng ta đã chứng kiến những kẻ có lòng tham vô đáy lợi dụng kẽ hở của chính sách, lạm dụng quyền lực để móc túi nhân dân, rồi chính những kẻ đó và bè cánh lại tìm mọi cách để "chui sâu, leo cao" hơn nhằm bảo đảm cho khối tài sản ăn cắp đó tiếp tục sinh sôi, nảy nở?
Nếu tình hình tham nhũng và suy thoái không được loại trừ, Ðảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu?
Người chép sử không bao giờ viết chữ "nếu". Chính vì vậy mà ngay lúc này, Ðảng và những người nắm giữ vai trò chèo lái đất nước phải kiên quyết hành động.
Nhân dân luôn đứng bên cạnh Ðảng, đồng lòng đi theo Ðảng bằng cả lý trí và trái tim để thực hiện đến cùng cuộc đấu tranh này.
Mỗi chúng ta rồi đây đều phải đứng trước sự phán xét công bằng của lịch sử, của dân tộc.
Với niềm tin đó chúng ta cùng phấn khởi bước sang năm Mậu Tuất 2018./.
* Viết tại Thành phố Hồ Chí Minh, cuối năm 2017  
Trương Tấn Sang
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bài viết được đăng tải trên Đài tiếng nói Việt Nam và Giáo dục Việt Nam dẫn lại theo đường link này:  https://vov.vn/chinh-tri/ngay-luc-nay-dang-phai-kien-quyet-hanh-dong-716338.vov 
Tên bài đã được NTB đặt lại.

NHÂN CHUYỆN ÔNG NGUYỄN TẤN SANG ĐỌC LẠI LỊCH SỬ

HUỲNH NGỌC CHÊNH/ BVN 10-1-2018

Thời bây giờ mà đầu óc cứ luẩn quẩn mãi chuyện "tôi trung" với "minh quân" thì đất nước còn tiếp tục chìm đắm vào tối tăm lạc hậu, khó mà vươn lên ngang bằng với các láng giềng Đông Nam Á chứ đừng nói với các quốc gia tiên tiến cao xa khác.
Cụ Chu Văn An sống trong thời đại phong kiến thì tư duy của cụ cũng chỉ là tôn sùng minh quân, xây dựng lực lượng tôi trung, tiêu diệt gian thần để kéo dài tuổi thọ cho một thế lực phong kiến đã đến lúc phải suy tàn theo quy luật.
Nhìn ra bên ngoài thời đó, Chu Văn An cũng chỉ thấy một cơ chế phong kiến của Trung Hoa không có gì khác hơn, nhìn lui lại lịch sử nước nhà cũng một cơ chế phong kiến tồn tại trên cơ sở đức trị mà vận nước phải gắn vào hưng suy theo triều đại. Cụ không thấy được cơ chế nào khác tốt đẹp hơn nên cứ bám theo đó ra sức giúp nước bằng cách giúp vua thành minh quân, bằng cách dâng sớ xin chém gian thần để thanh lọc bộ máy cai trị lúc nhúc quan tham của cái thời nhà Trần mạt vận.
Liệu ngày đó vua nghe lời trung thần Chu Văn An chém đầu 7 gian thần thì triều đình nhà Trần có tốt đẹp hơn lên vào lúc đã suy tàn theo quy luật? Liệu 7 gian thần đó bị chém đầu thì các quan khác lên thay có tốt đẹp hơn không? Chưa nói là cá nhân cụ Chu Văn An không khỏi bị chủ quan khi đánh giá ai là gian thần ai là trung thần. Cụ dựa trên cơ sở pháp lí nào, quy chuẩn công chức nào để phán xét kẻ đúng người sai?
Không. Ngoài cái tài học rộng và đức cao ra, chúng ta của thời đại ngày nay không học được điều gì từ cụ Chu Văn An trong vấn đề hưng quốc.
Đọc lại lịch sử để rút ra bài học là các triều đại phong kiến thiết kế chế độ và quản lí quốc gia trên cơ sở đức trị, hoàn toàn dựa vào đạo đức của người đứng đầu là ông vua. Vua tài đức thì triều đình hưng thịnh, đất nước bình an, vua tệ hại thì triều đình mạt vận, đất nước suy vong. Cơ chế chọn ra ông vua kế vị thì hoàn toàn độc đoán, chủ quan cá nhân và dựa vào mệnh trời may rủi, không có gì bảo đảm người được chọn sẽ là vị minh quân.
Do vậy, tất cả các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đều đi theo một quy luật, hưng thịnh nhờ vào một vài ông vua đầu còn sáng suốt, sau đó lụn tàn sụp đổ vì các ông vua sau suy thoái.
Học lại lịch sử là học cái điều đó để đừng lặp lại vì chuyện thịnh suy của một triều đại, một giòng họ, một bè nhóm cai trị mà đưa đến thịnh suy của đất nước.
Ngày nay, cánh cửa ra thế giới rộng mở, chúng ta nhìn thấy thực tế tốt đẹp của cả trăm quốc gia phát triển, học hỏi được giải pháp quản lí và phát triển của họ, hiểu biết thể chế nào là tối ưu mà họ chọn lựa để đưa đất nước họ vươn lên mang lại hạnh phúc ấm no thực sự cho người dân.
Thể chế chính trị hiện nay cai trị đất nước chẳng khác gì với các triều đại phong kiến ngày xưa, cũng "vua" trước truyền ngôi lại "vua" sau, tổng bí thư trước chuẩn bị người cho chức tổng bí thư sau, bộ chính trị trước lo người kế thừa bộ chính trị sau, quan đầu tỉnh trước chuẩn bị truyền chức lại cho quan đầu tỉnh sau... Tất cả đều trên cơ sở chủ quan cá nhân, độc đoán và được bảo vệ bằng nghị quyết đảng chứ chẳng dựa trên cơ sở pháp lí và phương pháp tuyển chọn dân chủ, khoa học nào.
Mà thể chế tuyển dụng và đề bạt lãnh đạo hiện nay còn tệ hại hơn thời phong kiến. Ngày trước chỉ duy nhất một "chức" vua là được truyền lại, còn tất cả các quan chức khác từ tể tướng trở xuống đều không được tự ý truyền lại cho người sau. Cơ chế tuyển dụng quan cũng tốt hơn bây giờ, nghĩa là mọi thành phần xã hội đều được tham gia ứng tuyển thông qua các kì thi nghiêm khắc.
Đọc lại lịch sử để biết vượt qua cái hạn chế của tổ tiên chứ không phải học theo các phương cách cổ xưa luẩn quẩn mãi trong chuyện minh chúa hay lú chúa, trung thần hay gian thần.
Liệu bây giờ chém đến cả trăm tham quan thì lấy gì bảo đảm không có cả ngàn tham quan khác lên thế chỗ trong cái cơ chế lỗi thời này? Đồng thời với việc chém đầu các tham quan thì phài chém ngay cái thể chế phát sinh ra đám tham quan nhung nhúc như hiện nay thì việc chống tham nhũng mới thực chất và hữu hiệu.
Cái đất nước đang cần bây giờ là minh chế chứ không phải minh quân.
Nếu ông Trương Tấn Sang có lòng với dân với nước, như ông bày tỏ, thì ông hãy dũng cảm lên tiếng kêu gọi đổi mới thể chế như ông Võ Văn Kiệt đã từng làm, ngay khi ông còn đương chức và tiếp tục vận động sau khi đã nghỉ hưu.
H.N.C
Nguồn: https://www.facebook.com/ho.lytien.1/posts/10203997876144904


NHẬN THỨC MUỘN VÀ NHẦM CỦA CỰU CHỦ TỊCH NƯỚC

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 11-1-2018

Đầu năm 2018 ông Trương Tấn Sang viết bài: “Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai”. Bài được nhiều báo đăng, có lắm người quan tâm và bình luận. Cựu Chủ tịch trình bày việc chính mình quan sát di tích Hoàng thành Thăng long, nhìn ngắm Hồ Tây, xem tiểu thuyết Bão táp Triều Trần, đọc Đại Việt sử ký toàn thư,  ngẫm nghĩ về Thất trảm sớ của Chu Văn An, về 5 nguyên nhân gây mất nước do Lê Quý Đôn tổng kết, v.v…, để rồi tức cổ nghiệm kim, suy nghĩ sâu xa về sự hưng vong của đất nước. Ông hiểu ra rằng đất nước hưng thịnh nhờ có vua sáng tôi hiền. Ông viết: “Con đường đi tới quyền lực và đưa đất nước lên tới đỉnh cao hưng thịnh của các triều đại rất khác nhau, nhưng nguyên nhân suy vong thì chẳng khác nhau là mấy. Ðó là do tài năng yếu kém và đạo đức suy đồi của những người cầm quyền”. Gần cuối bài ông đưa ra nhận xét: “Hôm nay…, niềm tin trong nhân dân đã trở lại, sức khỏe nền kinh tế có phần hồi phục, vị thế đất nước được lan tỏa rộng rãi. Nhìn lại năm ngoái, phải khẳng định một điều, những gì Ðảng ta đã làm trong công tác cán bộ và xây dựng Ðảng là đúng với mong muốn và nguyện vọng của toàn dân”. Nhưng rồi ông lại viết: “Chẳng phải chúng ta đã chứng kiến những kẻ có lòng tham vô đáy lợi dụng kẽ hở của chính sách, lạm dụng quyền lực để móc túi nhân dân, rồi chính những kẻ đó và bè cánh lại tìm mọi cách để chui sâu, leo cao hơn nhằm bảo đảm cho khối tài sản ăn cắp đó tiếp tục sinh sôi, nảy nở?”. Rồi ông đặt câu hỏi: “Ðảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu? Cuối cùng ông trấn an: “Mỗi chúng ta rồi đây đều phải đứng trước sự phán xét công bằng của lịch sử, của dân tộc. Với niềm tin đó chúng ta cùng phấn khởi bước sang năm Mậu Tuất 2018” (Niềm tin Đảng kiên quyết chống tham nhũng).

Tôi viết nhận thức của ông Sang là muộn, quá muộn vì đạị đa số nhân loại, trong đó có rất nhiều người Việt, đã biết nó từ rất lâu, đã nói và viết từ lâu. Hồi còn làm Chủ tịch nước ông có biết không, nếu không biết thì tại vì cái gì. Ông viết về tài năng yếu kém và đạo đức suy đồi của những người cầm quyền, về lạm dụng quyền lực, về tìm mọi cách để chui sâu leo cao. Ông có tự liên hệ không, có nghĩ đến việc đứng trước sự phán xét công bằng của lịch sử không. Ông có tự biết tài năng ông yếu kém, nhưng vì sao được ngồi vào ghế Chủ tich nước không.

Tôi viết nhận thức của ông Sang là nhầm. Xin giải thích rõ hơn. Những nhận thức đó chủ yếu không sai nhưng không hoàn toàn đúng, chủ yếu là nhầm (riêng các ý sau là không phù hợp thực tế: Niềm tin trong nhân dân đã trở lại; và: những gì Ðảng ta đã làm là đúng với mong muốn và nguyện vọng của toàn dân”).

Trước khi nêu ý kiến cá nhân tôi xin điểm vài nhận xét cúa các tác giả khác.

 Trung Nguyễn (bài: Thư gửi ông Trương Tấn Sang và giới lãnh đạo cộng sản) nhận xét rằng “những kiến thức trong đầu các ông về thế giới và cả về đất nước Việt Nam rất lệch lạc”, rằng chế độ cộng sản không những giống mà còn tệ hơn chế độ phong kiến, thế mà ông chỉ hô khẩu hiệu và lừa dối nhau, rằng thực ra ông chẳng lo gì cho dân cho nước mà chỉ lo cho đảng cai trị .
FB Huỳnh Ngọc Chênh (bài: Nhân chuyện ông Trương Tấn Sang đọc lại lịch sử) cho rằng: “Đọc lại lịch sử để biết vượt qua cái hạn chế của tổ tiên chứ không phải luẩn quẩn trong chuyện chúa minh hay chúa lú. Đất nước bây giờ đang cần Minh Chế.

Nhà bình luận Tuấn Khanh (Việt Nam Thời báo) cho rằng ông Sang chỉ viết những điều chung chung, không đưa ra được cái gì cụ thể, chỉ dẫn những sự kiện của các Triều Lý, Trần, Lê mà không đả động đến Triều Nguyễn, đã từng có nhiều thành công trong chống tham nhũng và chấn hưng đất nước.

GS Nguyễn Đăng Hưng (bài: Lời bình sau khi đọc bài viết của ông Trương Tấn Sang) nhận xét: Cái nguy hiểm trước mắt là những sai lầm chính trị, những biện pháp đàn áp đáng tiếc, phát sinh ra đối kháng giữa dân và nhà cầm quyền…  Các vương triều đất Việt đi ngược lại lòng dân hay làm mất lòng dân đều tạo điều kiện cho phương Bắc thôn tính, nước nhà bước vào vòng nô lệ! Hơn bao giờ hết ngày nay trước hiểm họa lãnh thổ, lãnh hải bị xâm phạm, trước nguy cơ bị chiếm đoạt Biển Đông, chính quyền nên ghi nhận bài học này.

Theo tôi, điều nhầm lẫn lớn nhất của ông Sang cũng như của nhiều lãnh đạo cộng sản khác trong việc đánh giá tình hình đất nước là cho rằng những tai họa mà đất nước và nhân dân phải chịu là do sự tham lam, sự xuống cấp đạo đức của một số người cầm quyền. Họ không thấy, không chịu thừa nhận nguyên nhân gốc gác của mọi tai họa là sự độc tài toàn trị của Đảng theo Chủ nghĩa Mác Lê. Tất nhiên một mình CN Mác Lê chưa đủ để gây ra mọi tai họa mà nó kết hợp với những yếu kém của nền văn hóa, với những tính xấu của người Việt. Chính sự độc tài của cộng sản khi đã nắm chắc  chính quyền đã tạo ra trong giới lãnh đạo những người vừa tham lam vừa thiếu trí tuệ nhưng có thừa mánh lới, có thừa mưu mẹo để leo cao, luồn sâu. Họ kết với nhau thành các nhóm lợi ích. Ngoài mồm họ rêu rao vì nước vì dân, thực chất họ chỉ lo vinh thân phì gia, lo củng cố quyền lực. Các nhóm liên kết với nhau thành một tập hợp lớn để vừa chiếm đoạt, vừa tàn phá tài nguyên của đất nước để làm giàu riêng. Ngày nay tập hợp lớn đó chính là ĐCS. Nói cách khác từ tập hợp lớn chia thành các nhóm lợi ích. Các nhóm này vì quyền lợi mà đấu đá nhau, thanh toán nhau.

Nhưng có lẽ không phải ông Sang và lãnh đạo nhầm, họ thấy rõ nhưng cố tình che giấu. Như vậy đã phạm tội lừa bịp. Họ dựng lên nào là Hội đồng lý luận, nào là các Học viện chính trị, nào là Ban Tuyên giáo các cấp để nghiên cứu, để tuyên truyền, rằng mọi sự xấu xa , mọi đồi bại là do một số người suy thoái đạo đức. Thậm chí họ cố tình làm một việc quá sai là đem trộn lẫn khái niệm suy thoái đạo đức với tự diễn biến về tư tưởng. Họ cố  bế tỏa đầu óc, cố bịt mắt, cố bưng tai để không nghĩ, không  thấy, không nghe đến sự tác hại muôn mặt của chế độ toàn trị của đảng. Phải thấy được chế độ cộng sản còn tồi tệ hơn chế độ phong kiến như Trung Nguyễn, thấy được cái sai lầm về chính trị và sự đàn áp đáng tiếc như  Nguyễn Đăng Hưng, thấy được sự cấp thiết xây dựng một Minh Chế như Huỳnh Ngọc Chênh, thấy được nguyên nhân gốc của mọi tai họa từ trong CNML như Nguyễn Đình Cống (không phải chỉ mấy người ấy mà hàng triệu người đều thấy, họ chỉ là đại diện).

Tôi  chứng kiến rằng có rất nhiều người biết CNML sai ngay từ đầu nên kiên quyết không công nhận (mặc dù một số vì tình thế bắt buộc phải chịu đựng), rằng một số khá đông đảng viên ĐCS, trong đó có các cán bộ lãnh đạo đến gần cuối đời bỗng ngộ ra rằng  con đường cộng sản họ đã từng lựa chọn là sai về cơ bản, sai từ gốc. Nhận ra sai rồi, nhưng phản ứng của mỗi người là khác nhau. Để kết thúc tôi xin lấy ý của Huỳnh Ngọc Chênh, thêm vào một chút như sau: Nếu ông Sang và những cán bộ của Đảng, dù đã nghỉ hưu hay đương chức, nếu có lòng với dân với nước thì hãy dũng cảm lên tiếng kêu gọi đổi mới thể chế. Có xây dựng được thể chế thật sự dân chủ với tam quyền phân lập mới có cơ sở loại bỏ tham nhũng đến tận gốc. Còn bài viết “Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai” chỉ mới chứng tỏ ông Sang đang có những phản tỉnh để làm người tử tế. Rất hy vọng ông sẽ vượt lên được chính mình để có thể vững vàng đứng trước sự phán xét của lịch sử.

N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét