Thứ Tư, 4 tháng 1, 2017

20160104. BÀN VỀ KHÁI NIỆM 'TỰ DIỄN BIẾN', 'TỰ CHUYỂN HÓA'

ĐIỂM BÁO MẠNG
BÀN VỀ TỰ DIỄN BIẾN TỰ CHUYỂN HÓA
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BS/ BVB/ BVN 3-1-2017

Đó là 2 khái niệm được dùng nhiều trong thời gian gần đây. Chúng thường đi cùng với nhau, chưa thấy ai dùng tách riêng. Như vậy chúng là đồng nhất hay khác nhau?
Nếu là đồng nhất thì sao giữa chúng có liên từ  hoặc viết liền nhau, cách một dấu phẩy. Lúc này cần dùng liên từ hoặc để kết nối, sẽ tốt hơn khi đặt khái niệm sau cùng với chữ hoặc vào trong dấu ngoặc đơn. Nếu là khác nhau thì ở chỗ nào? Tôi chưa tìm thấy một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ của 2 khái niệm trên. Nghị quyết 4/12 của TƯ Đảng nêu ra 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tóm lược như sau:
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin (CNML), tư tưởng Hồ Chí Minh …đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. 
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” …. Phủ nhận chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. 
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng… Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. 
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, … hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. 
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; ….chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an. 
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội…. tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước. 
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; … gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. 
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. ….Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng. 
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, … chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
(Nhận xét: 9 nội dung trên có nhiều điều trùng với nội dung của mục Biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị).
Tôi đã thử dựa vào 9 biểu hiện trên để phân biệt giữa 2 khái niệm, nhưng chưa tìm ra. Cũng không thể dựa vào đó để đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, ngoài việc định nghĩa dựa vào liệt kê một cách quá dài dòng. Lần đầu tiên nghe tên gọi 2 khái niệm trên tôi suy đoán như sau: Diễn biến dùng để chỉ các hành động cụ thể, còn chuyển hóa để chỉ sự thay đổi về tư tưởng, Trong cả 9 biểu hiện kể trên, nếu chỉ mới có trong ý nghĩ thì đó là chuyển hóa, còn đã thể hiện ra việc làm thì đó là diễn biến. Không biết hiểu như thế đã đúng hay chưa so với suy nghĩ của người đặt ra các tên gọi đó. Cũng có khả năng người ta cho 2 tên gọi cùng để chỉ một khái niệm, nhưng không thể lựa chọn tên nào hay hơn nên đành dùng cả hai kèm nhau. Hơn nữa trong nghị quyết tất cả các từ tự diễn biến, tự chuyển hóa đều được đặt trong ngoặc kép “…” (cũng đặt trong “..” các từ như: dân chủ, nhân quyền, diễn biến hòa bình, đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, xã hội dân sự, lợi ích nhóm v.v…). Không biết việc viết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong ngoặc kép như vậy mang ý nghĩa gì.
Chữ TỰ đặt ở đầu chỉ rõ đây là việc trong nội bộ đảng, không có tác động từ ngoài. Đảng viên không được phép tự chuyển hóa và tự diễn biến, nếu họ vi phạm sẽ bị thi hành kỷ luật đảng. Còn đối với người ngoài đảng, với tư cách là con người tự do, đặc biêt là những nhà khoa học, những trí thức, họ có quyền phủ nhận CNML khi có đủ bằng chứng nó không phù hợp, họ có nghĩa vụ đề nghị thiết lập chế độ đa nguyên, Tam quyền phân lập và phát triển xã hội dân sự khi tin chắc rằng đó là những biện pháp mang đến thịnh vượng cho đất nước, họ có đủ lý do để phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng đối với nghệ thuật khi chứng tỏ sự lãnh đạo đó tạo ra sự kìm hãm sáng tạo v.v… Những việc như vậy không vi phạm luật pháp.
Còn đối với đảng viên, thực tế chứng tỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là nguyên nhân cơ bản tạo ra sự tham nhũng nặng nề, vậy yêu cầu phủ nhận nó là biểu hiện tiến bộ chứ sao lại lên án. Khi cho rằng nói, viết những đề nghị trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng là tự diễn biến, cần phải loại bỏ thì thử hỏi nếu quan điểm, chủ trương ấy sai, có hại cho dân tộc thì sao. Ông Kim Ngọc chẳng đã làm trái chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp để cứu dân, ông Võ Nguyên Giáp và nhiều người khác đã từng phản đối Bôxit Tây Nguyên để cứu môi trường. Họ đều làm trái quan điểm của Bộ Chính trị Đảng. Rồi nữa, trước Đại hội 6, ông Trường Chinh dám xóa bỏ cả dự thảo báo cáo đã hoàn chỉnh để viết lại, thế có phải làm trái với Bộ Chính trị của Đảng hay không, và tại ĐH 6 đó đã thông qua đường lối phát triển kinh tế tư nhân có phải là phủ nhận nguyên lý của CNML hay không (tuyên truyền của Đảng nói dối là vận dụng sáng tạo).
Ngoài ra, trong 9 mục trên đây có một số chỗ vượt ra ngoài “ tự chuyển hóa” theo cách hiểu thông thường mà đã phạm vào Bộ Luật hình sự, ví dụ như 1 số nội dung trong các mục 4; 6; 7; 9.
Xin tạm dừng việc bàn về nội dung và định nghĩa khái niệm. Tôi muốn đề cập đến vấn đề đáng quan tâm hơn, đó là tìm nguyên nhân tạo ra các biểu hiện trên.
Đảng soạn ra nghị quyết 4 để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, trong đó một phần quan trọng là chống lại “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chưa bàn đến việc chống đó đúng sai ở những chỗ nào, tạm chấp nhận là đảng muốn chống được triệt để chứ không phải chỉ vạch ra cho qua chuyện. Muốn chống triệt để thì không thể chỉ tìm cách xóa các hiện tượng mà phải tìm ra thật đúng nguyên nhân gốc rễ, nguyên nhân sâu xa để loại bỏ chúng. Không nên và sẽ phạm sai lầm khi chỉ dừng lại ở một số nguyên nhân gần, bên ngoài, hời hợt. Nếu không làm được như thế, nguyên nhân gốc rễ vẫn còn thì xóa được chỗ này, lúc này, nó sẽ phát sinh ra ở chỗ khác, lúc khác, mà càng ngày càng nhiều hơn, càng mạnh hơn. Nguy hiểm hơn là xác định sai nguyên nhân gốc rễ rồi phí sức lực như kiểu “vung đao chém xuống nước mà nước còn chảy mãi”. Khi tìm nguyên nhân phải hết sức khách quan, trung thực, khoa học thì mới mong tìm đúng, còn nếu để cho ý thức hệ khống chế, để cho sự chỉ đạo định hướng thì dễ bị lầm lạc hoặc dối trá. Muốn vậy phải theo phương pháp luận khoa học đúng đắn. Trước hết không phải chỉ do một nhóm nhỏ người vừa đá bóng vừa thổi còi mà phải có một số nhóm thực hiện. Các nhóm này phải có trình độ, trung thực, được hoàn toàn độc lập, tự do, chỉ tuân theo khoa học. Thực hiện theo các bước: 1- Thu thập và chỉnh lý sự kiện, số liệu; 2- Đề ra một vài giả thuyết về nguyên nhân; 3- Tìm chứng cứ để bác bỏ giả thuyết; 4- Khi không tìm thấy chứng cứ bác bỏ thì sẽ chứng minh, kiểm nghiệm; 5-Công bố sơ bộ các kết luận để thu thập phản biện, tổ chức đối thoại với phản biện và các hội thảo cần thiết. 6-Tổng kết. Tôi nghĩ rằng khi đã tìm ra đúng nguyên nhân của tự diễn biến, tự chuyển hóa thì có lẽ Đảng phải viết lại nghị quyết.
Nghị quyết 4 đưa ra 3 dạng biểu hiện: suy thoái về tư tưởng, suy thoái đạo đức, tự diễn biến, nhưng về nguyên nhân thì gộp chung lại: “Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu”. Riêng phần nguyên nhân chủ quan được viết khá dài (khoảng 850 chữ), phần lớn chỉ là những biểu hiện bên ngoài và không phân biệt đâu là nguyên nhân của tự diễn biến. Đây là một trong những sai lầm khi trộn lẫn các việc suy thoái đạo đức với tự diễn biến.
Vừa qua Hội đồng lý luận trung ương đã hoàn thành đề tài cấp nhà nước KX04.11.15 về các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn, làm cơ sở cho Đảng hoạch định chủ trương, chính sách, soạn nghị quyết. Đề tài được nghiệm thu với đánh giá trên 70% nội dung là xuất sắc (tôi mới chỉ biết ký hiệu đề tài chứ chưa tìm thấy nội dung). Chẳng biết trong đề tài đó có mục nào về việc phân biệt tự chuyển hóa với tự diễn biến, tìm nguyên nhân sinh ra chúng hay không. Nếu không có thì đó là một thiếu sót. Nhưng nếu có mà làm không đúng, đưa ra các kết luận sai lệch (vì bị chỉ đạo theo định hướng, vừa đá bóng vừa thổi còi…) thì đó là không những phạm sai lầm nghiêm trọng về khoa học mà còn phạm tội ác với dân tộc.
Tự diễn biến bắt đầu với ai và khi nào? Điều này phải nghiên cứu kỹ theo dòng lịch sử mới rõ được. Theo chỗ tôi biết thì có thể kể từ Trần Huy Liệu (*), Nguyễn Hữu Đang, Kim Ngọc, Trần Độ, Trần Xuân Bách, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Minh Cần, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Lâm, Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Mạnh Can, kể cả Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, càng ngày càng đông, không sao kể hết. Thử nghiên cứu kỹ xem họ là những người như thế nào, nguyên nhân nào, động cơ nào làm họ diễn biến. Phải chăng nhờ có lòng yêu nước thương dân, nhờ có trí tuệ, biết độc lập suy nghĩ, không sợ cường quyền, không cam tâm chịu ngu tối mà họ chấp nhận dấn thân, hay họ là tay sai của bọn thù địch ngoại bang, nhận tiền của bọn phản động, hay họ vì muốn vinh thân phì gia mà áp bức nhân dân, tham nhũng, mua quan bán tước, họ có tạo nên hay tham gia vào các nhóm lợi ích hay không.
Việc tìm tòi, nghiên cứu thì tôi vẫn tự làm một cách độc lập từ trước đến nay và cũng đã có một số kết quả. Tuy vậy mong lắm thay được tham gia vào công việc nghiên cứu của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm ra nguyên nhân sâu xa của sự tự diễn biến, tự chuyển hóa hoặc được góp phần làm phản biện để xem luận điểm của một số người quan niệm như sau là sai hay đúng ở chỗ nào: “Tự diễn biến, tự chuyển hóa để phủ nhận CNML, thực hiện chế độ đa nguyên, tam quyền phân lập, phát triển xã hội dân sự, xóa bỏ công hữu ruộng đất …là những việc làm hợp quy luật phát triển”.
(*) Trần tiên sinh, đang là nhân vật cao cấp trong Chính phủ Hồ Chí Minh thời kỳ 1945 – 1950, bị thất sủng vì cho rằng bọn bành trướng Đại Hán là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt.
NĐCBs
NGUYỄN PHÚ TRỌNG CHỐNG MÁC XÍT
NGÔ NHÂN DỤNG/ BVN 29-12-2016

Nguyễn Phú Trọng chống Mác xít


clip_image002
Những người quen nói tiếng Việt cảm thấy có điều gì “không ổn” khi nghe ông Nguyễn Phú Trọng nói ba chữ “tự diễn biến”. Người Việt dùng chữ “tự” đứng trước một động từ, chẳng hạn chiếc “xe hơi tự lái” mà công ty Uber đang muốn thử. Chiếc xe không cần tài xế mà vẫn đón khách, đưa khách, nó tự lái lấy, tránh không đụng ai, và đi đến đúng địa chỉ người khách muốn.
Nhưng “diễn biến” không phải là một động từ. Hai chữ “diễn biến” là một danh từ, với các động từ tương ứng là biến, là biến đổi, chuyển biến, biến hóa, vân vân. Tiếng Việt Nam không nói “tự diễn biến”, cũng như không nói “tự xe hơi”. Nhưng ông Nguyễn Phú Trọng cứ nói “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, nói đi nói lại mấy năm nay mà các đảng viên cộng sản không ai dám mách ông tổng bí thư rằng ông nói như vậy là không đúng tiếng Việt. Chắc người Tàu họ nói như vậy, rồi ông bắt chước, tin tưởng các “đồng chí anh em” nói gì đều đúng văn phạm.
Người Tầu cộng sản bắt đầu với khẩu hiệu “chống diễn biến hòa bình”. Khi học tập về cuộc sụp đổ của chế độ cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, lúc đầu họ coi đó là do tình báo Mỹ CIA gây ra. Mỹ không tấn công, không gây được những cuộc nổi dậy trong các nước cộng sản, nhưng chế độ cứ thế mà tan rã từng mảnh một. Họ gọi đó là “diễn biến hòa bình”, hô hào các đảng viên phải chống. Hô hào một thời gian rồi, họ nhận thấy rằng chính quyền Mỹ hoặc CIA không phải là đầu mối đáng lo nhất, mà chính các đảng viên cộng sản muốn thay đổi mới thật sự đe dọa quyền hành của giới lãnh đạo. Thế là họ quay mũi dùi qua chính các đảng viên, những người có cái đầu đang tự thay đổi. Bên Tầu bèn phát động phong trào chống tình trạng đảng viên cộng sản tự thay đổi và muốn chế độ thay đổi! Bắc Kinh đi trước, Hà Nội bèn theo bén gót.
Trong hội nghị ngày 9 tháng 12 năm 2016 vừa qua, ông Trọng nêu ra “điểm mới” trong Nghị quyết cho cán bộ toàn quốc học tập, nói rằng nó “chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, nhấn mạnh tính chất nguy hiểm và hậu quả khôn lường của nó”. Hiện tượng “suy thoái đạo đức” trong đám cán bộ là chuyện không có gì mới. Càng lên cao càng hư, các trò hư hỏng càng lớn, cả nước đã biết từ… nửa thế kỷ nay rồi; không thể nói là mới được. Có lẽ điều mới được đảng cộng sản nhấn mạnh trong nghị quyết là hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Ông Trọng yêu cầu các cán bộ cảnh giác.
Tiến Sĩ Âu Dương Thệ, sống ở nước Đức, có lần đã nhận xét “rõ ràng là Nguyễn Phú Trọng đụng vào đâu thì hỏng đó!”. Ông Âu Dương Thệ kết luận rằng để ông Trọng ngồi cái ghế lãnh đạo “càng lâu càng nguy hiểm!”.
Nhưng “nói hỏng” tiếng Việt là chuyện nhỏ! Ông Trọng “hỏng” lớn hơn nữa, là khi hô hào đảng viên chống tự diễn biến, ông đã chống cả ông Karl Marx! Tức là chính ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đang tự chuyển hóa! Một người chống Mác xít “càng ngồi lâu càng nguy hiểm” cho chính đảng Cộng sản!
Một điều ông Karl Marx luôn luôn nhấn mạnh là thế giới thay đổi, xã hội loài người luôn luôn thay đổi. Ý tưởng này thực ra loài người đã biết mấy ngàn năm trước, Phật Thích Ca dậy tính chất vô thường của mọi hiện tượng, các triết gia Hy Lạp hay Kinh Dịch của người Trung Hoa đều nói như vậy. Karl Marx chỉ đánh bóng tư tưởng đó bằng biện chứng pháp của Hegel, quay ngược đầu lý thuyết đó với niềm tin duy vật. Nhưng ai học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Karl Marx đều nhớ một điều: Xã hội luôn luôn thay đổi. Lịch sử là cuộc chuyển hóa của loài người, một diễn biến không ngừng.
Bây giờ ông Nguyễn Phú Trọng chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, ông đã phủ nhận nền tảng của lý thuyết Mác xít!
Lý do vì ông Trọng đã học tập Giang Trạch Dân, Tập Cận Bình, khi họ rút tỉa bài học Liên bang Xô viết sụp đổ. Trong một bài diễn văn năm 2013, sau khi lên chức Tổng bí thư, họ Tập giải thích sự thất bại của cộng sản Nga là do “Những lý tưởng và niềm tin của họ đã lung lay. Cuối cùng, trong một đêm, ‘ngọn cờ lãnh đạo’ đã gẫy đổ. Đó là một bài học sâu xa cho chúng ta (cộng sản Trung Quốc)”.
Nhưng họ Tập đã nhìn khiếm diện, chỉ trông thấy sự sụp đổ của niềm tin vào ý thức hệ Mác Lê Nin, coi đó là nguyên nhân chính. Trong thực tế, sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là do những người đang hưởng thụ nhiều nhất đã hoàn toàn bất lực trước cảnh kinh tế suy đồi, khiến cho quyền lợi của chính họ cũng suy giảm.
Trong thập niên 1980, hệ thống cai quản nước Nga từ thời Lenin và Stalin đã khô héo, xơ cứng, bất lực trước các vấn đề nhỏ nhất như cả hệ thống vận chuyển nông sản từ đồng quê lên thành phố không biết làm sao cho nó chạy được! Một phái đoàn của chính phủ Liên Xô qua thăm London, nước Anh, để nghiên cứu về hoạt động của thị trường. Họ được mời tới quan sát khu chợ rau buổi sáng. Họ nhìn thấy cảnh các nhà nông lũ lượt lái xe đem rau, trái cây tới chợ; cảnh những nhà buôn sỉ đem xe tải tới chở hàng rồi chạy đi phân phối, chỉ trong một tiếng đồng hồ mọi hàng hóa được đưa tới đã biến đi đâu hết! Phái đoàn Nga phải hỏi người hướng dẫn: “Ủy ban phân phối của các ông hữu hiệu quá! Làm cách nào được như vậy?” Vì trong cùng thời gian đó, những đống khoai tây, bắp, lúc mì, trái cây đang nằm ụ tại nhiều nhà ga ở nước Nga, đến lúc ung thối vẫn chưa được chuyển đi!
Những người cầm đầu cộng sản Nga thấy phải thay đổi. Nhưng họ cũng bất lực. Vì trong đám những cán bộ, đảng viên đang nắm quyền, đa số thấy rằng nếu thay đổi thì chính họ sẽ mất những lợi lộc và quyền hành đang được hưởng. Khối người đó cưỡng lại đến cùng mọi cải tổ. Gorbachev thất bại vì ông ta muốn thay đổi từ trên xuống, thay đổi cái đầu và cơ chế. Ông không bắt đầu từ những phạm vi hẹp, trong lãnh vực kinh tế, trên từng mảnh đất nhỏ nông thôn, cho nông dân được tự do làm ăn cho chính họ hưởng, như Đặng Tiểu Bình làm ở bên Tàu.
Đặng Tiểu Bình biết xã hội Trung Hoa thay đổi nên đối phó với chương trình cải tổ kinh tế. Nhưng kinh tế thay đổi thì dần dần cách sống của con người cũng đổi, tương quan giữa người này với người kia cũng đổi. Sau 30 năm, nước Tàu đã thay đổi. Không cần ông Karl Marx nói, ai cũng có thể nhận ra điều đó. Nhưng những người tự xưng là học trò của Karl Marx lại không thấy và không chấp nhận sự thay đổi thì đúng là họ đang chống lại ông thầy Marx!
Khi hô hoán, kêu gọi các đảng viên chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, chính ông Nguyễn Phú Trọng đang từ chối giáo điều căn bản của Marx, chính ông đang tự chuyển hóa! Tiến sĩ Âu Dương Thệ nói ông Trọng “càng ngồi lâu càng nguy hiểm”, là muốn nói đến mối nguy hiểm cho dân tộc Việt Nam. Nhưng chính cái đảng Cộng sản của ông cũng lâm nguy vì đến người cầm đầu đảng cũng phản lại lý thuyết Mác xít!”.
Nếu áp dụng những bài học về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Karl Marx, thì trước hết ông Nguyễn Phú Trọng phải nhận ra những mâu thuẫn cùng cực trong nước Việt Nam và trong cả đảng Cộng sản của ông.
Trong nước, mâu thuẫn giai cấp đã trầm trọng. Những người dân thuộc giai cấp bị trị, bị bóc lột, bị đè nén từ bao năm qua, trước đổi mới và sau đổi mới, họ không thể cúi đầu khuất phục mãi mãi. Trong đảng cộng sản, các cán bộ nắm quyền chỉ lo giành nhau những đồng đô la thất đức, kèn cựa nhau từng đồng, hàng ngày. Những diễn viên trong các màn đấu đá như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Phùng Quang Thanh, cho tới những cuộc chạy trốn ngoạn mục của Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng, chỉ là cảnh nổi lên trên cho mọi người trông thấy. Bên trong đảng cộng sản còn hàng ngàn những cuộc đấu đá ngầm nằm dưới mặt nước, chỉ chờ ngày nổi lên, như tiếng súng Yên Bái cho thấy.
Đứng trước những mâu thuẫn nặng nề, giải pháp tốt nhất cho đảng Cộng sản và cho nước Việt Nam là “Minh bạch, Công khai!”. Khi tất cả các mâu thuẫn được phơi bày trước mắt mọi người, thì ai cũng có thể kết luận người nào đúng, người nào sai. Khi xã hội sống minh bạch, công khai, thì người ta có thể đòi một sống trong công bằng, bình an trong luật pháp.
Nhưng không ai hy vọng ông Nguyễn Phú Trọng sẽ chấp nhận minh bạch, công khai. Vì ông vừa mới bắt các cán bộ học tập Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII. Một điều quan trọng của nghị quyết này là cấm đoán mọi “sự phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật”. Họ vạch ra những hiện tượng “lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng;… thổi phồng mặt trái của xã hội;… bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của đảng”.
Tóm lại, đảng cộng sản muốn ngăn cấm tự do ngôn luận, tự do tư tưởng một cách tàn bạo hơn. Cứ như vậy, các mâu thuẫn sẽ tiếp tục được che đậy, chỉ chờ ngày bùng nổ!
Ông Karl Marx dưới mồ chắc phải khóc. Bọn học trò của ông từ Kim Jong Un, Tập Cận Bình đến Nguyễn Phú Trọng đều chống Mác xít!
N.N.D.
Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/nguyen-phu-trong-chong-mac-xit/


QUYỀN LỰC NHẤT THIẾT PHẢI ĐƯỢC KIỂM SOÁT
VŨ NGỌC HOÀNG/ TCCSDT/ĐCV/ BVB 3-1-2017
Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng
BVB- Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và khẳng định trong các nghị quyết rằng, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việc kiểm soát quyền lực vừa là giá trị nhân văn của một xã hội tiến bộ, phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước và xã hội, vừa là để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính, để có được một nhà nước bền vững, lâu dài, phục vụ nhân dân.Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng Khóa X, XI, nguyên Phó Trưởg ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, công bố nhiều bài viết rất đáng được chú ý. Trước Đại hội XII, ông là người ủng hộ rất đắc lực cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nếu xét theo những định nghĩa của Nghị quyết trung ương 4, khoá XII, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký và ban hành ngày 30/10/2016, thì ông Hoàng có các biểu hiện « tự diễn biến », « tự chuyển hoá ». ĐCV giới thiệu bài mới nhất của ông vừa đăng trên Tạp chí Cộng sản số ra ngày 28/12/2016 để bạn đọc tham khảo.
Quyền lực như “con ngựa” bất kham, ai không đủ nhân cách mà được giao cầm cương thì nó sẽ phá tung, gây đổ ngã và làm chết cả những người ngồi trên yên ngựa. Quyền lực là “con dao” hai lưỡi, có thể phục vụ cho đời và cũng có thể làm hại đất nước nếu rơi vào tay những kẻ bất tài, tham lam. Năm 2011, Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập, dù là mới thoáng qua, việc kiểm soát quyền lực. Rất tiếc là chủ trương đó chưa được triển khai thực hiện cụ thể. Trước và trong Đại hội XII, Tổng Bí thư của Đảng ít nhất đã hai lần nhấn mạnh phải kiểm soát quyền lực.
Câu hỏi trước tiên cần phải nói thêm là vì sao phải kiểm soát quyền lực? Nếu không kiểm soát quyền lực thì sẽ thế nào?
Quyền lực nhà nước vốn là của nhân dân, khởi đầu là thế, và mãi mãi cũng là thế; nó không phải của thần linh, không phải của bất kỳ cá nhân ai, của một gia đình trị hoặc một tộc họ nào; cũng không phải của bất kỳ một tổ chức nào khác. Từ lâu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được và đã nhiều lần khẳng định trong các nghị quyết rằng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân không trực tiếp nắm giữ tất cả, mà chỉ nắm giữ một số vấn đề then chốt (sẽ nói sau), còn lại là ủy quyền cho nhà nước quản lý và sử dụng quyền lực để bảo vệ và phục vụ nhân dân, kiến tạo một quốc gia phát triển.
Tuy nhiên, trong lịch sử đã từng có không ít trường hợp những người (hoặc nhóm người) bằng các thủ đoạn chính trị đã cướp đoạt quyền lực của nhân dân, biến nhân dân thành đối tượng bị cai trị; nhân dân sau khi ủy quyền thì mất quyền, còn người được ủy quyền thì dần dần bị quyền lực làm tha hóa, họ sử dụng quyền lực không phải để bảo vệ và phục vụ nhân dân như mục đích ban đầu, mà vì lợi ích của cá nhân, gia đình, dòng họ, của một nhóm người, họ quay lại ức hiếp nhân dân, biến nhân dân từ chủ nhân của quyền lực thành đối tượng bị chèn ép, bị ức hiếp, bị tước đoạt.
Ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào, quyền lực cũng luôn có hai mặt. Mặt tích cực, nó là công cụ hữu hiệu bậc nhất để tập hợp lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu như quyền lực ấy được trao cho những con người có nhân cách tốt. Mặt tiêu cực, nó luôn làm tha hóa những con người và bộ máy sử dụng quyền lực nhưng lại yếu kém về nhân cách và không có cơ chế tốt để kiểm soát quyền lực. Sự tha hóa như vậy có từ trong bản chất tự nhiên của con người và quyền lực. Có những người lúc đầu (khi chưa có quyền lực) thì tốt, nhưng khi đã có quyền lực trong tay thì dần dần trở nên hư hỏng, thành người xấu; thậm chí đến mức có thể phản bội nhân dân, bán rẻ Tổ quốc vì lợi ích thấp hèn của cá nhân. Cá biệt có những người thay đổi bản chất rất nhanh, chỉ sau một lần bỏ phiếu, họ gần như trở thành một người khác hẳn, từ dáng đi, cách nói, cách bắt tay,… đều tỏ ra vẻ “oai vệ” hơn, “bề trên” hơn. Khi người ta đến được đỉnh cao của “chiến thắng” trong quyền lực thì đấy là lúc người ta bắt đầu thua, mà trước tiên là thua chính mình. Trên đỉnh cao của quyền lực ít ai nhìn thấy tai họa ẩn chứa vốn có từ bên trong quyền lực ấy, nếu không phải là người lãnh đạo có nhân cách lớn, minh triết uyên thâm, có khả năng vượt qua chính mình và ma lực cám dỗ của quyền lực, để tịnh tâm nhìn xa trông rộng. Khi đã có trong tay tất cả thì đấy cũng là lúc tự mình bắt đầu đánh mất dần chính bản thân, tốt đẹp chân chính trước đó.
Việc kiểm soát quyền lực trước tiên là để bảo đảm cho quyền lực luôn thuộc về đúng chủ nhân của nó, tức là thuộc về nhân dân, được sử dụng đúng mục đích, không bị lợi dụng, lạm quyền. Khi quyền lực bị lạm dụng thì tất yếu sẽ làm tha hóa bộ máy cầm quyền, và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tha hóa đạo đức xã hội. Sự tha hóa quyền lực tất yếu sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị. Nếu sự tha hóa ấy không dừng lại và quyền lực không được lành mạnh hóa thì sụp đổ là không thể tránh khỏi. Sự sụp đổ ấy chính là tự đổ, nếu có yếu tố bên ngoài cũng chỉ là sự hà hơi tiếp sức mà thôi.
Đặc điểm chính trị quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) chân chính là quyền lực thật sự và luôn luôn thuộc về nhân dân. Chỉ khi ấy mới có một nền chính trị thật sự tốt đẹp và bền vững. Thực tế lịch sử nhân loại đã cho thấy: nhà nước của chủ nô, của vua chúa và các tập đoàn phong kiến, nhà nước của mô hình tập trung quyền lực vào một nhóm người bị tha hóa, biến chất, xa rời bản chất cách mạng, xa rời nhân dân và nhà nước của tài phiệt (tư bản hoang dã thời kỳ đầu) cuối cùng đều phải ngã đổ và kết thúc. Chỉ có nhà nước thật sự của nhân dân thì mới bền vững lâu dài, vì “dân là vạn đại”. Vì vậy, việc kiểm soát quyền lực vừa là giá trị nhân văn của một xã hội tiến bộ, phòng, chống sự tha hóa của nhà nước và xã hội, vừa là để thực hiện mục tiêu XHCN chân chính, để có được một nhà nước bền vững lâu dài phục vụ nhân dân.
Khi quyền lực không được kiểm soát thì mặt trái của nó chính là tác nhân quan trọng nhất làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực, rồi tha hóa cả bộ máy, làm cho bộ máy bị biến chất, không còn là nhà nước của nhân dân, mà dần dần thành nhà nước đi ngược lại lợi ích nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện nào, sự tha hóa quyền lực ở cán bộ và các cơ quan đều là nguyên nhân lớn nhất làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc bị mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ và quốc gia không thể hưng thịnh, không có đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu XHCN tốt đẹp mà nhiều người đã từng mong ước cũng trở nên xa vời.
Lịch sử nước ta đã từng có nhiều lần do tha hóa quyền lực mà dẫn đến mất nước. Hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bị sụp đổ vì tha hóa quyền lực. Triều đại sau được dân chúng ủng hộ lên thay, rồi cũng tha hóa tương tự, lặp lại như cũ. Ngay cả những triều đại đã một thời rất huy hoàng, có công lao to lớn bậc nhất với lịch sử dân tộc nhưng sau đó cũng tha hóa và sụp đổ (như nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê và Tây Sơn chẳng hạn).
Nhiều năm qua lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã rất nhiều lần đề ra chủ trương và kêu gọi phải chống tham nhũng, chống “lợi ích nhóm” tiêu cực, tập trung nhiều công sức để giải quyết công việc khó khăn và phức tạp này, nhưng kết quả vẫn còn rất hạn chế, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm” đang còn khá phổ biến và diễn biến phức tạp, gây nhức nhối, bất bình trong xã hội. Nó cứ lan rộng dần vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, của công việc quản lý và quản trị quốc gia, vào ngay trong các lĩnh vực mà trước nay thường được cho là trong sạch, thiêng liêng (như lĩnh vực dạy người, cứu người, an ninh quốc gia, nắm cán cân công lý để bảo vệ sự nghiêm minh, kể cả cơ quan ở cấp cao, cả lĩnh vực làm từ thiện, nhân đạo, chính sách “đền ơn đáp nghĩa”,…). Điều đó có nguyên nhân trực tiếp quan trọng nhất là quyền lực về cơ bản chưa được kiểm soát có hiệu quả, từ đó dẫn đến tình trạng tha hóa trong một bộ phận cán bộ và các tổ chức trong bộ máy lãnh đạo quản lý.
Câu hỏi tiếp theo là quyền lực cần được kiểm soát như thế nào, bằng cách nào?
Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Lời ấy không phải là hô khẩu hiệu, mà phải được thấm sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Mọi người phải ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng hành động thực tế. Tiếp theo, quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan về cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, trong đó có sự phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, nhằm hạn chế sai lầm hoặc khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.
Nói chung, các nhà nước phong kiến chưa giải quyết được việc kiểm soát quyền lực, mặc dù có lúc đã có một số quy định tiến bộ, manh nha của kiểm soát quyền lực. Luật lệ của triều đình có những quy định cấm các quan không được làm. Một số triều đại đã từng có các quan ngự sử ghi chép trung thực, khách quan mọi việc liên quan đến các quyết định và ứng xử của nhà vua, của triều đình để lịch sử đánh giá, phán xét công, tội. Vua cũng không được kiểm duyệt các ghi chép này. Có các gián quan để can gián vua không làm việc sai; có trống để thần dân kêu oan; có quan tòa liêm chính để phán xử đúng, sai… Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát quyền lực về cơ bản vẫn chưa được giải quyết. Nguyên nhân là do quyền lực tập trung vào tay vua và hoàng tộc, vua bảo chết thì phải chết, ý vua là ý trời, ý vua là pháp luật, còn nhân dân chỉ là đối tượng bị cai trị, không có quyền tự do, kể cả quyền sống, trái ý vua thì tùy theo mức độ và sự nóng giận của vua mà bị trị tội, kể cả tru di tam tộc. Thời kỳ đầu của chế độ tư bản cũng vậy, quyền lực tập trung vào tay những người giàu có và cũng không được kiểm soát. Khi chế độ tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, đã có những bước tiến quan trọng về dân chủ xã hội, cộng với sự phát triển của các hệ tư tưởng, nhất là lĩnh vực triết học, làm thay đổi nhận thức và tư duy chính trị, thì quyền lực mới được kiểm soát đáng kể, và ngày nay vẫn đang phải tiếp tục hoàn thiện.
Phương pháp tiếp cận của nước ta lâu nay đối với vấn đề này chưa phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp hầu như ít bị kiểm soát, và trên thực tế, việc lạm dụng quyền lực diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp. Chính nó đã tạo nên sự tha hóa đến độ rất phức tạp. Chúng ta không tiếp thu theo kiểu bê nguyên, rập khuôn máy móc mô hình “Tam quyền phân lập” của các nước phương Tây, vì mỗi quốc gia có đặc điểm văn hóa và ở giai đoạn phát triển khác nhau, nhưng riêng về vấn đề kiểm soát quyền lực trong đó thì rất nên nghiên cứu một cách thật nghiêm túc để kế thừa “hạt nhân hợp lý”. Đồng thời với việc phân công, phối hợp, kiểm soát một cách khoa học giữa ba nhánh nói trên, còn có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận ngay trong cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp.
Tiếp theo, kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của nhân dân; tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia làm chủ đất nước. Trong đó, cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các phong trào lành mạnh, hợp pháp, do nhân dân tự giác và tự nguyện lập ra nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xã hội. Nó là phương thức rất quan trọng để thực thi quyền dân chủ của nhân dân; nó đã từng tồn tại và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam truyền thống trước đây và trong xã hội Việt Nam hiện tại, tất nhiên là chưa hoàn chỉnh, chưa hiện đại.
Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình; có quyền phản đối những việc làm sai trái; có quyền yêu cầu cán bộ không đủ tư cách phải từ chức hoặc bị cách chức… Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời, giải trình, không được ngăn cản, cấm đoán nhân dân thể hiện chính kiến một cách ôn hòa. Khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc sai trái để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội. Ở đâu và khi nào mà công luận bị hạn chế, ngăn cản thì ở đó và lúc ấy cơ thể xã hội đang giảm sức đề kháng.
Trong một xã hội tiến bộ, việc minh bạch thông tin có vị trí rất quan trọng, mọi người dân đều có quyền tiếp cận thông tin, không ai được bưng bít thông tin, giống như “ánh sáng ban ngày” thay cho “đêm tối”, để cái xấu, cái ác không còn nơi ẩn nấp, phải lộ rõ nguyên hình. Lâu nay ở Việt Nam ta còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ, việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Chính sự chưa minh bạch này đã làm cho nhân dân nghi ngờ, giảm sút lòng tin. Nghi ngờ dung túng, bao che, cùng “lợi ích nhóm”. Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy cớ đó mà không minh bạch thông tin. Chính việc không minh bạch ấy đã làm hạn chế hiệu quả của cuộc chiến chống tham nhũng và “lợi ích nhóm”, nếu như không muốn nói rằng nó cản trở các công việc ấy. Một nhà nước của nhân dân, cớ sao không báo cáo đầy đủ cho nhân dân biết? Nếu lãnh đạo không có ai dính dáng gì tiêu cực trong đó thì tại sao lại sợ minh bạch? Muốn minh bạch thông tin thì lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải mở rộng hành lang hơn nữa cho tự do ngôn luận và báo chí, còn bản thân báo chí cũng phải dũng cảm, bản lĩnh và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nhà báo dám dấn thân cho lẽ phải và không để bị mua chuộc. Cũng có ý kiến lo ngại rằng, khi minh bạch thông tin về các vụ, việc thì nhân dân sẽ mất lòng tin hơn nữa. Không phải như vậy! Không minh bạch mới làm mất lòng tin. Ai cũng có quyền nghi ngờ cả. Và người lãnh đạo tốt cũng mang tiếng lây. Không dám minh bạch vì sợ mất lòng tin thì đó là thứ lòng tin bị đánh lừa, lòng tin nhầm lẫn.
Văn học nghệ thuật cũng cần phải tích cực tham gia “trừ gian” để góp phần “tải đạo” theo các giá trị nhân bản và phương pháp nghệ thuật phù hợp. Để thực thi dân chủ, việc đầu tiên là thật sự tạo điều kiện cho nhân dân được bày tỏ ý kiến. Đồng thời phải chống loạn ngôn, chống vu cáo và xúc phạm các cá nhân và tổ chức, vi phạm tự do của người khác, kể cả nhân dân và người lãnh đạo.
Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh những mặt làm được, nhìn chung trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng được nhiều nhân tài. Lịch sử nước ta đã nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy. Trong kháng chiến chống ngoại xâm, với sức mạnh thiêng liêng của hồn nước, nhân tài tụ về dưới cờ nghĩa để chiến đấu vì mẹ hiền Tổ quốc. Đến khi hòa bình thì nhân tài, trung thần thưa vắng dần, còn nịnh thần thì chui vào ngày càng nhiều trong triều chính, dẫn đến tha hóa quyền lực và sụp đổ. Cách làm công tác cán bộ chủ yếu là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của người lãnh đạo. Không ít trường hợp sắp xếp cán bộ theo quan hệ, hậu duệ, “lợi ích nhóm”, bị đồng tiền chi phối; đề bạt con cháu và những người “ăn cánh”. Từ xưa tới nay, chế độ và triều đại nào cũng vậy, nạn “mua quan, bán chức” là một trong các biểu hiện tha hóa quyền lực nguy hại nhất. Ở Việt Nam, nhiều năm rồi nạn “chạy chức”, “chạy quyền” đã trở nên khá phổ biến, có những trường hợp cứ như là đương nhiên, rất đáng lo ngại, kể cả ở những lĩnh vực hệ trọng. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, bởi còn ảnh hưởng nặng nề tàn dư của tư tưởng phong kiến và những năm gần đây lại cộng với mặt trái của cơ chế thị trường và sự tha hóa quyền lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản công tác cán bộ theo hướng cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử trong môi trường thật sự tôn trọng ứng cử tự do và đề cử, chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và nghiêm túc, khách quan, vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Đó cũng là cách để nhân dân và đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, lựa chọn những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân chính và xứng đáng của nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân. Khi các đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp đã được nhân dân bầu chọn thì phải toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, lắng nghe nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân, biểu quyết vì nhân dân. Tiến tới công khai cho nhân dân biết các đại biểu ấy biểu quyết thế nào đối với những công việc mà nhân dân bức xúc, quan tâm, để giám sát sự trung thành với nhân dân. Nếu các đại biểu ấy là đảng viên thì càng phải gương mẫu thực hiện ý dân, coi lòng dân là cơ sở quan trọng nhất để hành động – đó là nguyên tắc cao nhất. Tổ chức đảng đã giao cho đảng viên nhiệm vụ làm đại biểu chân chính của nhân dân, đảng viên cứ thế mà hành động; tổ chức đảng không “cầm tay, chỉ việc”. Trung thành với nguyện vọng của nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân – đó chính là nhân cách và ý thức đảng viên chân chính. Đảng vì nhân dân mà hành động chứ không vì mục đích khác, không để cho “nhóm lợi ích” chi phối và thao túng.
Lâu nay không ít trường hợp cấp ủy đảng đã sử dụng biện pháp hành chính và quyền lực, thậm chí đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trên thực chất. Với cách này, nếu kéo dài thì tổ chức đảng sẽ bị quyền lực làm tha hóa, vừa hạn chế công việc lãnh đạo đất nước, vừa làm suy yếu bản thân tổ chức đảng. Cần đổi mới một cách căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng không làm thay, không chồng chéo với công việc của Nhà nước, nhất là việc sử dụng quyền lực nhà nước, mà chuyển mạnh sang lãnh đạo chủ yếu bằng các giá trị văn hóa, từ chủ trương hợp lòng dân đến noi gương và thuyết phục, không áp đặt một chiều bằng biện pháp tổ chức, hành chính và quyền lực, Đảng phải đại diện chân chính và xứng đáng nhất cho ngọn cờ dân chủ; phát hiện và chọn lựa cho được các hiền tài để giới thiệu với nhân dân. Đó cũng là cách làm truyền thống mà trước đây, trong điều kiện chưa cầm quyền và trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc, Đảng đã từng sử dụng để trở thành một Đảng lãnh đạo của nhân dân. Bản thân trong tổ chức của Đảng cũng cần phải có cơ quan do đại hội cử ra để giám sát cán bộ lãnh đạo về nhân cách và việc sử dụng quyền lực, trong quá trình lãnh đạo và kiểm soát quyền lực, cần thực hành dân chủ rộng rãi và phát huy vai trò của nhân dân để tham gia xây dựng bảo đảm cho Nhà nước ta thật sự là nhà nước của nhân dân – là mục tiêu xây dựng Nhà nước mà Đảng nói lâu nay./.
Vũ Ngọc Hoàng/(Đàn Chim Việt)

'TỰ DIỄN BIẾN', 'TỰ CHUYỂN HÓA'-NHẬN DIỆN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG
TRANG Á LÂM/ QPTD 19/12/2016
Toàn cảnh Hội nghị cán bộ toàn quốc phổ biến, quán triệt Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngày 09-12-2016. (Ảnh: TTXVN)

Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước ta. Điều đáng quan ngại là nó diễn ra ngấm ngầm rất khó nhân diện. Vì thế, cần phải cảnh giác, có biện pháp phòng, chống hiệu quả.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó”; “chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác, hình thái khác”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên từ thái cực này sang thái cực khác mà hậu quả nó gây ra hết sức nguy hiểm, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến chuyển hóa chế độ.
Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam, v.v. Tất cả những biểu hiện đó, là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguy hại hơn là trong số những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả một số vị là lão thành cách mạng, cán bộ cấp cao, trí thức có tên tuổi, ít nhiều có cống hiến cho đất nước, cho nên những nhận thức và hành động của họ dễ lây lan, phát tán là điều dễ hiểu.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phân hóa giàu nghèo, … dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, v.v. Khi bị phát giác, xử lý kỷ luật thì bảo thủ, không những không nhận ra sai lầm, khuyết điểm mà lại bất mãn, suy diễn, dẫn đến thay đổi nhận thức, quan điểm, lập trường, thiếu niềm tin vào Đảng, chế độ. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị dẫn tới sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng, chính trị. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chặt chẽ và chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội, hệ thống thông tin đại chúng và tác động của mặt trái cơ chế thị trường, … ngày một gia tăng đã làm nghiêm trọng thêm sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
 Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng nguy hiểm hơn trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau và là hệ quả của nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “đồng minh” tự nhiên của “diễn biến hòa bình”, làm cho nó càng nguy hiểm hơn; đến lượt nó - “diễn biến hòa bình” lại tác động trở lại thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ. Nó có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội; nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên, quần chúng đến những người có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp.
với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mới đây, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Điều đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đồng thời, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hếtcần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là giải pháp hết sức quan trọng. Trước mắt, cần làm cho mọi người nhận thức được những biểu hiện của nó đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra; tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành; thấy được việc phòng, chống sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh hết sức cam go, phức tạp diễn ra ngay trong nội bộ, giữa ta với ta, v.v. Đồng thời, làm rõ sự nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nếu như không phòng, chống, đấu tranh kịp thời, kiên quyết. Trên cơ sở nhận thức đúng, đề cao quyết tâm, ý thức trách nhiệm, dám nói, dám làm, dám đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nâng cao khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng trước sự tác động chuyển hóa, cùng những tiêu cực trong đời sống xã hội. Việc giáo dục nâng cao nhận thức phải đi đôi với khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, không thể hiện rõ lập trường, quan điểm trước những hành vi tiêu cực, hoặc thờ ơ, không dám đấu tranh với sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.
Hai làphải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu tranh, khắc phục. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, trách nhiệm năng lực tốt và động cơ phấn đấu đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên, bảo đảm rõ từng nội dung, hình thức, bước đi, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, tránh dàn trải, v.v.
Ba làđẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục. Bởi thế, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới phong cách làm việc, sâu sát cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn làphát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, cần tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, in-tơ-nét và các trang mạng xã hội; chủ động định hướng, cung cấp thông tin kịp thời. Chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đi đôi với khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; cần xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái.
Nhận diện đúng, đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra đối với Đảng và chế độ ta. Làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch./.
TRÁNG A LÂM



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét