Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020

20200207. BÀN VỀ 'HIỆN ĐẠI HOÁ' ĐẢNG CSVN

ĐIỂM BÁO MẠNG
HIỆN ĐẠI HOÁ ĐỂ ĐẢM NHIỆM VAI TRÒ THỐNG LĨNH CỦA ĐẢNG

NGUYỄN VĂN ĐÁNG/TVN 4-2-2020

Thành công trong quá khứ 
Các đảng chính trị là một dạng thức thể chế chính trị hiện đại, xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20. Khác với đảng chính trị tại các nước phương Tây vốn vận hành như một khung khổ thể chế nền tảng cho việc đại diện và phân bổ lợi ích giữa các nhóm xã hội, sự hình thành đảng chính trị ở Việt Nam, tiêu biểu là Đảng Cộng sản Việt Nam, trước hết đáp ứng nhu cầu giải phóng dân tộc. 
Vì thế, hai chức năng nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đầu là vận động chính trị và tập hợp số đông quần chúng cho mục đích cao nhất là giành lại độc lập dân tộc. Sức hấp dẫn của Đảng Cộng sản còn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Marx – Lenin, vốn đáp ứng đúng mong đợi của số đông dân chúng lầm than trong một xã hội thực dân nửa phong kiến, đặc trưng bởi sự bất bình đẳng xã hội cao độ. Kỷ luật Đảng nghiêm khắc, tuyển dụng thành viên chặt chẽ, đề cao sự trung thành với tổ chức và tinh thần cống hiến trọn vẹn cho Đảng, cho đất nước … là những yếu tố tạo nên sức mạnh vượt trội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng. 
Hiện đại hóa để đảm nhiệm vai trò thống lĩnh của Đảng
Hiện đại hóa để đảm nhiệm vai trò thống lĩnh của Đảng là một nhu cầu thực tế khách quan.
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành hạt nhân quyền lực của hệ thống chính trị, đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cả nhà nước và xã hội. Hệ thống Đảng được tích hợp với các thể chế nhà nước, để trở thành một cấu trúc Đảng – Nhà nước, thực thi chức năng quản trị xã hội.
Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986 đến nay, vai trò then chốt của Đảng cầm quyền không chỉ thể hiện qua chức năng hoạch định chủ trương, đường lối; tuyển dụng và đào tạo cán bộ cho nhà nước, mà còn thể hiện ở vai trò quy tụ quần chúng nhân dân cũng như các lực lượng xã hội ngày càng đa dạng. 
Biến đổi xã hội và thách thức lãnh đạo 
Tiến trình đổi mới phương thức quản lý kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng những tiến bộ khoa học công nghệ cũng tạo ra những thách thức mới cho Đảng cầm quyền. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu dẫn đến sự đa dạng lợi ích giữa các nhóm xã hội. Quá trình tham gia tích cực vào các thể chế quốc tế đặt ra nhu cầu cải cách sâu rộng hệ thống thể chế chính trị - pháp lý trong nước. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng internet thúc đẩy tự do thông tin đã làm bộc lộ ra những hạn chế về phương thức tuyên truyền, vận động truyền thống. Cùng với đó, sự chưa thành công trong một số chủ trương, chính sách trọng điểm cũng như tình trạng tham nhũng của một bộ phận đảng viên đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo – quản lý từ địa phương tới trung ương, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín chính trị của Đảng. 
Bối cảnh nêu trên đã đặt ra nhu cầu bức thiết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những năm vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản theo hướng siết chặt kỷ luật tổ chức, kiểm soát quyền lực, đề cao đạo đức, thúc đẩy chống tham nhũng … nhằm nâng cao uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. Những điều chỉnh mạnh mẽ về thể chế Đảng nhằm giữ vững và bảo đảm bản chất cốt lõi của Đảng cầm quyền: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động của Đảng”. 
Những thành công lãnh đạo trong chín thập kỷ vừa qua của Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết là do Đảng đã nắm bắt đúng nhu cầu và nguyện vọng của số đông dân chúng ở mỗi thời kỳ. Đó là nhu cầu độc lập, tự do cho dân tộc; thống nhất đất nước; hay đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng bị cô lập và nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Cùng với đội ngũ đảng viên chất lượng, sự ủng hộ của nhân dân, những thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dựa trên tinh thần và thái độ cống hiến của những cá nhân lãnh đạo nổi trội, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh; các lãnh đạo như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…trong kháng chiến chống Pháp; Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh… trong kháng chiến chống Mỹ; Trường Chinh, Nguyên Văn Linh trong thời kỳ đổi mới; hay vai trò nổi bật của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong nỗ lực chống tham nhũng và xây dựng Đảng hiện nay. 
Xu hướng hiện đại hóa các Đảng thống lĩnh ở Đông Á 
Dù khác nhau về hệ thống chính trị, một điểm chung giữa nhiều quốc gia Đông Á đạt được sự phát triển vượt bậc từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay là đều được lãnh đạo bởi một đảng chính trị thống lĩnh. Tiêu biểu như Đảng Dân chủ Tự do (LDP) ở Nhật Bản; Đảng Nhân dân Hành động (PAP) ở Singapore; Quốc dân Đảng (KMT) ở Đài Loan; hay Đảng Cộng sản ở Trung Quốc. Một đặc điểm then chốt của các đảng chính trị thống lĩnh là đều đề cao chức năng tập hợp quần chúng từ mọi thành phần xã hội, không phân biệt giai cấp hay tầng lớp. Với đội ngũ đảng viên, hệ thống tổ chức cơ sở đảng và các mạng lưới xã hội, các đảng chính trị thống lĩnh hướng đến quy tụ mọi cá nhân và nhóm xã hội vào trật tự chính trị mà họ đang lãnh đạo. 
Tuy nhiên, những biến đổi chính trị - xã hội đã đặt ra nhiều thách thức cho các đảng chính trị tại các quốc gia nêu trên. Để bảo đảm và duy trì được vị trí thống lĩnh trong hệ thống chính trị quốc gia, các đảng chính trị đều phải tiến hành đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Tại Nhật Bản, những điều chỉnh thế chế giúp đảng “Dân chủ tự do - LDP” hạn chế tình trạng phân nhóm, địa phương chủ nghĩa, cũng như ảnh hưởng của tài chính doanh nghiệp đến chính trị. Thay vì tập hợp sự ủng hộ từ mọi nhóm xã hội, đảng LDP chuyển hướng sang thu hút phiếu bầu từ các nhóm cử tri không xung đột nhau về lợi ích.
Tương tự, tại Đài Loan, Quốc dân Đảng cũng ngày càng hiện đại hơn khi hướng đến giành phiếu bầu từ các nhóm cử tri trọng điểm. Tại Singapore, các thể chế bầu cử được điều chỉnh nhằm bảo đảm tính đại diện cho các nhóm xã hội thiểu số, qua đó củng cố thêm cho tính chính danh chính trị và vai trò thống lĩnh của đảng PAP. Tại Trung Quốc, năm 2002, thể chế Đảng đã được điều chỉnh để Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố đại diện cho mọi lực lượng xã hội tiến bộ. Yếu tố tư tưởng nền tảng đã được thảo luận theo hướng cởi mở hơn để Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể kết nạp cả những nhà tư bản. 
Nhu cầu hiện đại hóa đảng cầm quyền ở Việt Nam 
Một khía cạnh đặc trưng của tiến trình đổi mới hay hiện đại hóa các đảng chính trị thống lĩnh tại các quốc gia Đông Á chính là quá trình “duy lý hóa”. Về tính chất đại diện, để thích ứng với các điều kiện mới, các đảng chính trị phải điều chỉnh để có thể thiết lập được mối liên hệ vững chắc hơn với các lực lượng xã hội, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của các lợi ích đa dạng trong xã hội. Về phương thức lãnh đạo, các nguyên tắc thể chế hiện đại, duy lý và khoa học, dần thay thế ảnh hưởng và vai trò của các giá trị cũng như địa vị truyền thống hay vai trò cá nhân lãnh đạo. Các quyết định của đảng cầm quyền tích hợp rộng hơn ý kiến của đảng viên cũng như công chúng nói chung. Như nhà xã hội học Max Weber đã chỉ ra, thì “duy lý hóa” là quá trình các tổ chức và quy trình chính trị hiện đại được tri thức hóa, phi cá nhân và bị kiểm soát chặt chẽ. 
Vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt chín thập kỷ vừa qua là một thực tế lịch sử đã được khẳng định. Tuy nhiên, trước tình hình mới, các văn kiện Đảng gần đây luôn nhấn mạnh nhu cầu đổi mới để Đảng có thể đại diện cho không chỉ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, mà còn là lợi ích của cả dân tộc. Xét vị thế và vai trò chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều nét tương đồng với các đảng chính trị thống lĩnh tại các quốc gia khu vực Đông Á. Trong khi đó, “duy lý hóa” các tổ chức kinh tế - chính trị là một xu thế làm nên đặc trưng của xã hội hiện đại. 
Để theo kịp tiến trình vận động xã hội cũng như thực hiện tốt sứ mệnh lãnh đạo đất nước, đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân, công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới cần nhấn mạnh yêu cầu “duy lý hóa” cả về tổ chức, tuyển chọn và đào tạo nhân sự, ra quyết định, cũng như công tác lý luận và tuyên truyền vận động. “Duy lý hóa’ chính là tiến trình hiện đại hóa Đảng cầm quyền, qua đó bảo đảm Đảng có thể tiếp tục đảm nhiệm thành công vai trò thống lĩnh trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 
TS. Nguyễn Văn Đáng
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 
Ghi chú: Bài viết thể hiện quan điểm của cá nhân tác giả; không nhất thiết phản ánh quan điểm của cơ quan công tác hay tổ chức mà tác giả là thành viên.


ÁP ĐẶT 'TINH HOA' CỦA ĐẢNG HAY BẦU ĐẠI DIỆN CỦA DÂN ?

VÕ VĂN QUẢN/ LK/ BVN 6-2-2020


https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/02/hoi-nghi-tu-8_mmjl.jpg
Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 10/2018. Ảnh: Gia Hân/Thanh Niên.
Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng Quy định 214, đang nói với dân chúng rằng dân chúng không đủ “sáng suốt” để bầu ra người lãnh đạo đất nước và hãy chấp nhận những “tinh hoa chính trị” mà đảng cử ra.
Ngày 02/02/2002, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức công bố Quy định 214 về Khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (“Quy định 214”). Theo đó, Bộ Chính trị sửa đổi, đồng thời  bổ sung những quy định cụ thể về phẩm chất và năng lực cần có của các chức danh quan trọng trong nội bộ Đảng.
Hiểu đơn giản, Quy định 214 giống như một bảng mô tả công việc và yêu cầu vị trí mà chúng ta thường thấy được đăng tải trong các thông tin tuyển dụng. Như đối với Ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quy định 214 yêu cầu “cần phải là người tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng”. Còn nếu là thành viên của Bộ Chính trị và Ban Bí thư thì phải là “ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh”.
Song sẽ không có gì đáng nói nếu Quy định 214 không đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội, vốn là những vị trí nhà nước, về mặt lý thuyết không phải là các vị trí mang tính Đảng, và vì vậy nằm ngoài tầm ảnh hưởng của nội bộ Đảng. Theo đó, vị trí Chủ tịch nước được quy định phải là người có “uy tín cao”, là “trung tâm đoàn kết”, có tài năng “nổi trội, toàn diện”; còn Thủ tướng Chính phủ, thì phải “nổi trội toàn diện … trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; tư duy nhạy bén, năng động, quyết đoán…”.v.v. Tất thảy đều là những lời có cánh cho một kiếp người.
Hiển nhiên, có thể hiểu rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang tự đề ra những tiêu chuẩn để các thành viên của mình xem xét để có cơ sở mà ứng cử, giới thiệu và bình bầu, lựa chọn người “xứng đáng” cho kỳ bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp vào năm 2021 tới đây. Tuy vậy, với cơ chế bầu cử ở nước ta, hoàn toàn có thể hiểu Quy định 214 của Đảng sẽ quyết định các chức danh lãnh đạo trong nhà nước Việt Nam, nhưng lại được một nhóm vỏn vẹn 17 người trong Bộ Chính trị nghị sự và tự quyết với nhau.
Vậy những quy định đẹp đẽ ở trên có đủ để thay thế bởi phiếu bầu phổ thông và công khai từ phía người dân? Hay chúng ta có thể cho rằng giới bình dân Việt Nam quá kém hiểu biết nên phải trao thẩm quyền cho một tầng lớp tinh hoa (như Đảng Cộng sản) lựa chọn người lãnh đạo?
Một cuộc họp của Bộ Chính trị - Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 5/2019. Ảnh: TTXVN.
Một cuộc họp của Bộ Chính trị – Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 5/2019. Ảnh: TTXVN.
Chính trị tinh hoa
Tồn tại một lập luận và phép biện minh cho cơ chế bầu chọn lãnh đạo của Đảng Cộng sản rằng dân chúng Việt Nam có dân trí thấp, dễ bị kích động, không phù hợp để tiến hành bầu cử dân chủ. Vậy nên tốt hơn cả là để cho một thiểu số tinh hoa chọn ra người lãnh đạo, và thiểu số tinh hoa đó hiện nay đang được cho là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cũng không phải chỉ ở nước ta mới có kiểu lập luận như vậy. Các học thuyết về kỹ trị (technocracy – hệ thống cho rằng chỉ có các chuyên gia mới có đủ thẩm quyền lãnh đạo và kiến thức để đưa ra các quyết định chính sách) và tri dân chủ (epistocracy – một hệ thống cho rằng chỉ những công dân có “phẩm chất” mới có đủ thông tin và thẩm quyền chính trị để tham gia ứng cử và bầu cử) thật ra không phải là những phát kiến mới mẻ.
Triết gia lừng danh thế kỷ 19 John Stuart Mill từng ủng hộ một hệ thống bầu cử dựa trên giai tầng và công việc chuyên môn của cử tri. Cử tri là chuyên gia và những ngành nghề đòi hỏi kiến thức, kỹ năng phức tạp sẽ có sáu phiếu bầu, nông dân và thương gia có ba hoặc bốn phiếu, lao động có tay nghề nắm hai phiếu và lao động phổ thông nắm một phiếu.
Hay gần đây, Jason Brennan với tác phẩm Against Democracy cũng khuyến khích một môi trường chính trị nơi mà chỉ có những công dân có phẩm chất, có kiến thức mới nên được phép bầu cử hay ứng cử. Ông viết rằng hầu hết các câu hỏi chính trị trong đời sống đương đại hiện nay đã trở nên quá phức tạp để cho các cử tri thông thường có thể hiểu, họ quá ưa thích những câu trả lời đơn giản cho những câu hỏi phức tạp. Tệ hơn nữa, không chỉ họ không biết, mà thậm chí các cử tri này nghĩ rằng mình biết rõ và biết đúng. Điều này khiến cho hầu hết các quyết định chính trị của cử tri vừa thiếu hiểu biết, vừa ngờ nghệch. Brennan không đề xuất mô hình phiếu bầu dựa trên bằng cấp và trình độ như Mill, mà đề xuất một bài kiểm tra năng lực chính trị thực tế của cử tri trước khi cho phép họ bầu cử.
Cơ chế bầu cử của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật và định hướng của hai học thuyết kỹ trị và tri dân chủ nói trên:
Các đảng viên được xem là những công dân có “phẩm chất” để thực hiện những quyết định đầu tiên về bộ máy nhân sự nhà nước, thông qua động tác bình bầu trong nội bộ Đảng tạo lập nên những ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Rồi những ủy viên Trung ương Đảng, những công dân có phẩm chất bậc cao này, lại tiếp tục chọn nên những thành viên “ưu tú” để ngồi vào ghế Bộ Chính trị và Ban Bí thư, đồng thời cũng được “quán triệt” trở thành những nhà lãnh đạo nhà nước, bất kể kết quả bầu cử phổ thông địa phương.
Trong khi đó, Bộ Chính trị, với tư cách là những nhà kỹ trị bậc thầy, tự mình định ra những quy chuẩn cần có đối với lớp lãnh đạo kế nhiệm, rồi cũng tự mình giới thiệu, đề bạt nhân sự vào bộ máy lãnh đạo trong tương lai.
Đúng là một sân chơi của những anh tài.
Khiếm khuyết của các cuộc bầu cử dân chủ
Các cuộc bầu cử dân chủ rõ là không làm hài lòng hết tất cả mọi người, nếu không muốn nói là chúng đang khiến nhiều người thất vọng.
Tổng thống Mỹ Donald Trump là một ví dụ.
Ông Donald Trump và phu nhân đi bầu vào tháng 11/2016. Ảnh: Getty Images.
Ông Donald Trump và phu nhân đi bầu vào tháng 11/2016. Ảnh: Getty Images.
Trong quá trình bầu cử nội bộ đảng (primary election) để chọn ra ứng cử viên đại diện cho Đảng Cộng hòa để đối đầu với ứng cử viên từ Đảng Dân chủ hay các đảng phái độc lập khác trong cuộc bầu cử tổng thống chính thức năm 2016, có đến 50 đảng viên kỳ cựu của đảng này viết thư công khai phản đối việc tiếp tục để Donald Trump tham gia hoặc bỏ phiếu cho ông này.
Cụ thể, tướng Michael Hayden (tướng bốn sao, nguyên Giám đốc CIA và NSA) cho rằng Trump không có đúng khí chất, tính cách, sự kiên nhẫn, văn minh, kiến thức, hay thậm chí là sự tò mò, ham học hỏi… những tố chất cần có để xứng đáng với chức danh tổng thống. Với ngôn ngữ tương tự, David French, một cây bút quen thuộc của Dispatch và Times, chưa hề giấu giếm rằng mình thuộc phong trào “Chống – Trump”, khẳng định mạnh mẽ rằng tính cách chính là định mệnh của một người. Khí chất, kiến thức và sự chính trực của một người sẽ định hình hành vi của anh ta. Chúng ta có thể hy vọng rằng sức nặng của thể chế dân chủ và vai trò của các cố vấn chuyên môn sẽ định hình và kiểm soát một vị tổng thống có quá nhiều thiếu sót, song những sai lầm vẫn sẽ bùng phát, đặc biệt đối với một kẻ cứng đầu như Trump.
Nhưng đến cuối cùng, với chiến thắng trong cuộc bầu cử 2016, ông này vẫn cho thấy mình được một bộ phận không nhỏ cử tri Hoa Kỳ đón nhận, bất kể bao nhiêu lời thị phi rằng mình không “xứng đáng” hay không đủ “phẩm chất”. Không chỉ vậy, giữa tâm bão bị luận tội, tỉ lệ ủng hộ Trump không chỉ ổn định, mà còn tăng mạnh.
Người viết sẽ không đi vào quá sâu việc bình luận về Trump, bởi việc đánh giá ông này vẫn còn rất nhiều tranh cãi, kể cả giữa người Việt Nam với nhau. Nhưng có một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra: người dân bầu chọn cho những người được xem là không xứng đáng.
Một nghiên cứu khá chi tiết của Pew Research về quan điểm của cử tri về chất lượng ứng cử viên cho các vị trí dân cử của Hoa Kỳ cho thấy họ không đánh giá cao phẩm chất và năng lực của những ứng cử viên. Chỉ có 47% cho rằng chất lượng của các ứng cử là tốt, và thậm chí chưa tới 5% đánh giá phẩm chất, năng lực của các ứng cử viên là rất tốt. 52% còn lại đều có cái nhìn tiêu cực. Riêng về vị trí tổng thống, đến 58% khẳng định họ không hài lòng với những lựa chọn ứng cử viên mà họ có.
ajorities in many countries are dissatisfied with their democracy
Không chỉ vậy, cũng theo Pew, dân chúng tại 12 quốc gia dân chủ điển hình đại diện cho hầu hết các đại lục đều không hài lòng với cách mà nền dân chủ quốc gia họ đang vận hành. Danh sách này bao gồm cả những quốc gia dân chủ cấp tiến có máu mặt suốt hàng thế kỷ như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh hay Nhật Bản. Đồng biến với hàm này, quan điểm của người dân các quốc gia này dành cho những quan chức do chính họ bầu chọn cũng không phải là cao. Nếu tại Hy Lạp, có đến 90% dân số tin rằng những chức danh dân cử không quan tâm gì đến ý chí, quan điểm và nguyện vọng của một người bình dân; cũng hơn 58% dân số Hoa Kỳ chia sẻ ý kiến này. Thậm chí, dù các chỉ số về minh bạch và xử lý tham nhũng tại Hoa Kỳ luôn được đánh giá khả quan bởi các tổ chức độc lập, có đến 69% người tham gia khảo sát đồng tình với quan điểm các chính trị gia nước này đều tham nhũng và suy đồi…
Với những con số rõ như ban ngày như vậy, và thực tế rằng ở các quốc gia châu Phi, nơi mà những cuộc bầu cử dân chủ đang bị biến thành cuộc chơi chi tiền và lèo lái một đám đông thiếu thông tin, điều gì còn khiến cho thế giới vẫn duy trì cơ chế bầu cử dựa trên phổ thông đầu phiếu như thế? Tại sao cả thế giới vẫn chưa từ bỏ chúng để tiến đến việc giao quyền chính trị cho một bộ phận tinh hoa, có hiểu biết, có học thức, và quan trọng nhất là có “phẩm chất lãnh đạo”, những người rõ ràng ở vị thế tốt hơn để lãnh đạo và lèo lái đất nước?
Bầu cử phổ thông vẫn là giải pháp tốt nhất
Sẽ có nhiều điều để bàn về cái hay và cái dở giữa những người “được bầu” và những người có “phẩm chất” lãnh đạo; song ngộ nhận trước tiên của những người phản đối bầu cử phổ thông mà người viết thấy cần chỉ ra, là họ cho rằng đại đa số quần chúng sẽ chọn sai người, nhưng cùng lúc đó tin tưởng một giai tầng “tinh hoa” bé nhỏ lại chọn ra đúng người phục vụ lợi ích đại chúng mà không chịu ảnh hưởng từ các nhóm lợi ích, ưu tiên cá nhân hay các yếu tố “hậu cung” khác. Một niềm tin hoàn toàn vô căn cứ.
Vì sao, theo mô hình phân chia giai cấp như của Mill, một luật sư lại nên có số phiếu gấp ba lần số phiếu của một công nhân có tay nghề, trong khi chính trị và các vấn đề an sinh thật ra chỉ là một phần chuyên biệt rất nhỏ trong các chuyên ngành luật, vốn không phải luật sư nào cũng đủ hiểu biết để bàn về nó, chưa nói đến là đúng hay sai? Đến cuối cùng, bản thân Mill cũng nhận thấy ông cần xây dựng một hệ thống phản ánh đầy đủ các quan điểm trong xã hội, và ý tưởng về một nội các chỉ toàn các nhà kinh tế học khiến ông phải hãi hùng.
Còn mô hình kiểm tra năng lực cử tri của Jason Brennan, như nhận định của giáo sư chính trị David Runciman của trường Đại học Cambridge, chỉ đang đẩy câu hỏi của mình về điểm bắt đầu và không trả lời thêm được bất kỳ điều gì. Ai sẽ được cho là đủ năng lực để soạn bài kiểm tra?
Các giáo sư đại học? Bản thân họ cũng có những lợi ích và quan điểm chính trị riêng.
Các nhà kinh tế học? Họ có thể thao thao bất tuyệt về hàng loạt những quy luật thị trường, nhưng ít khi thấy họ đoán đúng điều gì về tương lai của thị trường.
Và Brennan, với tư cách là một giảng viên đại học, có lẽ cũng đã từng thấy sinh viên nhồi nhét kiến thức để vượt qua các kỳ thi, thời điểm mà bản thân họ cũng đã hình thành nên những định kiến và điểm mù của riêng mình.
Những người ủng hộ mô hình “tri dân chủ” cũng phải đối mặt với sự thật rằng giới có học thức, giới tinh hoa gì đấy thật ra cũng chịu ảnh hưởng của đám đông và thiên kiến nhóm tương tự như mọi thành phần khác trong xã hội, mà đôi khi còn hơn thế. Như hai nhà khoa học Larry Bartels và Christopher Achen từng chỉ ra: Lịch sử cho thấy những nhóm trí thức, dù tinh hoa hay không, đều có thể bị lệch lạc về đạo đức chính trị và tư duy chính trị như bất kỳ ai khác.
Người viết nhìn thấy được những khuyết điểm và vấn đề của mô hình dân chủ đại diện và bầu cử hiện đại ngày nay, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc nó là một mô hình tồi, xét theo cả hiệu quả cuối cùng lẫn công bình xã hội. Như trong hôn nhân, ai cũng có thể chọn sai bạn đời, tương tự như cách mà chúng ta bầu sai người. Song với thể chế dân chủ, người ta vẫn còn những cơ chế kiểm soát, vẫn có thể bầu lại, giống như cách chúng ta có thể ly dị và cưới lại. Còn khi mà quyền quyết định của người dân bị tước đoạt trong những cuộc hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, mọi thứ câu từ hoa mỹ sơn son thiếp vàng như “năng lực”, “phẩm chất”, “tinh hoa”, “kỹ trị” hay “tri dân chủ” đều chỉ là những phép biện minh vụng về mà thôi.
V.V.Q.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét