Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018

20180908. PHẢN ỨNG VỀ QUY ĐỊNH CHO PHÉP SỬ DỤNG NHÂN DÂN TỀ Ở VIỆT NAM

ĐIỂM BÁO MẠNG
TUYÊN BỐ VỀ QUY ĐỊNH CHO PHÉP SỬ DỤNG NHÂN DÂN TỆ

CÁ NHÂN VÀ TỔ CHỨC DÂN SỰ/ BVN 7-9-2018


Ngày 12-9-2016 tại Bắc Kinh, Hiệp định thương mại biên giới giữa Chính phủ VN và Chính phủ Trung Quốc, do các Bộ trưởng bộ Công Thương Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Thương Mại Cao Hồ Thành ký, trong đó Điều 8 quy định thanh toán bằng đồng Việt Nam (VND) hay Nhân dân tệ Trung Quốc (CNY) hay ngoại tệ chuyển đổi cho thương mại biên giới Việt-Trung.
Ngày 28/8/2018, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hoá Điều 8 của Hiệp định trên bằng Thông tư số 19/2018/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam-Trung Quốc (sau đây gọi tắt là Thông tư 19), theo đó kể từ ngày Thông tư 19 có hiệu lực thi hành (tức ngày 12/10/2018), thương nhân và cư dân Việt Nam có hoạt động thương mại ở hai bên biên giới Việt Nam-Trung Quốc (kéo dài trên 1450 km) được sử dụng ngoại tệ tự do chuyển đổi, đồng Việt Nam (VND) hoặc Nhân dân tệ (CNY), trong thanh toán bằng tiền mặt và qua ngân hàng.
Khái niệm thương nhân không được định nghĩa trong Thông tư này. Thương nhân có thể là các pháp nhân (công ty, tổ chức thương mại có đăng ký) nhưng cũng có thể là dân cư thường đi chợ biên giới mua sắm đồ. Khái niệm khá tù mù về "thương nhân" và cư dân Việt Nam “có hoạt động thương mại” cũng như việc cho phép dùng tiền mặt sẽ có những hệ quả nhãn tiền và khôn lường đối với chủ quyền tiền tệ của Việt Nam. Trong những trường hợp cần thiết nhất thì cùng lắm chỉ có thể cho phép thanh toán qua ngân hàng bằng VND, CNY và ngoại tệ chuyển đổi cho các giao dịch xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Trung, nhưng hành văn mập mờ của Thông tư cho phép việc thanh toán bằng CNY cho hàng hoá và dịch vụ (có thể không phải hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu) trên lãnh thổ Việt Nam có thể dẫn đến việc Nhân dân tệ hoá nền kinh tế Việt Nam.
Nền kinh tế VN một thời đã bị đô-la hoá, vàng hoá và chúng ta đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc để xoá bỏ. Với Thông tư 19, Ngân hàng Nhà Nước đã mở đường cho việc Nhân dân tệ hoá nền kinh tế Việt Nam, một việc mà lẽ ra Ngân Hàng Nhà Nước phải CHỐNG như đã chống đô-la hoá và vàng hoá. Đấy là một hệ quả dễ thấy của Thông tư này. Nói cách khác sẽ đến ngày dân Việt ở các tỉnh biên giới, thí dụ Quảng Ninh, hoặc thậm chí khách du lịch từ mọi miền đất nước tới Quảng Ninh hay Điện Biên sẽ mua hàng và dịch vụ và thanh toán bằng Nhân dân tệ nếu không cấm nghiêm ngặt việc sử dụng ngoại tệ (CNY hay ngoại tệ khác) trong thanh toán bằng tiền mặt (và kể cả qua ngân hàng) cho các hàng hoá và dịch vụ được trao đổi trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc sử dụng Nhân dân tệ trong giao thương, dù giới hạn ở khu vực biên giới Việt-Trung, không chỉ vi phạm nguyên tắc chủ quyền tiền tệ (các giao dịch thương mại trên một lãnh thổ có chủ quyền chỉ được thanh toán bằng đồng tiền quốc gia, còn các giao dịch xuất nhập khẩu qua biên giới có thể được thanh toán bằng đồng tiền thoả thuận qua hệ thống ngân hàng), mà còn tạo tiền lệ nguy hiểm về sự tồn tại mặc nhiên hai đơn vị tiền tệ song hành trên lãnh thổ quốc gia. Đó còn là hành động xâm lấn và xâm phạm chủ quyền tiền tệ của Việt Nam do ngoại bang và những kẻ rắp tâm theo ngoại bang thực hiện từng bước, có thể dẫn đến sự Nhân dân tệ hoá cả nền kinh tế Việt Nam và vô cùng nguy hại cho an ninh quốc gia.
Trước tình hình nghiêm trọng nêu trên, chúng tôi - các cá nhân và tổ chức xã hội dân sự - đồng lòng tuyên bố như sau:
Thứ nhất, kịch liệt phản đối Thông tư số 19/2018/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam-Trung Quốc do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 28/8/2018, nhất là việc cho phép dùng đồng Nhân dân tệ trong mua bán hàng hoá và dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam dù chỉ ở các tỉnh dọc biên giới Việt-Trung.
Thứ hai, yêu cầu Bộ Tư pháp, Chính phủ ngay lập tức hủy bỏ Thông tư 19 vì quyền lợi của đất nước và dân tộc.
Thứ ba, truy xét trách nhiệm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng và mọi quan chức có liên quan đến việc soạn thảo và ban hành Thông tư 19, một văn bản vi phạm chủ quyền tiền tệ quốc gia của Việt Nam và có thể gây ra những hậu quả khôn lường.
Lập ngày 31 tháng 8 năm 2018
CLB Lê Hiếu Đằng và nhóm Lão Mà Chưa An.
Xin mời các tổ chức và cá nhân tham gia ký tên, gửi về địa chỉ:
tuyenboviecsudungndt@gmail.com

'SÁP NHẬP TIỀN TỆ' ĐỂ TIẾN TỚI 'SÁP NHẬP LÃNH THỔ' ?

PHẠM CHÍ DŨNG/ BVN 8-9-2018

Bản hiệu đồng yuan.
Bảng hiệu đồng yuan.

Rất có thể chẳng hề là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, chỉ ít ngày sau chuyến công du hai nước Phi châu là Ai Cập và Ethiopia của Trần Đại Quang – Chủ tịch nước – vào tháng Tám năm 2018, Ngân hàng nhà nước Việt Nam do ông Lê Minh Hưng –- con trai của cựu Bộ trưởng công an Lê Minh Hương – đã bất thần ban bố một văn bản pháp quy với cấp độ Thông tư của cơ quan này về cho phép 7 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam được dùng đồng Nhân dân tệ (CNY) để thanh toán trong các hoạt động buôn bán làm ăn với Trung Quốc.

Từ Zimbabwe, Ethiopia đến Việt Nam

Ethiopia lại là ‘biểu tượng đầu tư của Trung Quốc ở châu Phi’. Thị trường Ethiopia tràn ngập hàng Trung Quốc, từ quần áo đến đồ gia dụng bằng nhựa hoặc thiết bị điện tử và máy móc… Bắc Kinh được lợi rất nhiều trong chiến lược hợp tác thương mại quá mất cân đối này. Năm 2016, Ethiopia có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 88,7 triệu USD, nhưng giá trị nhập khẩu lên đến 3,21 tỷ USD.
Ba năm trước khi Trần Đại Quang ‘chinh phục Phi châu’ và khi Tổng thống Robert Mugabe của một quốc gia châu Phi khác là Zimbabwe còn chưa biến thành một thứ mồ ma còn sống - hậu quả khủng khiếp của chế độ độc tài gia đình trị, nạn tham nhũng không giới hạn và tỷ lệ lạm phát không tưởng hàng tỷ phần trăm, quốc gia Nam Phi Zimbabwe đã đi tiên phong trong toàn châu Phi khi chấp nhận dùng đổng CNY một cách chính thức trong hệ thống thanh toán nội địa để được tạm thoát khỏi một cái bẫy đã giăng sẵn: được Trung Quốc xóa cho 40 triệu USD tiền nợ đáo hạn năm 2015.
Cũng vào năm 2015, một hiện tượng lạ lùng như thể quân hồi vô phèng đã xảy ra ở Lạng Sơn - một trong 7 tỉnh vùng biên giới phía Bắc Việt Nam và là nơi buôn bán làm ăn sầm uất nhất với Trung Quốc: có đến hàng trăm sạp đổi tiền CNY công khai tại chợ đổi tiền lớn nhất Lạng Sơn ở sân vận động Đông Kinh. Cũng công khai dòng chữ “Điểm thu đổi ngoại tệ CNY”…
Nhưng không phải đến lúc đó những chủ sạp đổi CNY ở Lạng Sơn mới ăn nên làm ra, mà họ đã làm công việc này từ năm 2010, nghĩa là ngay vào thời gian Trung Quốc bắt đầu xây dựng chính sách “Biến CNY thành tiền tệ chính tại một nước khác sẽ thúc đẩy tiến trình quốc tế hóa nội tệ của Trung Quốc”.
Kết quả rất thành công dành cho Bắc Kinh là “đi chợ Lạng Sơn tiêu tiền Trung Quốc”. Vào năm 2015, một ít tờ báo Việt Nam đã thuật lại rằng ở các chợ lớn của Lạng Sơn như chợ Đêm, chợ Kỳ Lừa; các chợ giáp biên như Tân Thanh, Đồng Đăng, Chi Ma… đều có thể dễ dàng giao dịch hàng hóa bằng đồng CNY. Các chủ hàng buôn bán với Trung Quốc sở hữu lượng CNY rất lớn. Họ thường sang nước bạn mua hàng hóa trước khi nhập vào các chợ ở Lạng Sơn và mang về dưới xuôi.
Đến năm 2017, trùng với thời điểm dự luật Đặc khu được một nhóm quan chức cao cấp Việt Nam, trong đó có cựu Bí thư Quảng Ninh Phạm Minh Chính mà hiện là Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tổ chức trung ương, âm thầm hoàn chỉnh để đưa ra Quốc hội thông qua với thời hạn cho nước ngoài thuê đất đến 99 năm mà bị coi là một hình thức nhựợng địa và “bán nước” cho Trung Quốc, đến lượt thành phố Hạ Long ở tỉnh Quảng Ninh bị báo chí phát hiện trở thành điểm tiêu tiền CNY công khai cùng số lượng lớn bởi du khách Trung Quốc.
Sau Hạ Long là Nha Trang và cả Đà Nẵng - những ‘phố Tàu’ nhan nhản mọc ra từ Bắc chí Nam trên rẻo đất hình chữ S…
Về thực chất, ‘đường lưỡi bò’ của Trung Quốc không chỉ phát huy tác dụng của nó bằng hàng trăm ngàn bản đồ nước này được bày bán khắp thế giới, bằng hàng chục ngàn tàu cá và tàu hải giám liên tục quần thảo trên Biển Đông, mà còn trên đất liền bởi cuộc xâm lăng của đồng CNY khi đánh bạt đồng tiền Việt Nam ở khu vực biên giới - nơi mà vào năm 1979 quân đội Trung Quốc đã bị thất bại thê thảm trong một chiến dịch xâm lăng bằng quân sự.

Ai chỉ đạo?

Cũng rất có thể chẳng hề là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, Thông tư ‘Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc’ của Ngân hàng nhà nước phát sinh ngay sau chuyến công du của Trần Quốc Vượng - Thường trực Ban bí thư - sang Bắc Kinh vào cuối tháng Tám năm 2018, trong đó có cuộc gặp với Tập Cận Bình mà một bức ảnh về tư thế ngồi của hai nhân vật này đã phản chiếu rất rõ vị thế ‘chủ - tớ’.
“Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc” là một chính sách lớn không chỉ liên quan đến an ninh tiền tệ mà cả về quốc phòng của Việt Nam, không thể chỉ được quyết định bởi một Ủy viên trung ương Đảng như Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Minh Hưng, mà phải được chỉ đạo từ những cấp cao hơn hẳn ông Hưng.
Vậy phải chăng việc dùng đồng CNY để thanh toán ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam là một trong những cam kết nằm trong các văn kiện mà Nguyễn Phú Trọng đã ký kết với Tập Cận Bình, và nhiều khả năng Tập Cận Bình đã vừa ‘nhắc nhở’ Trần Quốc Vượng vào tháng Tám năm 2018 để ông Vượng về truyền đạt lại cho ông Trọng phải thực hiện gấp cam kết trên?
Hoàn toàn có thể xem chỉ đạo trên, nếu quả đúng là thế, là bước hợp thức hóa cho thực tế đồng CNY đã được lưu hành và thanh toán tràn lan ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam trong hàng chục năm qua, bất chấp Pháp lệnh Ngoại hối và các nghị định, thông tư hướng dẫn quy định rằng trên lãnh thổ Việt Nam, trừ các trường hợp được sử dụng ngoại hối quy định, còn lại mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác (bao gồm cả quy đổi hoặc điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ, giá trị của hợp đồng, thỏa thuận) của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối.
Dù luôn bị các cơ quan ‘có trách nhiệm’ có Việt Nam giấu biến, nhưng con số về giá trị buôn bán tiểu ngạch hàng năm giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn được một vài chuyên gia phản biện độc lập nêu ra: từ 20 đến 30 tỷ USD.
Cũng có nghĩa là mỗi năm Việt Nam bị chảy máu ngoại tệ từ 20 đến 30 tỷ USD sang Trung Quốc, để cộng với giá trị nhập siêu của Việt Nam từ 25 đến 30 tỷ USD theo đường chính thức song phương thương mại với Trung Quốc, tổng giá trị nhập siêu mỗi năm của Việt Nam từ Trung Quốc phải lên đến trên 50 tỷ USD.
Riêng trong cơ chế xuất hàng tiểu ngạch, doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam đương nhiên phải nhận thanh toán bằng CNY. Nhưng khi Việt Nam nhập khẩu, liệu các doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc có chịu nhận đồng tiền Việt Nam hay đòi phải thanh toán bằng USD - tức vẫn tái diễn tình trạng chảy máu USD?
Dấu hỏi rất lớn trên đã chưa bao giờ được các bộ ngành chức năng của Việt Nam – từ Ngân hàng nhà nước đến Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các chính quyền các tỉnh biên giới phía Bắc – làm rõ. Từ nhiều năm qua, tất cả vẫn bị giới quan chức Việt Nam giấu biến, trong khi dư luận xã hội luôn xì xầm câu chuyện các doanh nghiệp Trung Quốc luôn chi ‘dưới gầm bàn’ thoáng nhất cho giới lãnh đạo Việt Nam.

“Sáp nhập tiền tệ’ để tiến tới ‘sáp nhập lãnh thổ”?

Về mặt an ninh tiền tệ và chủ quyền kinh tế, “Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc” chính là một thất bại lớn và càng khiến người dân Việt có cơ sở để mang nỗi tuyệt vọng rằng bản Hiệp ước Thành Đô – được cho là đã được lén lút ký kết giữa các lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX để đưa Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020 – đang được giới lãnh đạo hậu bối của Việt Nam rắp tâm thi hành bằng thủ đoạn ‘sáp nhập tiền tệ’ trước khi tiến tới ‘sáp nhập lãnh thổ’.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN


Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA VIỆC DÙNG NDT TRONG THƯƠNG MẠI VN-TQ

TS NGUYỄN VĂN PHÚ / BBC 8-9-2018



Trading VND and CNY at a border market
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionViệc cho phép sử dụng NDT ở bảy tỉnh biên giới của Việt Nam sẽ giúp phát triển buôn bán giữa hai nước. Vấn đề này phụ thuộc vào tính thực thi và kiểm soát luật pháp ở Việt Nam, theo TS Nguyễn Văn Phú. 

Vừa qua tôi có trả lời phỏng vấn và tham gia Bàn tròn Thứ năm ngày 7/9 của BBC Việt ngữ về Thông tư 19 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, liên quan tới việc sử dụng đồng nhân dân tệ (NDT) ở bảy tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam.
Tôi thấy nhiều người có thể chưa rõ một số khái niệm kinh tế (mà kinh tế học là một lĩnh vực phức tạp), do đó có thể gây hiểu lầm và những tranh cãi không đáng có. Trong bài viết này, tôi muốn làm rõ hơn một số khái niệm về kinh tế, hy vọng có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về khía cạnh kinh tế của vấn đề.
Lưu ý là ở đây tôi không nói tới các ý nghĩa chính trị của Thông tư 19 hay chính sách giữa hai nước vì đã có các chuyên gia khác phân tích khá rõ ràng và cảnh báo các nguy cơ.
Trước hết, Thông tư này đề cập việc sủ dụng đồng NDT (đồng Nguyên), vậy NDT có phải là đồng tiền thanh toán quốc tế không ?
Câu trả lời là có. Quỹ IMF đã đưa nhân dân tệ vào giỏ các đồng tiền dự trữ quốc tế từ năm 2016 bên cạnh đô la Mỹ, euro, bảng Anh và yên Nhật. Bên cạnh đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới (như các Ngân hàng Trung ương châu Âu, Pháp, Đức, Malaysia, Philippines, Thái Lan, v.v.) cũng đã bắt đầu cơ cấu một phần dự trữ ngoại hối của mình bằng NDT. Dù con số còn rất khiêm tốn so với USD hay euro, ta có thể dễ dàng tìm thấy các con số chính thức về dự trữ ngoại hối bằng NDT của các nước trên mạng và trong các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế.
Các đồng tiền thường được dùng trong thanh toán quốc tế là USD, EURO, bảng Anh, yên Nhật, đô la Canada, NDT, franc Thuỵ Sỹ, v.v.
Dự trữ ngoại hối là gì ?
Đây là tổng số tiền theo ngoại tệ (có thể là đô la Mỹ hay theo các ngoại tệ khác) mà một nước đang có. Nó được dùng để kiểm soát tỷ xuất hối đoái giữa đồng nội tệ và các ngoại tệ. Nó được dùng trong thanh toán quốc tế (các hoạt động nhập khẩu và trả nợ nước ngoài theo ngoại tệ). Ví dụ như Việt Nam nhập các máy bay Boeing theo đô la Mỹ thì phải dùng số tiền theo ngoại tệ này để trả cho Boeing.



People queue at a bureau de change in Geneve
Bản quyền hình ảnhFABRICE COFFRINI/GETTY IMAGES
Image captionNgười dân xếp hàng mua Euro tại một quầy đổi tiền ở Geneve, Thụy Sỹ.

Có hay không việc sử dụng một tiền của nước khác trong lãnh thổ của một nước ?
Việc sử dụng một đồng tiền của nước ngoài trên một số địa phận (ở đây tôi nhấn mạnh là trên một số địa phận) lãnh thổ của một quốc gia đã có trên thực tế.
Ví dụ như Thụy Sỹ (đồng tiền quốc gia là Franc Thụy Sỹ) cho phép thanh toán bằng đồng euro tai một số điểm dừng chân như là dọc theo các đường cao tốc hoặc các điểm du lịch. Các nước Bắc Phi cũng chấp nhận đồng euro (dĩ nhiên là cũng tại một số địa điểm).
Tại Việt Nam trước đây và ngay cả hiện tại, ta có thể dùng đô la ở rất nhiều nơi. Việc xác định các địa phận được sử dụng đồng ngoại tệ tùy thuộc vào lợi ích kinh tế của nước sở tại.
Tuy nhiên việc sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi sẽ gây vấn đề mất chủ quyền tiền tệ, mà người ta hay gọi là đô la hóa hay euro hóa (như trường hợp của Việt Nam trước đây đối với đô la Mỹ).
Vì thế lo ngại của người dân Việt Nam về việc NDT hóa nền kinh tế Việt Nam là xác đáng. Tuy nhiên, để vấn đề này xảy ra thì phải đánh giá xem Thông tư 19 này có ảnh hưởng tới đâu, nó có ảnh hưởng lên các tỉnh các của Việt Nam hay không?
Việc cho phép sử dụng NDT ở bảy tỉnh biên giới của Việt Nam sẽ giúp phát triển buôn bán giữa hai nước. Vấn đề này phụ thuộc vào tính thực thi và kiểm soát luật pháp ở Việt Nam.
Để giảm bớt khả năng lây lan của NDT sang các khu vực khác, tôi nghĩ là Việt Nam nên giới hạn các giao dịch buôn bán qua biên giới bằng NDT ở vùng biên giới (chứ không phải tất cả bảy tỉnh) và các cửa khẩu. Việc giới hạn này chỉ khả thi với giao dịch bằng tiền mặt, khó có thể áp dụng cho giao dịch qua ngân hàng (với lượng tiền thường lớn hơn giao dịch bằng tiền mặt).



USD and CNY notes

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image caption'Nếu VN và TQ thanh toán bằng USD thì phải tính đến tỷ suất hối đoái giữa NDT và USD'.

Bản chất của giao dịch buôn bán qua biên giới bằng tiền mặt hay qua ngân hàng bằng NDT có lợi hay hại đối với Việt Nam?
Trước hết, tôi xin nhắc lại là ở đây tôi chỉ nói về thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, không nói đến buôn bán trong nước (việc này chắc chắn là bằng VND). Hiện nay, thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đang chiếm phần quan trọng nhất trong cán cân thương mại của Việt Nam.
Nếu cả hai nước đều dùng USD để thanh toán thì trong nhập khẩu Việt Nam phải đổi VND sang USD để trả cho phía Trung Quốc. Khi Việt Nam xuất khẩu thì Trung Quốc phải dùng NDT đổi sang USD để trả cho phía Việt Nam. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam chịu rủi ro liên quan tới tỷ suất giữa VND và USD, chẳng hạn do phải đổi USD thu được sang VND để trả tiền công lao động, đầu tư vốn hay mua các nguyên liệu sản xuất trong nước, v.v.
Ngoài ra, khi thanh toán bằng USD thì phải tính đến tỷ suất hối đoái giữa NDT và USD. Vì sao? Vì khi Trung Quốc phá giá NDT đối với USD (nhất là trong bối cảnh có chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc), các sản phẩm của Trung Quốc được nhập vào Việt Nam với giá rẻ hơn (vì ta thanh toán cho phía Trung Quốc bằng USD), trong khi các sản phẩm của Việt Nam xuất sang Trung Quốc sẽ đắt hơn trước (cũng vì Trung Quốc phải trả cho phía Việt Nam bằng USD).
Đồng NDT còn ít sử dụng trong thanh toán quốc tế so với USD, nhưng nếu áp dụng được một phần cho thanh toán giữa Việt Nam và Trung Quốc, sẽ góp phần giảm chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam khi phải chuyển đổi tiền giữa VND và USD (vì tránh được rủi ro do tỷ suất và phá giá), và qua đó giúp gia tăng thông thương giữa hai nước.



Chinese Yuan notes
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionThanh toán bằng đồng DNT sẽ giúp giảm tác động tiêu cực lên nhập siêu, theo TS Nguyễn Văn Phú.

Một tác động quan trọng nữa là việc này sẽ giúp giảm tác động tiêu cực lên nhập siêu (mà nhập siêu chính là chảy máu ngoại tệ) của Việt Nam đối với Trung Quốc. Con số thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc rất lớn, năm 2016 là hơn 28 tỷ USD còn năm 2017 là hơn 22 tỷ USD.
Trong trường hợp thanh toán bằng NDT, dù NDT có bị phá giá so với USD thì con số thâm hụt này sẽ không thay đổi.
Tuy nhiên, trong trường hợp thâm hụt thương mại được thanh toán bằng USD thì sự phá giá của NDT sẽ làm tăng nhập khẩu hàng Trung Quốc, giảm xuất khẩu hàng Việt Nam, và như vậy sẽ làm nhập siêu cao hơn nữa. Trong hoàn cảnh có sự phá giá của NDT như hiện nay, tôi nghĩ việc giảm nhập siêu từ Trung Quốc là vấn đề cần giải quyết gấp để giảm sức ép lên các doanh nghiệp trong nước (vì bị cạnh tranh từ hàng Trung Quốc ngày càng rẻ). Mà phía sau các doanh nghiệp này chính là người lao động Việt Nam.
Do đó việc sử dụng NDT trong thanh toán thương mại qua biên giới là một giải pháp tình thế có thể hiểu được. Ở đây, ta nên lưu ý một lần nữa là thanh toán thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, không phải buôn bán với các nước khác trên thế giới (thông thường bằng USD), và càng không phải buôn bán trong nước (bắt buộc phải dùng VND).
*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, Tiến sỹ kinh tế Nguyễn Văn Phú từ Strassbourg, Pháp.

MỘT CÁCH NHÌN VỀ THANH TOÁN BIÊN MẬU TẠI KHU VỰC BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG

THÚY LINH/ VNN/BVN 9-9-2018
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan : "Lo tình trạng nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc khá nặng nề vào Trung Quốc, những mối lo về an ninh-quốc phòng, tình hình ở Biển Đông… khiến cho không một người Việt Nam yêu nước nào không cảnh giác, lo lắng trước bất cứ động thái nào mới trong quan hệ Việt-Trung có thể gây phương hại cho chúng ta".
clip_image002
Bà Phạm Chi Lan
Sau khi Thông tư 19/2018/TT-NHNN ban hành đã thu hút sự quan tâm của dư luận. Để làm rõ một số vấn đề dư luận quan tâm, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với bà Phạm Chi Lan - chuyên gia kinh tế.
Bà đánh giá thế nào về việc ban hành Thông tư 19 vào thời điểm hiện nay?
- Những năm gần đây, các văn bản pháp quy về hoạt động kinh tế ở nước ta được ban hành rất nhiều, tôi không thể theo dõi xuể. Ngân hàng không phải là lĩnh vực chuyên môn của tôi, nên tôi ít quan tâm. Tuy nhiên, sau khi Thông tư 19 được Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/8 vừa qua, có nhiều ý kiến thể hiện sự lo ngại của một số chuyên gia kinh tế và công chúng trong xã hội, nên từ đó tôi mới lo lắng và quan tâm tìm hiểu về Thông tư này.
Đọc kỹ Thông tư 19 và các văn bản pháp quy mà trên cơ sở đó Thông tư này ra đời, tôi hiểu ra và trút bỏ được những nỗi lo ban đầu.
Trước hết, Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Ngoại hối hiện hành đều khẳng định rõ nguyên tắc bất di bất dịch là trên lãnh thổ Việt Nam, đồng tiền Việt Nam là đồng tiền duy nhất được lưu hành. Đó cũng là tinh thần của Hiến pháp nước ta, và là nguyên tắc chủ quyền của mọi quốc gia trên thế giới. Các ngoại tệ có thể được sử dụng làm phương tiện giao dịch, thanh toán trong các giao dịch dân sự, nhưng đều phải qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng được phép giao dịch ngoại hối, và chịu sự giám sát, kiểm soát của Nhà nước. Riêng với 3 nước có chung biên giới Căm-pu-chia, Lào, Trung Quốc, giữa nước ta với các nước này đã có những hiệp định thương mại quy định về thương mại biên giới cho phép sử dụng đồng tiền của cả hai bên trong những giao dịch tại biên giới theo các thiết chế chặt chẽ, và đã được thực thi từ năm 2004.
Thông tư 19 tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Ngoại hối, và được thiết kế để các giao dịch thương mại biên giới Việt-Trung, dù được tạo thuận lợi bằng việc được sử dụng cả hai đồng tiền VND và CNY, cũng chỉ trong phạm vi rất hạn chế về đối tượng, về địa lý và phải thực hiện quy định thông qua hệ thống ngân hàng, kể cả đối với giao dịch tiền mặt (trong thời hạn 07 ngày).
Về đối tượng của Thông tư, Luật Quản lý Ngoại thương ban hành năm 2017 có mục 7 (gồm 3 Điều 53, 54, 55) về hoạt động thương mại biên giới, cùng Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết hoạt động thương mại biên giới đã quy định rõ ràng, chặt chẽ thế nào là hoạt động thương mại biên giới; thế nào là thương nhân và cư dân tham gia hoạt động thương mại biên giới; những địa bàn như thế nào thì được coi là biên giới, chợ biên giới; danh mục hàng hóa, dịch vụ trao đổi ở đó được xác định như thế nào… Có nghĩa là đối tượng của Thông tư 19 đã được khoanh rõ qua Luật và Nghị định nói trên, cùng các văn bản pháp quy liên quan khác (như Luật Biên giới, Luật Hộ khẩu…), để giới hạn phạm vi áp dụng về con người, địa bàn, hàng hóa, phương thức kinh doanh, cách thức thanh toán…theo các quy định về thương mại biên giới, đi đôi với các công cụ giám sát của nhiều cơ quan nhà nước liên quan.
Và do vậy, Thông tư 19 theo đúng luật pháp hiện hành sẽ chỉ được áp dụng trong phạm vi những giới hạn này thôi. Quy mô giao dịch tiền tệ và phạm vi ảnh hưởng của nó sẽ không rộng lớn như nhiều người lo ngại. Ngay trong Thông tư 19, các quy định về thanh toán qua ngân hàng, giao dịch tiền mặt …cho thương nhân và cư dân cả hai bên biên giới cũng được đưa ra cụ thể, chi tiết, khá chặt về pháp lý để nhà nước có thể giám sát, kiểm soát được cả về giao dịch thương mại lẫn việc thanh toán và giao dịch tiền tệ giữa hai bên.
Thông tư quy định rõ đối tượng và phạm vi điều chỉnh là thương nhân và cư dân biên giới có hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ qua biên giới tại khu vực biên giới của 7 tỉnh giáp biên giới Trung Quốc,vậy vì sao lại có những ý kiến lo ngại đối tượng áp dụng Thông tư 19?
Lúc thoạt đọc câu “Đồng tiền thanh toán trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc của thương nhân là ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND hoặc CNY” trong Thông tư, tôi cũng giật mình như nhiều người khác. Khi đọc kỹ các quy định cụ thể trong những phần tiếp theo của Thông tư, và cả trong các văn bản pháp quy khác như đã kể trên, tôi mới hiểu rõ hơn về mục tiêu, nội hàm, phạm vi áp dụng của Thông tư, về các công cụ quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này, và từ đó mới yên tâm hơn.
Sự giật mình lo ngại của tôi cũng như nhiều người khác xuất phát từ nhiều điều.
Thứ nhất, nhiều năm nay nước ta đã bị nhập siêu ngày càng nặng nề từ Trung Quốc, mà ngay quy mô nhập siêu chúng ta cũng chưa đánh giá được thật đầy đủ (thể hiện qua chênh lệch lớn giữa số liệu thống kê do VN và Trung Quốc công bố). Thứ hai, thương mại biên giới, hay biên mậu, giữa ta với Trung Quốc diễn ra nhiều năm nay, với quy mô ngày càng lớn, rất phức tạp, khó kiểm soát; hàng hóa Trung Quốc qua đường biên mậu đã len vào từng ngõ hẻm trên mọi miền đất nước, gây nhiều lo ngại cho cả các nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng nước ta, chưa kể thất thu thuế cho nhà nước do buôn lậu. Hay thông qua kênh du lịch, nhiều người Trung Quốc đã vào nước ta kinh doanh, làm lao động, tiêu tiền của họ trong các giao dịch với nhau…Thứ ba, gần đây công luận hết sức lo lắng về dự luật đặc khu kinh tế (mà Quốc hội đã sáng suốt hoãn việc thông qua để nghe thêm ý kiến nhân dân), về việc Trung Quốc thúc giục xây dựng các khu kinh tế-thương mại biên giới, về tác động tiêu cực nước ta có thể hứng chịu do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung…
Lo tình trạng nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc khá nặng nề vào Trung Quốc, những mối lo về an ninh-quốc phòng, tình hình ở Biển Đông… khiến cho không một người Việt Nam yêu nước nào không cảnh giác, lo lắng trước bất cứ động thái nào mới trong quan hệ Việt-Trung có thể gây phương hại cho chúng ta.
Thông tư 19 ra đời trong bối cảnh đó, cùng với sự “bất đối xứng về thông tin” giữa nhà nước với dân, rồi việc những giải trình cần thiết về Thông tư đến với dân chậm hơn so với tốc độ lan truyền của văn bản khi chưa có sự giải thích và hiểu đầy đủ sẽ gây ra một số phản ứng. Sự “bất đối xứng về thông tin” thể hiện rõ nhất trong việc nước ta cùng với các nước láng giềng Căm-pu-chia, Lào, Trung Quốc đã cho phép thực hiện thanh toán các giao dịch thương mại biên giới bằng đồng tiền của hai bên từ năm 2004, nhưng đa số người dân đâu có biết! Thông tư 19 nói riêng và quy trình xây dựng các văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực kinh tế nói chung nên có sự trao đổi trước với các chuyên gia kinh tế, pháp luật… để họ hiểu rõ cơ sở pháp lý và các quy định then chốt, đặc biệt là phạm vi áp dụng và các công cụ giám sát của Thông tư này, thì sẽ đỡ đi những lo lắng do cách hiểu và diễn giải khác về Thông tư này.
Bà có khuyến cáo gì về các cơ chế giám sát để thực thi tốt Thông tư này?
- Điều lo ngại vẫn còn trong tôi là liệu các cơ quan nhà nước có thực hiện được nghiêm túc, đồng bộ những quy định trong Luật, Nghị định và Thông tư nói trên không. Thật tình lâu nay quan sát các hoạt động kinh tế ở nước ta, tôi thấy nhiều khi có được văn bản pháp quy tốt đã khó, nhưng thực thi tốt các văn bản đó còn khó hơn nhiều. Không thể phủ nhận thực tế đang gây đau đầu cho chúng ta hiện nay, là không ít người trong bộ máy cán bộ nhà nước còn khá hạn chế về trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, cũng như về sự phối hợp công tác với nhau. Sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật trong người dân của chúng ta cũng có những hạn chế, vì nhiều khi ngay cả tiếp cận thông tin pháp luật đối với họ cũng khó, như nhiều điều tra đã cho thấy. Chính thực tế này khiến cho tính khả thi và hiệu lực, hiệu quả của nhiều quy định pháp luật của nước ta kém “thiêng” đi, trong khi các rủi ro có thể tăng lên.
Tôi rất lo nếu những người có trách nhiệm thi hành không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nhiệm vụ, chức trách của họ, thì các quy định có thể sẽ bị những kẻ gian ở cả hai bên biên giới lợi dụng, gây phương hại cho nền kinh tế của ta. Trong Thông tư không đưa ra quy định chế tài vì đã có quy định ở các văn bản pháp luật khác. Nhưng tôi đề nghị vẫn nên làm rõ chế tài đối với cả người nhà nước và người dân trong việc thực hiện Thông tư này.
Tôi cũng mong nhà nước tạo thêm kênh giám sát của xã hội, của nhân dân ở các tỉnh biên giới cũng như ở các địa phương khác, để người dân có thể phản ảnh kịp thời và giúp nhà nước ngăn chặn những diễn biến bất lợi có thể xảy ra.
Điều quan trọng nhất là mọi việc phải được thực hiện và giám sát, kiểm soát nghiêm minh đúng như các quy định. Thực sự phải tăng cường sự hiểu biết, ý thức trách nhiệm, năng lực làm việc và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và nhân sự có trách nhiệm quản lý nhà nước trong các lĩnh vực liên quan, đặc biệt là tại các địa phương. Và Thông tư cần được phổ biến, giải thích, hướng dẫn tường tận cho thương nhân và cư dân các vùng biên giới để họ hiểu rõ và tự giác thi hành tốt.
T.L.

VỚI TRUNG CỘNG, HÃY CẨN THẬN !

ĐỖ NGÀ/ FB Đỗ NgàBVN 9-9-2018
Mỗi bước đi về kinh tế sẽ dẫn tới hệ lụy về chính trị
Năm 2016, Hiệp Hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và Ngân hàng Công thương Trung Quốc đề nghị thanh toán bằng Nhân dân tệ (Yuan) trực tiếp tại Việt Nam. Đề nghị này là việc dễ hiểu, vì phía Trung Quốc muốn dễ dàng cho doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và họ muốn đồng tiền Trung Quốc vào lưu thông ở Việt Nam như là một lựa chọn thanh toán.
Như ta biết, trước đó, những giao dịch ngoại thương giữa Trung Quốc và Việt Nam đa phần là dùng USD. Tất nhiên, dân Việt không thể dùng tiền VNĐ trao đổi ngoại thương, vì VNĐ không có trong rổ IMF. Nhưng nếu chấp nhận thanh toán bằng Yuan thì mới là điều đáng nói. Khi chấp nhận thanh toán bằng Yuan thì các doanh nghiệp Việt Nam phải bán USD để mua Yuan nhằm thanh toán. Mà bán USD mua Yuan thì phải tốn phí 0,5%, phí này doanh nghiệp Việt Nam chịu, thay vì phía Trung Quốc chịu nếu thanh toán bằng USD. Mà trong 6 năm qua, tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc là 350 tỷ USD. Nếu dùng Yuan thay cho USD thì phí chuyển USD sang Yuan mà phía Việt Nam phải chịu là 1,75 tỷ USD.
Điều đáng nói thứ 2 mới là quan trọng. Trong 6 năm gần đây, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 100 tỷ USD, nhưng nhập của Trung Quốc 250 tỷ USD. Vậy Việt Nam nhập siêu của Trung Cộng 150 tỷ USD trong 6 năm. Nếu chuyển sang thanh toán bằng đồng Yuan thì trong 6 năm, số tiền Yuan chảy sang Trung Cộng trị giá tương đương 150 tỷ USD. Thế thì lấy đâu ra Yuan mà mua? Vậy điều này dễ dẫn tới doanh nghiệp Việt Nam phải vay của Trung Cộng. Khi đó, không những Việt Nam lệ thuộc hàng hoá Tàu mà còn lệ thuộc tài chính. Điều này là vô cùng nguy hiểm.
Việc làm gì cũng vậy, phải có lộ trình. Sau 2 năm đề nghị từ phía Trung Cộng, giờ phía chính quyền Việt Nam đã mở cửa giao dịch tại các tỉnh biên giới Việt Nam được thanh toán bằng Yuan. Khi đồng Yuan chiếm lĩnh các tỉnh biên giới thì tất nhiên sự mở rộng thị trường giao dịch đồng Yuan theo vết dầu loang là điều chắc chắn. Vì Móng Cái giao dịch bằng Yuan thì Hạ Long không giao dịch được sao? Mà Hạ Long giao dịch được thì chả nhẽ Đông Triều không giao dịch được? Đông Triều giao dịch được chả lẽ Chí Linh – Hải Dương không giao dịch được? Từ “biên giới” rất là chung chung, nó không giới hạn bằng một ranh giới nào cả. Cho nên nó sẽ lan rộng theo vết dầu loang là điều chắc chắn. Và sự thật, tại Hạ Long, các cửa hàng bán lẻ Việt Nam có nhân viên nói tiếng Trung và nhận thanh toán bằng Yuan đã ngày một phổ biến. Vậy Hạ Long là biên giới sao? Và đây là điều thực tế.
Chấp nhận thanh toán bằng Nhân Dân Tệ (Yuan) dù chỉ mới ở “biên giới”, nhưng rõ ràng là bước lùi của phía Việt Nam. Xét về kinh tế thuần túy, dựa trên câu chữ các thông tư nghị định của chính phủ để cho rằng “điều này có lợi” cho thương mại giữa 2 bên là một cái nhìn rất phiến diện. Để đánh giá, phải xét đến hệ lụy về kinh tế – chính trị về lâu về dài. Và đặt biệt, với Trung Cộng, Hà Nội chỉ có nhượng bộ chứ chưa bao giờ dám lấn tới.
Đ.N.
Nguồn: FB Đỗ Ngà

'BẢY LẬP LUẬN SAI VỀ VIỆC DÙNG TIỀN TQ Ở BIÊN GIỚI'

TS NGUYỄN TƯỜNG HINH/ BBC 9-9-2018

Chinese Yuan notes
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

BBC Tiếng Việt nhận được nhiều ý kiến khác nhau về quyết định dùng tiền Trung Quốc (nhân dân tệ - NDT) trong giao dịch bình thường ở bảy tỉnh biên giới của Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong một văn bản gửi tới BBC Tiếng Việt hôm 03/09/2018 nói rằng Thông tư 19 nhằm "khắc phục những bất cập trong thực tiễn thanh toán đã thực hiện từ nhiều năm nay" trong khi "tạo thuận lợi cho thương nhân và cư dân biên giới".
"Thông tư này đảm bảo trên lãnh thổ Việt Nam chỉ cho phép thanh toán bằng tiền mặt VND, không cho phép sử dụng nhân dân tệ tiền mặt để mua bán hàng hóa trên lãnh thổ Việt Nam theo đúng tinh thanh của pháp lệnh ngoại hối; đồng thời tăng cường kiểm soát tiền tệ qua hệ thống ngân hàng, hạn chế buôn lậu, gian lận thương mại phù hợp với chủ trương, định hướng chỉ đạo của Chính phủ," văn bản do ông Nguyễn Ngọc Minh, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý Ngoại hối NHNN, viết.
"Việc sử dụng đồng bản tệ trong thanh toán thương mại đang là xu hướng được nhiều nước trên thế giới và khu vực sử dụng."
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của Tiến sỹ Đinh Trường Hinh từ Virginia, Hoa Kỳ, phản biện lại các lập luận ủng hộ cho việc sử dụng đồng nhân dân tệ theo quy định tại Thông tư 19.

Lập luận 1: "Trên thế giới đã có rất nhiều nước dùng tiền nước ngoài để làm đồng tiền chính thức trong nước."

Trả lời: Điều này hoàn toàn sai. Trên thế giới hiện nay chỉ có Panama, một nước rất nhỏ ở Nam Mỹ dùng đồng đô la làm tiền tệ chính thức của mình từ năm 1904 do nhiều lý do lịch sử.
Một số các hòn đảo nhỏ (như Marshall Islands, Micronesia, Palau, Turks and Caicos, British Virgin Islands), hoặc một vài nước vì kinh tế hoặc vì chiến tranh như Ecuador, East Timor, El Salvador, Zimbabwe dùng đô la làm tiền trong nước.
Còn ngoài ra trên 200 các nước còn lại đều dùng tiền riêng của họ. Lý đó là tiền nội địa phải làm ba chức năng sau: i) phương tiện trao đổi; ii) đơn vị kế toán; và iii) dự trữ giá trị.
Tất cả các tiến tệ trên thế giới hiện này là fiat, có nghĩa là tiền quy ước mà giá trị vượt xa chi phí sản xuất, và điều kiện tiên quyết cho loại tiền này tồn tại là sự công nhận hợp pháp của luật pháp trong nước.
Tiền quy ước này được bổ sung thêm bằng tiền ghi nợ mà luật pháp công nhận cho một nước. Chính vì giá trị đồng tiền vượt xa chi phí sản xuất mà khi in tiền, chính phủ của một nước được một nguồn thu nhập quan trọng gọi là seignorage.
Nước Panama và các nước kể trên là những nước duy nhất trên thế giới không có nguồn thu nhập này. Một khi đồng nhân dân tệ được dùng tại bảy tỉnh biên giới, Việt Nam sẽ mất seignorage trên số tiền Việt Nam trước kia dùng ở đó.

Lập luận 2: "Thông tư 19 chỉ nhằm để giúp các doanh nhân và cơ sở thương mại phát triển ở trong bảy tỉnh biên giới, không có ảnh hưởng gì đến các tỉnh khác cũng như sẽ không có ảnh hưởng gì đến tiền tệ hay chính sách tiền tệ."

Trả lời: Điều này hoàn toàn sai. Thông tư 19 đã chính thức đem nhân dân tệ vào đất nước Việt Nam và trong bảy tỉnh biên giới sẽ có hai thứ tiền tệ: VND va NDT.
Thông tư 19 đã ghi rõ là các doanh nhân cũng như là cư dân ở những vùng gần biên giới có thể mua bán dùng tiền mặt hay qua hệ thống ngân hàng bằng cả hai thứ tiền. Như vậy là mặc nhiên cho NDT làm đồng tiền chính thức ở những vùng đó, và hàng hóa hay dịch vụ một khi đã được mua hay bán bằng NDT ở những vùng biên giới thì sẽ được phân phối đi trong cả nước Việt Nam, do đó không thể nào ngăn chặn được.
Một mặt khác NHNN cũng sẽ mất độc lập trong chính sách tiền tệ do hai lý do.
Thứ nhất, những dự trữ của các ngân hàng VN ở bảy tỉnh này sẽ không nằm trong sự kiểm soát của NHNN, do đó NHNN không thể kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ.
Thứ hai, vận tốc nhu cầu tiền (velocity of money demand) sẽ thay đổi trong những tỉnh này và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu cần tiền (money demand) của tiền VN mà NHNN không thể dự đoán được để kiểm soát tiền tệ.

Lập luận 3 : "Việc cho NDT được chính thức dùng ở bảy tỉnh biên giới sẽ không có ảnh hưởng gì đến hối đoái và chính sách hối đoái của NHNN Việt Nam."

Trả lời: Điều này hoàn toàn sai. Các công ty TQ sẽ dùng tiền VN để đối ra các ngoại tệ mà chính phủ TQ hoặc là không cho phép hoặc là cho phép rất hạn chế.
Trading VND and CNY at a border market
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionViệc cho phép sử dụng NDT ở bảy tỉnh biên giới của Việt Nam sẽ giúp phát triển buôn bán giữa hai nước?
Điều này tuỳ thuộc vào thành phần xuất cảng và nhập cảng của TQ đối với các nước đang dùng ngoại tệ đó và có thể không liên quan gì đến xuất cảng và nhập cảng của VN.
Nhưng vì các công ty TQ và các ngân hàng TQ dùng tiền VN để đổi mà hối suất của VN đối với các ngoại tệ đó cũng sẽ thay đổi.
Quan trọng hơn nữa là điều này sẽ có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, vì chính sách hối đoái này đưa một tín hiệu sai lầm đến các nhà sản xuất VN, làm họ mất đi khả năng cạnh tranh theo hệ thống tín hiệu thị trường và chỉ có thể sản xuất theo lợi thế so sánh của TQ thay vì của VN.
Đây là một điều hết sức nguy hiểm về lâu về dài cho công kỹ nghệ VN.

Lập luận 4: "Hiện tại NDT đang được dùng để giao dịch cho các nước. Chính IMF đã bỏ đồng NDT vào giỏ tiền tệ của SDR."

Trả lời: Thật không có gì sai hơn.
Đồng SDR (gồm có đô la, euro, tiền Nhật bản, v.v...) là một loại tiền tệ giả tạo chỉ được dùng như một phương tiện để thanh toán mậu dịch giữa các nước với nhau chứ SDR chưa bao giờ được sử dụng như một loại tiền tệ trong nước (có bao giờ bạn đi mua cái áo sơ mi mà trả bằng SDR chưa?).
USD and CNY notes
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Do đó, đồng NDT cũng chưa bao giờ được chính thức dùng như là tiền tệ cho các nước khác, và vì vậy không có nước nào trên thế giới chính thức cho đồng NDT lưu hành song song với tiền nước họ, ngoại trừ Zimbabwe bị khủng hoảng kinh tế phải dùng tám thứ tiền khác nhau, trong đó có NDT.
Ngay cả những nước nghèo đói ở châu Phi như Democratic Republic of Congo nơi mà TQ đã dùng tiền bạc mua chuộc lợi ích kinh tế, đồng NDT vẫn được coi là một ngoại tệ chứ không phải tiền trong nước như ở bảy tỉnh của Việt Nam.

Lập luận 5: "Thông tư 19 chỉ hợp thức hóa những gì đang xảy ra và tiếp tục quyết định của NHNN VN năm 2004 (689/2004/QĐ-NHNN)."

Trả lời: Điều này sai do hai lý do.
Thông tư 19
Bản quyền hình ảnhOTHER
Image captionThông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/10/2018.
Thứ nhất, Thông tư 19 chính thức cho tất cả mọi người kể cả dân chúng và doanh nghiệp dùng NDT trong khi Quyết định 2004 có giới hạn vì không đề cập đến doanh nghiệp.
Thứ hai, dù là NHNN đã quyết định năm 2004 như vậy đi nữa, nếu là một quyết định sai thì không có lý do gì ta phải giữ hoài chuyện đó. Nếu mọi chuyện đã và đang xảy ra là sai thì phải sửa đổi chứ không thể để mọi chuyện tiếp tục như vậy.

Lập luận 6: "Thanh toán bằng đồng NDT sẽ giúp giảm tác động tiêu cực lên nhập siêu và Thông tư 19 sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho cán cân thương mại Việt - Trung."

Trả lời: Điều này hoàn toàn sai.
Cán cân thương mại giữa hai nước sẽ không có ảnh hưởng gì nếu thanh toán bằng đồng NDT hay đồng đô la, vì trong trường hợp này đồng tiền chỉ là một đơn vị kế toán và những động cơ để đưa đến sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu sẽ không có thay đổi.
Đồng nhân dân tệ
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionĐồng nhân dân tệ (CNY) được phép lưu hành song song với VNĐ ở 7 tỉnh biên giới Việt - Trung theo Thông tư 19 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cũng chính vì vậy mà tất cả các nước trên thế giới (kể cả TQ) đều trình bày thống kê về cán cân ngoại thương (balance of payments) của họ bằng đô la mặc dù đồng tiền họ dùng là các tiền tệ khác.
Nếu hiện tại cán cân thương mại Việt-Trung đang bị thất thiệt nặng nề thì VN phải dùng các chính sách kinh tế thích hợp để tăng năng lực cạnh tranh trong nước, kể cả dùng chính sách đổi giá hối đoái giữa hai nước. Nếu dùng tiền NDT để đạt mục đích này vì hiện tại TQ đang phá giá thì nay mai khi NDT trở nên đắt so với đô la (như những năm gần đây) thì VN sẽ bán hàng hoá cho ai?

Lập luận 7: "Có thể giữ 2 loại tiền (tiền VN và tiền TQ) cùng giao lưu cho 7 tỉnh biên giới."

Trả lời: Theo luật Gresham, không thể nào có hai loại tiền lưu hành cùng lúc trong cùng một nước vì đồng tiền xấu sẽ làm cho đồng tiền tốt biến đi.
Cho đến nay, đồng tiền NDT đã phá giá khoảng 8% so với đô la Mỹ trong khi VND chỉ mất khoảng 2-3%.
Ta hãy lấy một ví dụ thực tế. Một doanh nhân VN muốn mua hàng hoá với một doanh nhân TQ có trị giá 100 NDT. Ông ta có thể dùng NDT hay VND để làm cuộc buôn bán. Ví dụ tài sản ông ta có một nửa là NDT và một nửa VND (100 NDT= 340,728 VND). Trong trường hợp này ông ta nên mua bằng tiền NDT hay là bằng tiền VN? Ông ta sẽ mua bằng NDT vì đồng tiền NDT đang mất giá so với VND và để lâu NDT sẽ mất giá thêm. Do đó, mọi người sẽ dùng NDT và đồng VND sẽ biến mất dần.
Lẽ dĩ nhiên bạn cũng có thể ví dụ ngược lại, đồng VN là đồng tiền xấu và như vậy NDT sẽ dần dần mất đi, nhưng như vậy thì đem NDT vào làm gì nữa?
Tiến sĩ Đinh Trường Hinh hiện là Chủ Tịch Công Ty EGAT tại Hoa Kỳ. Ông nguyên là chuyên gia kinh tế chính, Văn phòng Phó chủ tịch và Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới ở Washington, D.C. (1978-2014). Bài thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả.
BBC Tiếng Việt hoan nghênh các ý kiến tranh luận, thảo luận về chủ đề Thông tư 19 và các vấn đề liên quan. Hãy gửi bài về cho chúng tôi theo địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk.
TIN BÀI LIÊN QUAN:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét