Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

20180903. LỜI CẢNH BÁO CHO GIỚI CÔNG AN

ĐIỂM BÁO MẠNG
TỬ HÌNH VÌ GIẾT NGƯỜI BIỂU TÌNH : TỪ LIBYA ĐẾN VIỆT NAM

PHẠM CHÍ DŨNG/ BVN 2-9-2018

clip_image002
Những người biểu tình hô khẩu hiệu chống lãnh đạo Libya, Muammar Gaddafi. Hình tư liệu.
Giới công an trị Việt Nam chỉ biết lấy thịt đè người và lấy đông hiếp yếu tuyệt đối không nên bỏ qua thông tin chấn động này: ngày 15/8/2018, Tòa án Phúc thẩm Tripoli ở Libya đã tuyên án tử hình 45 cựu quân nhân và 54 cựu quân nhân khác bị phạt 5 năm tù giam vì bị kết án giết hại người biểu tình tại thủ đô Tripoli trong cuộc nổi dậy chống chế độ độc tài Muammar Gaddafi năm 2011.
Bịt mặt cũng không thoát
Vụ án này xảy ra trước đó đúng bảy năm - 21/8/2011, ngày mà nhóm quân đội ủng hộ Gaddafi đã nổ súng và giết hàng chục người biểu tình gần khu vực Abu Slim. Chẳng bao lâu sau, cuộc cách mạng ‘Mùa xuân Ả rập’ đã giải thoát dân tộc Libya khỏi ách độc tài của chế độ Gaddafi. Muammar Gaddafi đã bị phe nổi dậy bắt và giết vào tháng 10/2011. Thân phận của kẻ độc tài tắm máu này chỉ được người ta nhìn thấy dưới một cái cống bẩn thỉu.
Libya dân chủ là quốc gia đầu tiên sau Cách mạng ‘Mùa xuân Ả rập’ hồi tố và truy cứu trách nhiệm một cách nghiêm khắc và hợp đạo đối với những kẻ giết người biểu tình trong quá khứ.
Nhưng vì sao hầu hết quân nhân chống biểu tình thời Gaddafi đều đội mũ hoặc che mặt nhưng vẫn bị phát hiện và bị truy cứu hình sự?
Sau khi Gaddafi bị lật đổ, các cơ quan tư pháp của Libya dân chủ đã bắt đầu tiến hành những cuộc điều tra về thủ phạm ra lệnh và thủ phạm thi hành vụ bắn giết người biểu tình. Một số sĩ quan quân đội phụ trách chống biểu tình và trực tiếp ra lệnh bắn vào đoàn người biểu tình đã bị bắt giữ. Và chính những kẻ này, hòng cứu vãn mạng sống của chúng, đã mau mắn khai ra những quân nhân cấp dưới nào của chúng đã trực tiếp nổ súng. Không mấy khó khăn, cơ quan tư pháp đã xác định được danh sách những tội phạm giết người.
Còn Việt Nam thì sao?

Đánh đập, tra tấn và ‘tự chết trong đồn công an’
Ở Việt Nam chưa đến giới hạn xảy ra những vụ bắn giết người biểu tình, cũng bởi phong trào phản kháng dân sự ở Việt Nam chưa đạt đến độ rung lắc mà khiến chế độ cầm quyền phải run sợ và phải ra lệnh cho cảnh sát cùng quân đội bắn thẳng vào đám đông biểu tình.
Nhưng đánh đập, đánh dã man người biểu tình cùng cảnh ‘tự chết’ của người dân trong đồn công an thì đã trở thành số nhiều.
Trong bảng vàng thành tích của Công an TP. HCM, trận đàn áp cuộc biểu tình vì môi trường vào ngày 8/5/2016 được gạch dưới như một đỉnh cao chói lọi: lực lượng ăn thuế của dân đã bắt đến 500 công dân biểu tình nhốt tại sân vận động Hoa Lư.
Xịt hơi cay, đánh đập đến đổ máu rất nhiều người, đấm đá đến ngất xỉu hai mẹ con tuần hành như một cách kỷ niệm “Ngày của Mẹ”…
Chẳng có gì là chứng cứ của “thế lực thù địch”. Chỉ toàn dân ra biểu tình. Rất nhiều gương mặt mới xuất hiện: kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, có cả giám đốc ngân hàng.
Ngày hè đỏ nắng và đỏ máu ở Sài Gòn. Khắp trung tâm thành phố này là cảnh “các lực lượng bảo vệ trật tự” nhe nanh lao vào hành hung không thương tiếc người biểu tình. Một số hình ảnh đã được xác minh: chính những nhân viên công an đã hóa trang làm thanh niên xung phong để tấn công dã man người biểu tình.
Hai năm sau đó, cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu năm 2018 ở Sài Gòn phản đối luật Đặc khu và luật An ninh mạng đã khiến nỗi sợ hãi của giới quan chức chính quyền tăng tiến vượt bậc, đến nỗi nghị trường quốc hội đang ồn ào yêu cầu ‘cần sớm ban hành luật Biểu tình’. Cuộc tổng biểu tình này đã có nhân số gấp 10 lần cuộc biểu tình chống giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào năm 2014, khi lên đến hàng trăm ngàn người và bùng nổ tại trên 50% tỉnh thành trong quốc gia. Một lần nữa trong nhiều lần kể từ cuối năm 2011 khi thủ tướng thời đó là Nguyễn Tấn Dũng giao cho cơ quan chuyên đàn áp biểu tình là Bộ Công an soạn thảo luật Biểu tình, Tổng thư ký quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc hùa theo ‘Chính phủ đang tích cực chuẩn bị luật Biểu tình’.
Khó mà nhớ được đây là lần thứ mấy quan chức Nguyễn Hạnh Phúc hứa hẹn ‘đang tích cực chuẩn bị’, trong vô số phát ngôn đậm đà đầu môi chót lưỡi của giới quan chức Việt Nam.
Nhưng với người dân Việt, cái bánh vẽ luật Biểu tình đã công nhiên trở thành một thứ phế thải. Từ năm 2011 và đặc biệt từ năm 2014 đến nay, người dân Việt Nam đã tự động xuống đường mà bất cần một khung luật nào cho phép. Trong cơn phẫn nộ và bế tắc tận cùng, trong nỗi thất vọng vượt quá giới hạn trước một chế độ đặc trưng quá tham nhũng, độc đoán và khiến phát sinh đủ thứ hậu quả xã hội trầm kha, ngày càng có thêm nhiều người dân vượt qua nỗi sợ của mình để bước ra đường, mở miệng và thét to những gì họ muốn.
Song cuộc biểu tình thứ hai cùng tháng Sáu năm 2018 - diễn ra vào ngày Mười Bảy - đã bị Công an TP.HCM tái hiện cảnh đánh đập tra tấn người biểu tình như đã từng hành xử đối với cuộc biểu tình môi trường tháng Năm năm 2016, dã man đến mức nhiều người biểu tình bị hành hung đã lần đầu tiên phải thốt lên ‘Ác ôn cộng sản!’.
Vào cái ngày ác ôn trên, cả công viên Tao Đàn ở Sài Gòn đã bị biến thành một trại tập trung khổng lồ để giam giữ và tra tấn vài trăm người dân biểu tình. Tiếng kêu thét vì bị tra tấn dậy lên khắp nơi. Nhiều người dân Sài Gòn đã lần đầu tiên phải chứng kiến bản thân họ và đồng bào của họ bị giới ‘công an nhân dân’ tra tấn vào vùng kín của cơ thể.
Rất nhiều công an đã bị mặt trong khi thi hành nhiệm vụ ‘thanh bảo kiếm bảo vệ chế độ’. Hệt như những cảnh sát Ai Cập đã bịt mặt, cưỡi lạc đà lao vào đám đông biểu tình của người dân và vung roi quất lên đầu họ khi ‘Mùa xuân Ả rập’ bắt đầu.
Nhưng rốt cuộc, các chế độ độc tài đều sụp đổ và chẳng mấy kẻ bị mặt thoát nạn ‘quả báo’. Nhiều kẻ trong số đó đã bị chính quyền dân chủ trừng trị.
Vậy số phận của những công an bịt mặt ở Sài Gòn và ở nhiều tỉnh thành Việt Nam khi đàn áp, đánh đập nhân quyền, dân oan đất đai và tấn công người biểu tình liệu có thoát nạn quả báo trong tương lai không còn xa nữa?
Hãy nhìn vào sếp của những kẻ này.
Truy từ sếp công an
Vào cái đêm tối trời của con tàu sắp đắm và khiến hàng đàn chuột lúc nhúc bò khỏi chổ ẩn náu để thoát thân, hàng đàn hàng bầy quan chức Việt cũng âm thầm rồng rắn kéo nhau ‘ra đi tìm đường cứu nước’ ở Mỹ, Canada, Úc, Anh, Pháp và những nước Tây Âu, nhất là tìm đến những quốc gia không có hiệp định dẫn độ tội phạm hình sự với Việt Nam.
Những bầy quan chức trên lo sợ điều gì? Chế độ vẫn còn nằm trong tay họ kia mà?
Không, họ lo sợ về một sự thay máu chế độ như đã từng diễn ra ở ba nước Bắc Phi trong Cách mạng ‘Mùa xuân Ả Rập’. Họ lo sợ về một cơn cuồng bão nổi dậy của người dân Việt Nam sẽ nhấn chìm ‘con tàu cách mạng’ đầy ô nhục tham nhũng và sa đọa của họ xuống tận đáy đại dương.
Đây cũng đang là thời buổi của ‘thân ai người đó lo, hồn ai người đó giữ’. Không kẻ nào cứu kẻ nào nếu không bị ràng buộc quyền lực và lợi ích với nhau. Trong mọi thứ ích kỷ trên đời, ích kỷ về sinh mạng chính trị có lẽ là trội nhất. Sẽ chẳng có gì bảo đảm là những sỹ quan cảnh sát đã từng ra lệnh đánh đập tra tấn người biểu tình ở Việt Nam, khi đã nằm gọn trong vòng tay pháp luật hoặc bị lôi ngược về quê hương dù có tìm cách trốn biệt ra nước ngoài, sẽ không mau mắn khai báo cái danh sách những kẻ thừa hành mệnh lệnh ấy, bất chấp lũ thừa hành đã cố che mặt càng kín càng tốt để khỏi bị người dân và nạn nhân nhận dạng chúng.
Các cấp ‘trưởng phòng nghiệp vụ’ của công an tỉnh thành, cùng cấp trưởng phó công an quận, phường là những quan chức công an nắm rõ nhất danh sách những nhân viên công an bịt mặt đánh người và tra tấn đến chết người. Người dân chỉ cần lập hồ sơ sơ bộ về những vụ đánh đập, tra tấn và giết người trong đồn công an xảy ra vào thời điểm nào, tại đâu và kèm theo bằng chứng (nếu có), để dùng cho việc truy cứu trách nhiệm trong tương lai.
Sẽ là Libya ở Việt Nam?
Đánh đập và tra tấn dã man lại rất thường là biểu hiện của giai đoạn cuối cầm quyền của một chế độ độc tài. Sự phẫn nộ của dân chúng sẽ đẩy đến những cuộc biểu tình tự phát, không chỉ với những đám đông bình thường như trước đây mà sẽ biến thành một phong trào biểu tình khổng lồ. Nhưng thói quen sợ hãi xen độc trị của chế độ có thể sẽ biến thành những mệnh lệnh sát nhân. Quân đội và công an có thể sẽ phải nhận lệnh bắn thẳng vào đoàn người biểu tình.
Khi đó, kịch bản Libya năm 2011 sẽ tái hiện ở Việt Nam.
Và những năm sau đó khi một chế độ dân chủ chắc chắn sẽ được hình thành ở Việt Nam, kịch bản Libya ‘xử tử hình 45 cựu quân nhân vì giết người biểu tình’ cũng sẽ là một tấm gương phản tỉnh không thể cưỡng chống trên mảnh đất ‘lệ rơi hình chữ S’ này.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN

XIN HỎI 2 ÔNG TƯ SANG VÀ BA DŨNG

NGUYỄN ĐĂNG QUANG/ BVN 2-9-2018

Cách đây 4 năm, trước việc các LLVT (gồm quân đội và công an) bị huy động tùy tiện và trái pháp luật vào các cuộc cưỡng chế, giải tỏa đất đai bất hợp pháp, và nhất là vào việc ngăn chặn, cản trở các cuộc biểu tình yêu nước của toàn dân phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Tổ quốc, ngày 2/9/2014, hai mươi (20) cựu sĩ quan Quân đội và Công an chúng tôi đã cùng nhau ký kiến nghị gửi tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (sau đây gọi tắt là “Kiến nghị 20”). Kiến nghị nêu 4 yêu cầu rất cụ thể. Tôi xin đề cập 2 trong 4 đòi hỏi của “Kiến nghị 20” này như sau:
Kiến nghị 1 nêu rõ: “Không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho nhân dân. Quân đội có nhiệm vụ Hiến định là “Bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm”, do vậy tuyệt đối không được huy động Quân đội vào những việc mang tính đối kháng với nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa... Công an có nhiệm vụ Hiến định là “Bảo vệ An ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm”, do vậy tuyệt đối không lạm dụng Lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội đấu tranh đòi giải quyết những quyền lợi hợp pháp của mình!” (hết trích 1)
Kiến nghị 4 nêu cụ thể: “Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và LLVT Việt Nam phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung, và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo... Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã công bố nội dung thỏa thuận giữa 2 bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận yêu cầu nói trên, và cho Việt Nam thời hạn 30 năm (1990-2020) để ĐCSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”. Chúng tôi không rõ thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Thành Đô năm 1990” (hết trích 2)
Kiến nghị trên được gửi ông Tư Sang và Ba Dũng đã tròn 4 năm. Đến nay cả 2 ông đều đã nghỉ hưu để “ráng làm người tử tế”! Song rất buồn và đáng trách, giống hệt như các Lãnh đạo cao cấp khác, 2 ông Tư và Ba này đã không trả lời “Kiến nghị 20” một câu! Phải chăng trong đầu và trái tim họ đã mất hết suy nghĩ về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lãnh đạo đối với công dân, mà trong trường hợp này lại là đồng đội, đồng chí của mình? Đây quả là cách ứng xử lạ lùng và kỳ cục nếu không nói là thiếu chuẩn mực đạo đức và luật pháp, mà chỉ duy nhất thấy ở lãnh đạo các quốc gia theo thể chế độc tài, toàn trị!
Trong số 20 cựu sỹ quan LLVT ký tên, người trẻ nhất nay cũng đã 77 tuổi, còn người cao tuổi nhất đã bước sang tuổi đại thượng thọ: 103 tuổi! Đó là lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại TQ. Tướng Vĩnh vào Đảng năm 1939, được phong hàm Thiếu tướng năm 1959! Trong tất cả sỹ quan cấp tướng do đích thân Chủ tịch HCM tấn phong, cụ là người duy nhất còn sống cho đến nay! Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể lại cho tôi chuyện sau: Lúc đương chức, cả 2 ông Tư Sang và Ba Dũng đều cử phái viên đến thăm cụ. Một lần ông Ba Dũng cử 1 vị tướng đến thăm với mục đích thẳng băng là yêu cầu cụ bớt phê phán và lên án ông ta! Ông tướng này (chỉ bằng tuổi con cụ) nói: “Bác nguyên là Trung ương Ủy viên, tôi cũng là nguyên Ủy viên Trung ương. Bác là sỹ quan cấp tướng, tôi cũng cấp tướng!” Nghe đến đây, cụ bèn ngắt lời khách: “Không dám! Tôi vào Đảng khi anh còn chưa sinh. Còn khi tôi được phong hàm tướng và tham gia BCHTW, có lẽ lúc đó anh mới chỉ học cấp 1. Anh so sánh như vậy là khập khiễng! Vả lại khi tôi được phong tướng và được bầu vào Trung ương, thời kỳ ấy Đảng ta còn rất trong sạch, chứ đâu như bây giờ! Nay tất cả là do đồng tiền chi phối và quyết định, khác hẳn trước đây”! Biết là thất thố và không thể đối đáp tiếp, ông tướng nọ vội vàng cáo lui, lẳng lặng ra về!
Đến nay có 1/5 số ký “Kiến nghị 20” đã rời cõi tạm về nơi vĩnh hằng! Đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật và 4 đại tá: Bùi Văn Bồng, Phạm Hiện, Nguyễn Thế Trường và Lê Hồng Hà! Xin mạn phép hỏi ông Tư Sang và Ba Dũng: Vì lý do gì mà các ông không phúc đáp và trả lời 4 vấn đề nêu trong “Kiến nghị 20” gửi các ông 4 năm trước? Thực sự là do đâu? Chắc ở dưới suối vàng, 5 sỹ quan quá cố và khả kính kia sẽ không tha thứ cho 2 ông về tội đã phớt lờ bổn phận và đạo lý của mình! Bốn yêu cầu trong “Kiến nghị 20” đâu phải là những đòi hỏi vô lý, ngược lại đấy là những vấn đề rất thiết thực, nằm trong khuôn khổ và phù hợp với Hiến pháp! Trong số ký “Kiến nghị 20” có nhiều người đáng tuổi cha chú hai ông, họ góp phần xương máu trong 3 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để các ông được cơ cấu “làm đày tớ của dân” (lời Chủ tịch HCM)! Đảng bố trí các ông ngồi vào 2 trong 4 ghế tứ trụ triều đình để phục vụ ai? Các ông đã coi khinh, không lên tiếng trả lời, vậy lương tâm các ông còn không? Các ông hành xử bất tín, bất nghĩa, vô chính trị như vậy là ý muốn cá nhân hay theo chỉ đạo của ai đó, thưa 2 ông?
Mong rằng cách ứng xử thiếu văn hóa, khiếm nhã và vô đạo lý nói trên sẽ không bao giờ lặp lại trong sinh hoạt chính trị, nhất là trong tư duy của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta!
Hà Nội, ngày 2/9/2018.
N.Đ.Q.
(P/s: Xin mời quý độc giả đọc toàn văn bản “Kiến nghị 20” dưới đây:)
KIẾN NGHỊ CỦA 20 CỰU SĨ QUAN LLVT GỬI LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH PHỦ CHXHCNVN
Ngày 2 tháng 9 năm 2014
KÍNH GỬI:
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các Lực lượng Vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
- Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước một số điểm như sau.
1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”, tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình.
2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.
3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững, ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.
Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
DANH SÁCH KÝ TÊN:
1. Lê Hữu Đức, Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.
2. Trần Minh Đức, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh hậu cần Mặt trận Trị Thiên - Huế.
3. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào.
4. Lê Duy Mật, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) 1979-1984.
5. Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
6. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, nguyên Chính ủy Quân khu 4.
7. Bùi Văn Bồng, Đại tá, nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
8. Phạm Quế Dương, Đại tá, nguyên TBT tạp chí Lịch sử Quân sự.
9. Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.
10. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, Ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an.
11. Phạm Hiện, Đại tá, nguyên Chánh Văn phòng B.68 Đoàn chuyên gia giúp Campuchia.
12. Phạm Xuân Phương, Đại tá, nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị.
13. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an.
14. Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội, nguyên Chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Tạ Cao Sơn, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
16. Đoàn Sự, Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị.
17. Lê Văn Trọng, Đại tá, nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu.
18. Nguyễn Thế Trường, Đại tá, nguyên TBT báo Quân giải phóng Trung Trung bộ.
19. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự.
20. Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu ./.
Tác giả gửi BVN

NGÀY 2 THÁNG CHÍN

PHẠM ĐÌNH TRỌNG/ BVN3-9-2018

Ngày 2 tháng Chín, 2018, công an bủa vây bịt bùng trước nhà nhiều người dân trên khắp mọi miền đất nước. Hai trung tâm chính trị văn hóa, xã hội, hai không gian tiêu biểu cho đời sống dân sự đất nước, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn không những là hai nơi số người dân bị công an nhà nước cộng sản bủa vây, ngăn chặn không cho ra khỏi nhà nhiều nhất mà trên khắp đường phố Hà Nội, Sài Gòn còn rải đầy sắc áo công an, dân phòng trang bị roi điện, dùi cui, trang bị cả bộ mặt thú săn hầm hầm sát khí. Khắp các ngả đường trung tâm hai thành phố lớn nhất nước giăng trùng trùng lớp lớp rào sắt, kẽm gai.
Ngày 2 tháng Chín, 2018, Hà Nội, Sài Gòn như hai thành phố bị chiếm đóng, hai thành phố bị bạo lực nhà nước cộng sản phong tỏa. Vậy mà dịp này bộ máy tuyên truyền nhà nước cộng sản Sài Gòn đã lấy hàng tỉ tiền thuế của dân in hàng triệu tài liệu tô vẽ về ngày Quốc khánh 2.9 mang đến phát cho từng nhà dân: “Đã trở thành truyền thống, ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 là dịp cả đất nước, cả dân tộc hân hoan, náo nức mừng Tết Độc lập, cũng là dịp nghỉ lễ dài ngày để người dân nghỉ ngơi, đoàn tụ, vui chơi, giải trí cùng gia đình và bạn bè”.
Đúng là lươn lẹo tuyên huấn, nắm đấm công an. Hai đặc trưng nổi bật nhất của nhà nước cộng sản. Hai công cụ, hai sức mạnh bảo đảm lớn nhất cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản. Tồn tại bằng lừa bịp tuyên truyền và bạo lực chuyên chính và dịp 2.9 hàng năm là dịp nhà nước cộng sản Việt Nam phô trương, thi thố hai sức mạnh này rầm rộ nhất, hợm hĩnh nhất. 
Nhưng ngày 2 tháng Chín có đúng là ngày Quốc khánh, ngày Độc lập không?
Trước ngày 2.9.1945 sáu tháng, ngày 11.3.1945, tại kinh kì Huế, vua Bảo Đại tuyên bố trước quốc dân Việt Nam và thế giới rằng:  Chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Việt Nam khôi phục quyền độc lập.
Tuyên bố một nước độc lập là điều hệ trọng, lớn lao của một giống nòi, một đất nước trước lịch sử. Không phải ai cũng có thể tuyên bố. Người đứng đầu một triều đình, một nhà nước đã được lịch sử công nhận mới được quyền tuyên bố và tuyên bố đó mới hợp pháp và có giá trị lịch sử.
Triều nhà Nguyễn có công thống nhất đất nước từ mỏm cực Bắc Lũng Cú, Hà Giang đến đảo Thổ Chu, Kiên Giang chót cùng cực Nam, từ Trường Sơn đến Trường Sa. Triều nhà Nguyễn  cũng có công kế tục triều nhà Lê đưa đội binh ra trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Triều nhà Nguyễn có công rất lớn mở mang bờ cõi về phía Nam và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ ở biên cương phía Bắc, giữ nguyên vẹn toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Bảo Đại là vị vua hợp pháp của một triều đình đã trị vì Việt Nam gần 200 năm, triều đình nhà Nguyễn, là người có đầy đủ tư cách với người dân Việt Nam, với thế giới và với lịch sử tuyên bố Việt Nam độc lập và ngày Độc lập thực sự của Việt Nam là ngày 11.3.1945.
Sự cai trị, đô hộ của thực dân Pháp xâm lược đã cướp mất nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Có đầy đủ tư cách tuyên bố độc lập cho Việt Nam, người đứng đầu triều đình chính danh nhà Nguyễn chỉ tuyên bố ngắn gọn hai điều: Bác bỏ sự bảo hộ của nước Pháp và khôi phục nền độc lập cho Việt Nam. Đó là tuyên bố của giống nòi Việt Nam, tuyên bố của lịch sử Việt Nam.
Chính những người cộng sản Việt Nam đã ghi vào lịch sử nhà nước cộng sản Việt Nam rằng cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng cướp chính quyền. Chính quyền có được bằng ăn cướp, không được người dân chấp thuận bằng lá phiếu, không được bất kì nước nào trên thế giới công nhận. Hồ Chí Minh, người đứng đầu chính quyền ăn cướp bất hợp pháp không có bất kì tư cách nào để tuyên bố Việt Nam độc lập. Ngày 2.9.1945 chỉ là ngày những người cộng sản Việt Nam kết thúc việc cướp chính quyền trên toàn cõi Việt Nam mà thôi.
Chính quyền cướp được mà có nên 73 năm đã qua, vẫn một không khí bạo lực, cướp bóc rình rập bao trùm xã hội. Công cụ bạo lực rình rập trước cửa từng nhà người dân. Sức mạnh bạo lực rầm rộ triển khai giữa bình minh thành phố, giữa cuộc sống người dân. Độc lập chi mà khốn khổ vậy!
P.Đ.T.
Tác giả gửi cho BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét