Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2024

20240108. NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI TÂY NAM (1979)

  ĐIỂM BÁO MẠNG

CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC Ở BIÊN GIỚI TÂY NAM- BÀI HỌC CHO CÔNG CUỘC BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
NGUYỄN HOÀNG NHIÊN/ NHÂN DÂN 7-1-2024

Sau khi lên nắm quyền ở Campuchia (tháng 4/1975), tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary đã thi hành chế độ độc tài, phát-xít mang tính diệt chủng đối với nhân dân Campuchia và gây chiến tranh xâm lược Việt Nam.


Trưa 7/1/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng thủ đô Phnom Penh, lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, hồi sinh và mang lại tương lai tươi sáng cho đất nước Chùa Tháp. (Ảnh: TTXVN)

Từ năm 1975 đến 1978, quân Pol Pot đã mở nhiều cuộc tấn công xâm lấn vào sâu lãnh thổ nước ta, gây ra hàng loạt vụ thảm sát đẫm máu đối với nhân dân dọc biên giới Việt Nam-Campuchia. Hành động của tập đoàn phản động, hiếu chiến Pol Pot-Ieng Sary đã xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, gây tổn hại mối quan hệ giữa hai nước.

Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng, các quân khu, địa phương, đơn vị tăng cường chuẩn bị lực lượng, thế trận, kiên quyết đập tan các cuộc tấn công xâm lược của địch; đồng thời kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, tìm mọi cách cứu vãn hòa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán với chính phủ Campuchia dân chủ.

Song, tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary đã khước từ mọi thiện chí của ta, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá, xâm lược Việt Nam.

Ngày 23/12/1978, chúng huy động 10 sư đoàn mở cuộc tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, bằng các đòn phản công, tấn công thần tốc, quân và dân ta đã tiêu diệt và đánh bật quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc.

Tiếp đó, theo đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với tinh thần quốc tế trong sáng, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng tấn công giải phóng Thủ đô Phnom Penh và toàn bộ đất nước Campuchia (ngày 7/1/1979), cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam đã đập tan mưu đồ thâm độc của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bờ vực của thảm họa diệt chủng; chặn đứng âm mưu chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời của ba nước Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; tạo điều kiện khôi phục lại tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam-Campuchia.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam đã đập tan mưu đồ thâm độc của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bờ vực của thảm họa diệt chủng; chặn đứng âm mưu chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời của ba nước Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; tạo điều kiện khôi phục lại tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam-Campuchia.

Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam đã để lại nhiều bài học quý cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước hiện nay.

Một là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, do chưa nắm chắc, đánh giá đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn xâm lược của tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary nên thời gian đầu, chúng ta còn bị động trong việc xác định đối tượng tác chiến.

Sau khi xác định đúng nguồn gốc, nguyên nhân, mục tiêu gây chiến tranh của kẻ thù, Đảng ta đã đề ra đường lối, mục tiêu chính trị đúng đắn, sáng tạo, lãnh đạo quân và dân ta mở cuộc phản công, tấn công địch một cách chủ động, kiên quyết, liên tục, giành thắng lợi to lớn.

Điều đó cho thấy, để đất nước không bị động, bất ngờ, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng “phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”(1).

Đặc biệt, trước tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo như hiện nay, càng phải mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, sớm phát hiện, đánh giá đúng đối tượng và đối tác trong từng thời điểm; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động chuẩn bị về tư tưởng, lực lượng, thế trận, kịp thời xử lý thắng lợi các tình huống, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ về chiến lược.

Nhìn lại cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, bài học về đánh giá tình hình khách quan, toàn diện để sớm có chủ trương chiến lược đúng là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Hai là, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.

Mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh nhằm giữ vững hòa bình, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh. Đó là nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, ngày càng hiện đại, mang tính chất hòa bình, tự vệ, “lấy dân làm gốc”.

Từ cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam đã khẳng định, để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, chuẩn bị nguồn lực quốc gia.

Đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo đảm hợp lý trên từng địa bàn, nhất là địa bàn trọng điểm, hướng chiến lược, biên giới, biển đảo, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng thời bình và nhanh chóng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh.

Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh các vùng; tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc; thực hiện tốt phương châm “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ”.

Ba là, chăm lo xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, nhờ phát huy sức mạnh tổng hợp, lực lượng vũ trang, nòng cốt là quân đội nhân dân đã đánh bại các cuộc tấn công xâm lược quy mô lớn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước.

Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tập trung xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, nhất là về chính trị; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội.

Chăm lo xây dựng quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; bảo đảm cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên.

Điều chỉnh thế bố trí lực lượng phù hợp trên các vùng, miền, nhất là các khu vực trọng điểm về quốc phòng-an ninh, vùng biên giới, biển, đảo. Quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, chỉ lệnh về công tác huấn luyện. Đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa quân đội theo mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Bốn là, tăng cường hợp tác, đối ngoại quốc phòng với các nước, nhất là các nước láng giềng.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực cũng như mục tiêu, lợi ích, ý đồ chiến lược của từng nước, nhất là các nước lớn; không ngừng tăng cường, giữ vững quan hệ giữa ba nước Đông Dương.

Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng. Trong quan hệ đối ngoại, phải giữ vững nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; tích cực chuyển hóa đối tượng thành đối tác, gắn chặt lợi ích đối tác với lợi ích quốc phòng-an ninh, bảo vệ chủ quyền đất nước.

Tiếp tục thúc đẩy hợp tác, đưa quan hệ quốc phòng Việt Nam-Campuchia, trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ toàn diện giữa hai quốc gia, đóng góp tích cực vào hiện thực hóa phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia vì hòa bình, độc lập dân tộc và sự ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

----------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr. 552.


THIẾU TƯỚNG, TIẾN SĨ NGUYỄN HOÀNG NHIÊN

Viện trưởng Lịch sử quân sự


https://nhandan.vn/chien-thang-chien-tranh-bao-ve-to-quoc-o-bien-gioi-tay-nam-bai-hoc-cho-cong-cuoc-bao-ve-chu-quyen-dat-nuoc-post790960.html

TIN LIÊN QUAN:

'GỌI TÊN GÌ CHO CUỘC CHIẾN VIỆT NAM-CAMPUCHIA 1979?'

TRƯƠNG NHÂN TUẤN/FB/TD 7-1-2024


Trên RFA có bài phỏng vấn GS Vũ Tường bên Mỹ về chủ đề “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam - Campuchia 1979?”.
Theo nhận xét của tôi thì bài này có [rất] nhiều sự kiện cần được bàn luận lại. Hiện thời trong nước có rất nhiều sử gia, nhiều nhân chứng “có tham dự” cuộc chiến Việt Nam - Campuchia. Dĩ nhiên có rất [nhiều người] thông thạo về cuộc chiến này. Hy vọng họ sẽ lên tiếng để “rộng đường dư luận”.
nhân tôi, “chuyên gia nghiệp dư về biên giới và lãnh thổ”, cũng có một số kiến thức về cuộc chiến này. Theo tôi thì Việt Nam gọi cuộc chiến này là “Chiến tranh biên giới Tây Nam”. Một số học giả quốc tế gọi đây là “chiến tranh ủy nhiệm. Khmer đỏ đánh Việt Nam là đánh cho Trung Quốc. Việt Nam lấy danh nghĩa 'tự vệ chính đáng' nhưng khi đánh qua Campuchia là đánh cho Liên Xô”.
Cá nhân tôi cho rằng cả hai cái tên này đều đúng. Nhưng nguyên nhân sâu xa khiến chiến tranh xảy ra là vấn đề lãnh thổ. Trung Quốc luôn lợi dụng mâu thuẫn giữa Việt Nam và Campuchia về lãnh thổ để ngư ông đắc lợi. Bài viết sau đây trích lại từ một khảo luận của tôi về biên giới Việt Nam - Campuchia từ hai thập niên trước. Đăng lại cũng để “rộng đường dư luận”.
***
Biên giới Việt-Miên từ năm 1862 đến năm 1945:
Năm 1856, vua Khmer là Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó có tên mới là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.
[Trong] nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.
Lãnh đạo Pháp ở địa phương, đô đốc Pierre-Paul de La Grandière, quyết định phân định biên giới (Việt Nam - Campuchia và Campuchia - Thái Lan), mục đích xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cùng với sự thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.
Pháp (đại diện bên Campuchia) ký kết hiệp ước với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, theo đó Xiêm cam kết từ bỏ quyền “thuợng quốc” của Xiêm đối với Khmer. Đổi lại, Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer vùng hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh thổ Campuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Việc phân định biên giới Thái Lan - Khmer phù hợp với thực tế “biên giới hiện trạng”. Trước khi Pháp vào Campuchia, vương quốc Khmer phải chịu thần phục cả hai bên Việt Nam và Thái Lan. Tả ngạn sông Cửu long thuộc ảnh hưởng triều đình Huế và hữu ngạn thuộc Thái Lan.
Lập trường ở Paris, khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với Nặc Ông Dương ký năm 1863, chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có kết ước 1863 thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu sự bảo hộ của Việt Nam. Việt Nam chịu bảo hộ của Pháp thì Khmer cũng chịu sự bảo hộ này. Điều này hoàn toàn phù hợp với “luật lệ quốc tế” trong thời kỳ.
Về lãnh thổ của Khmer nhượng cho Thái theo hiệp ước 1867, Pháp sửa chữa lại nhân ký hiệp ước Pháp - Xiêm 1893 phân định lãnh thổ. Các tỉnh của Campuchia nhượng cho Thái trước kia được Pháp lấy lại.
Biên giới Việt - Miên được phân định qua hai thời kỳ: Năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc. Vùng đất gọi là “Mỏ vịt” (tỉnh Sveyrieng) thuộc về Việt Nam. Sau đó phía Miên phản đối, đòi lại vùng đất này. Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Campuchia. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Năm 1887, khối Đông Dương được thành lập. Campuchia là một thành phần, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Quốc gia Lào chỉ được thành lập năm 1893, do yêu cầu của ông August Pavie.
Đường biên giới giữa Cochinchine (miền Nam) và Campuchia trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông Dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac thì được sáp nhập vào Việt Nam năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai: Việt Nam nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhượng vùng đất phía nam nước này cho Campuchia. Năm 1923, vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.
Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140° so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Campuchia và các đảo phía nam thuộc Việt Nam, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt - Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.
Một số học giả Campuchia hiện nay cho rằng, Pháp đã thiên vị Việt Nam lúc phân định biên giới. Vì vậy họ có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Dĩ nhiên điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc "Uti possidetis" của công pháp quốc tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.
Vì vậy, lập luận của một vài học giả Campuchia hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.
Vì thế, đòi hỏi của các học giả Khmer đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới luôn thay đổi. Ông này lúc thì dựa vào Nhật, lúc thì dựa vào Trung Quốc để yêu sách Việt Nam về lãnh thổ.
Năm 1945, khi Nhật đến thì Sihanouk lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, Sihanouk nghĩ rằng sẽ được Trung Quốc giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh Việt Nam, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Campuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống Việt Nam vì họ cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất.
Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa Việt Nam và Campuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Biên giới Việt-Miên 1945-1954
Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Sihanouk đơn phương tuyên bố Campuchia độc lập.
Tháng 6 năm 1945, Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho Campuchia, thay vì trả cho triều đinh Huế.
Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có quy chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion.
Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.
Pháp vào lại Việt Nam, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến Việt Nam, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền Bắc. Pháp vào lại Việt Nam, tổ chức lại các nước Đông Dương trở thành Khối liên hiệp Pháp.
Về phía Việt Nam, Bảo Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Bảo Đại hứa đồng ý nếu Pháp trả Nam Kỳ và Pháp nhìn nhận nước Việt Nam là một nước thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại trong Hiệp định Genève 1954.
Quốc gia Việt Nam được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế công pháp. Việt Nam cùng với Lào và Campuchia, trở thành những “quốc gia liên kết” trong khối Liên hiệp Pháp.
Phái đoàn của Campuchia được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho Campuchia. Lý lẽ của phái đoàn Campuchia là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ vì vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Campuchia chớ không thể trả cho triều đình Huế.
Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo lưu nào về lãnh thổ.
Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của Campuchia thì được một số dân biểu cánh tả của quốc hội Pháp ủng hộ.
Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội Campuchia cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới. Những người này cho rằng, biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia chưa bao giờ được phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt hại cho Campuchia. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.
Căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề Việt Nam. Ông này nghĩ rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây.
Hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về lãnh thổ của Campuchia gồm 6 giải pháp, nội dung dẫn lại sơ lược như sau:
Hoặc trả lại cho Campuchia toàn vùng đất phía hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiền Giang, đồng thời tàu bè Campuchia có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.
Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn đồng thời dân Khmer sống trên đất Việt Nam phải được bảo vệ.
Hoặc phải “quốc tế hóa Nam Kỳ”, kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có quy chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.
Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Campuchia được quyền thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng thương cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VNCH bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem rằng Campuchia có chính đáng được hưởng các quyền này hay không? Cuối cùng thì các quyền này của Campuchia bị Việt Nam bác bỏ dưới thời ông Diệm.
Biên giới Việt Nam - Campuchia 1954 đến 1975
Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.
Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH buộc phải đi vào đất của Campuchia. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955. Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo Việt Nam, trong khi trên thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía Việt Nam. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi “quyền lịch sử” của Campuchia trên lãnh thổ Việt Nam.
Đến năm 1960 lực lượng Mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) được thành lập. Tổ chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Campuchia, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH “nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Campuchia”, trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ thương lượng lại với Campuchia về vấn đề lãnh thổ.
Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân chính quy miền Bắc sau này.
Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng 8 năm 1963, Campuchia tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.
Sau khi ông Diệm bị đảo chánh ngày 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và Campuchia vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào Việt Nam, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên đất Campuchia nhằm phá hoại đường mòn Hồ Chí Minh… các việc này gây ra những thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Campuchia.
Tháng 7 năm 1965, Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Campuchia sau đó rút về, vì lý do bên Campuchia có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của Campuchia.
Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng kêu gọi quốc tế ủng hộ Campuchia, nhìn nhận “đường biên giới hiện trạng” của nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Năm 1966, Pháp ủng hộ Campuchia “trung lập”. Nhưng việc này không thuyết phục vì trên lãnh thổ Campuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế từ bắc vào nam gọi là đường mòn Hồ Chí Minh.
Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970. Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của CSVN rút khỏi Campuchia. Cũng như bất kỳ một người Campuchia nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt.
Trong khi đảo chánh xảy ra, các cuộc thảm sát thường dân Việt Nam đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội miền Nam.
Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yểm trợ và huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Campuchia hoàn toàn do quân đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhóm có khuynh hướng bài Việt. Những nhóm này cũng giết chóc, khủng bố, đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo không cộng sản khác của Campuchia.
Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân Việt Nam sống trên đất Campuchia, trở thành con tin bị các phía Campuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được, nhưng dân chúng Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này.
Từ năm 1975 đến nay
Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông Dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ.
Vấn đề biên giới, Campuchia không chỉ có tranh chấp với Việt Nam mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart, cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, nhưng nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt - Miên.
Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm Sài Gòn, tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam kết của CSVN: "Nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Campuchia" trong thập niên 1960 về vấn đề lãnh thổ của Campuchia. Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự “toàn vẹn lãnh thổ” của hai nước.
Nhưng nhóm Khmer đỏ thân Trung Quốc trong phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên tiếng đòi Việt Nam trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là “Khmer Krom”.
Điều nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của Trung Quốc từ xưa nay là chống lại Việt Nam thống nhất, cũng như chống lại việc Việt Nam quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô. Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Campuchia hòa hoãn hay thân thiện với Việt Nam thì Trung Quốc sẽ không có cách gì để phá vỡ thế cô lập.
Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc Kinh, cũng như “đồng minh bất đắc dĩ” của Trung Quốc là Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên Việt Nam và Campuchia vào thế đối đầu. Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và Trung Quốc, một tư bản, một cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại Việt Nam.
Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Để kích thích Việt Nam vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường lệ, những người dân Việt Nam sinh sống ở Campuchia lại trở thành nạn nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về Việt Nam. Con số bị giết không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ.
Tháng 6 năm 1976, Việt Nam gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư Đông Dương ấn hành năm 1954, trong khi phía Việt Nam thì nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên biển.
Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã tiến sang Việt Nam đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản ứng của quân Việt Nam, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, Việt Nam mở một cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng, khiến quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Chiến tranh Việt - Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến “ủy nhiệm”. Pol Pot đánh Việt Nam là đánh cho Trung quốc. Còn Việt Nam đánh [Khmer đỏ] là đánh cho Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, quân Việt Nam tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và thành lập chính phủ thân Việt Nam ở đây. Cùng với chính phủ này, Việt Nam đã ký kết các hiệp định “các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới”. Trên đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.
Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng, Việt Nam tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông Dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng Việt Nam đã chiếm vùng “mỏ vịt”, tức là tỉnh Svay Rieng.
Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận về “vùng nước lịch sử” trong khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước".
Đảo Wai được Việt Nam trả lại cho Campuchia
Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại “Hiệp ước hoạch định biên giới”. Ngày 10-10-2005 ký thêm “Hiệp ước bổ sung” về biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc lãnh thổ của Campuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.
Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh, Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại Việt Nam.
Cũng vì lý do này mà đất nước Campuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là, nhà nước này do Trung Quốc dựng lên, lúc đó ông là một thành phần của nhà nước này.
Tuy vậy, hiện nay Trung Quốc vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại Campuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế Trung Quốc hiện nay là do 10 dòng họ người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng chống đối Việt Nam.
****
VN xâm lược Campuchia 1979 ?
Trở lại chủ đề "Gọi tên gì cho cuộc chiến VN-Campuchia 1979" qua bài phỏng vấn GS Vũ Tường trên RFA. GS Tường cho rằng đây là một cuộc chiến "xâm lược", qua ý kiến như sau :
"...từ "xâm lược" thể hiện trần trụi bản chất của cuộc chiến là một cuộc tiến công quân sự và chiếm đóng của Việt Nam vào một nước khác có chủ quyền. Vì vậy đây là từ khách quan nhất dù Việt Nam dĩ nhiên không thích nó."
Tôi thấy GS Tường không nói gì về vai trò của Mỹ trong cuộc chiến này. Đây là một thiếu sót lớn.
Theo tôi không phải cái gì Mỹ làm đều đúng. Mỹ "công nhận" Khmer đỏ, vốn là một tập đoàn diệt chủng, như là đại diện chính thống của quốc gia Campuchia tại LHQ. Mỹ không chính thức ủng hộ Polpot nhưng lại khuyến khích TQ ủng hộ chế độ diệt chủng này.
VN đánh trả Khmer đỏ, tương tự Mỹ đánh Afghanistan để diệt Bin Laden với danh nghĩa "tự vệ chính đáng". Mỹ ở lại Afghanistan 20 năm. VN ở lại Cambodge 10 năm. Nếu Mỹ có lý do chính đáng, vậy VN có lý do chính đáng hay không ?
Khmer đỏ vốn là "con đẻ" của CSVN. Hầu hết cán bộ Khmer CS đều do CSVN huấn luyện. Vũ khí của Khmer đỏ cũng do VN viện trợ, mặc dầu số lượng lớn vũ khí được chuyển từ TQ. Vừa chiếm được Nam Vang Khmer đỏ liền trục xuất 150 ngàn người Việt đồng thời đem quân đánh qua lãnh thổ VN, với mục đích dành đất. Vấn đề là Khmer đỏ đã giết hàng chục ngàn dân VN vô tội trong các cuộc tấn công này.
Khmer đỏ chiếm được giang sơn không hề lên tiếng biết ơn CSVN mà còn đâm sau lưng VN, với mục tiêu "lấy lại đất", mà chuyện này có thể thương thảo bằng các biện pháp hòa bình.
Rõ ràng Mỹ chơi chiêu "tiêu chuẩn kép".
Đặng Tiểu Bình "dạy VN một bài học". Mỹ ủng hộ TQ đánh VN tức Mỹ ủng hộ việc "ngồi xổm" lên luật quốc tế. Bởi vì TQ là phía xâm lược.
Mỹ lại chống VN tự vệ, tức chống lại nội dung Hiến chương LHQ trong khoản "quyền tự vệ chính đáng đơn phương hay đa phương".
Đồng thời Mỹ ủng hộ chế độ diệt chủng Khmer đỏ.
Nhận định của GS Vũ Tường thiên lệch, vì đã không dẫn ra những dữ kiện mấu chốt này.
Và Campuchia dưới thời Khmer đỏ có phải là một "quốc gia có chủ quyền" hay không ?
Có hay không, điều này tùy thuộc vào quan điểm của các bên. Chuyện này có dịp sẽ bàn lại.
Mỹ cùng với TQ nhìn nhận chính phủ Khmer đỏ, giúp chế độ diệt chủng này ngồi ghế đại diện ở LHQ đến năm 1993.
Cây hỏi (phụ) đặt ra để GS Tường suy ngẫm là Mỹ có trách nhiệm về các vụ diệt chủng ở Campuchia hay không ? Sự vắng mặt của Mỹ, với vai trò nhân chứng, ở các phiên tòa xử các đồ tể như Pol Pot, Khieu Samphan, Noun Chea, Ieng Sary... có hợp lý hay không ?
Theo tôi, tên gọi cuộc chiến VN-Campuchia 1979, nói như các học giả quốc tế, là "chiến tranh ủy nhiệm". VN gọi là "chiến tranh biên giới Tây-Nam. Ý kiến cá nhân của tôi, tên gọi cuộc chiến sẽ là "chiến tranh tự vệ VN-Khmer đỏ 1979".
VN có quyền "tự vệ chính đáng" để đánh qua lãnh thổ Campuchia nhằm trừng phạt tập đoàn Khmer đỏ gây tội ác diệt chủng ở các tỉnh ven biên VN. VN đuổi tập đoàn diệt chủng Khmer đỏ ra khỏi chính quyền có mục đích "tự vệ chính đáng" nhưng điều này đã giúp dân tộc Khmer được trường tồn.
Dân Campuchia đến nay vẫn còn biết ơn quân VN vì lý do này.
Mỹ đổ quân vào Afghanistan cũng với lý do "tự vệ chính đáng". Vấn đề là đến nay không thấy người Afghanistan nào "mang ơn" Mỹ hết cả.

Nhân Tuấn Trương

https://www.facebook.com/nhantuan.truong?__cft__[0]=
https://www.facebook.com/tiengdanbao?__cft__[0]=








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét