Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2022

20220625. ĐÁNH GIÁ SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU

 ĐIỂM BÁO MẠNG


KHỦNG HOẢNG KÉP CHƯA TỪNG CÓ TIỀN LỆ

HẢI LỘC/ TVN 24-6-2022

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này có 2 đặc điểm nổi bật, chưa có tiền lệ so với các cuộc khủng hoảng trước mà nhân loại từng chứng kiến.

Cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra được nối tiếp bởi khủng hoảng kinh tế gắn liền với cuộc xung đột Nga - Ukraine. Hai cuộc khủng hoảng xảy ra liên tiếp, có phần chồng lên nhau, khủng hoảng sau làm trầm trọng thêm khủng hoảng trước, để lại hậu quả rất xấu, kéo dài.

Chưa từng có tiền lệ

Cả hai cuộc khủng hoảng kinh tế chủ yếu đều bắt nguồn từ đứt gãy nguồn cung hàng hóa thiết yếu đối với sản xuất, kinh doanh, cũng như đời sống hằng ngày của con người. Và đứt gãy nguồn cung lao động.

Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch gây ra đến nay đang ở giai đoạn cuối. Song hiện vẫn có 4 khu vực trên thế giới ghi nhận số ca mắc tăng cao là Đông Địa Trung Hải; Tây Thái Bình Dương (trong đó Trung Quốc, Australia và Nhật Bản là những nước có số ca mắc cao nhất); châu Mỹ và châu Phi.

Các nước lớn đang tìm cách phục hồi tăng trưởng kinh tế và nhất là xử lý các mất cân đối do thực hiện các giải pháp ứng phó với Covid-19 như các gói hỗ trợ khủng; nới lỏng tài chính, tiền tệ…

Thực tế cho thấy phục hồi kinh tế sau đại dịch, nhất là việc xử lý các hậu quả do việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ là không dễ dàng, không nhanh do thiếu kinh nghiệm, cần nhiều thời gian hơn so với dự kiến trước đây.


Chiến sự Nga - Ukraine chưa thấy hồi kết, nên khủng hoảng kinh tế chưa ai đoán được điểm dừng

Thứ hai, cuộc khủng hoảng kinh tế gắn liền với chiến sự Nga - Ukraine gây ra. Đó là đòn trừng phạt kinh tế tăng dần của các nước phương Tây đối với Nga. Và sự trả đũa cũng rất mạnh mẽ không kém của Nga đối với các nước phương Tây. Cuộc xung đột chưa thấy hồi kết, nên khủng hoảng kinh tế chưa ai đoán được điểm dừng. Thực chất đã hình thành hai phe. Mới đây, Chủ tịch Duma quốc gia Nga Vyacheslav Volodin đưa ra đề xuất tạo điều kiện để hình thành “Nhóm G8 mới”.

Một mặt, cuộc khủng hoảng thứ hai gây khó khăn lớn, tệ hại cho tiến trình phát triển kinh tế toàn cầu. Mặt khác, nó làm trầm trọng thêm những khó khăn do đại dịch gây ra; làm thui chột thành quả phục hồi kinh tế thời gian qua. Vì vậy, hậu quả xấu để lại đối với tiến trình phát triển kinh tế toàn cầu cũng tăng lên gấp bội.

Cả hai cuộc khủng hoảng kinh tế kế tiếp nhau, chồng lên nhau đều bắt nguồn chủ yếu từ sự gián đoạn nguồn cung, kéo dài, nhất là về những mặt hàng vô cùng thiết yếu đối với phát triển kinh tế và đời sống hàng ngày của con người.

Thực chất nó tạo ra 2 cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu: Khủng hoảng về năng lượng và khủng hoảng về lương thực, thực phẩm. Thí dụ, theo dữ liệu từ Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế, 20 quốc gia và khu vực đã có lệnh cấm xuất khẩu lương thực, bao gồm lúa mì, đậu tương, thịt bò, bơ và đường. Đường không chỉ là thực phẩm, mà được nhiều quốc gia coi là nguồn tài nguyên chiến lược, vì nó không chỉ được sử dụng trong thực phẩm mà còn được dùng để sản xuất ethanol với nhiều ứng dụng khác nhau, từ y học đến chất nổ.

Tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos, ông David Beasley, Giám đốc điều hành FAO của Liên hợp quốc cảnh báo, thế giới đang đối mặt với cuộc khủng hoảng đói ăn tồi tệ nhất kể từ Thế chiến 2. Theo ông, "vấn đề giá cả đáng kể" có thể tiếp diễn trong vòng 10-12 tháng tới. Ông lưu ý, khoảng 325 triệu người trên khắp thế giới đang cận kề nguy cơ chết đói, gấp 4 lần mức 5 năm trước. Còn Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres cảnh báo, hàng trăm triệu người có thể lâm vào cảnh “thiếu ăn và bần cùng” vì tình trạng thiếu lương thực. Ukraine là một trong những nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới.

Vì vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lần này sẽ vô cùng nặng nề, kéo dài, rất khó đoán định.

Sự thất bại của chủ nghĩa kinh nghiệm

Để chống khủng hoảng kinh tế lần này, việc vận dụng kinh nghiệm trước đây chưa chứng tỏ hiệu quả.

Các quốc gia, cả những quốc gia có nhiều kinh nghiệm xử lý khủng hoảng kinh tế trước đây, kể cả cuộc khủng hoảng gần nhất (2007-2009), nay đều tỏ ra rất lúng túng.

Chẳng hạn, ai cũng nhận thức được rằng về mặt lý thuyết và thực tiễn, một khi cầu về hàng hóa tăng, thì ắt cung cũng tăng lên theo để đáp ứng. Kích cầu trong chống khủng hoảng kinh tế là kinh nghiệm thành công đối với phần lớn các quốc gia trước đây.

Nhưng lần này, giải pháp kích cầu gần 2 năm qua chẳng những không mang lại hiệu quả như mong muốn, mà còn tạo nên mất cân đối cung - cầu trầm trọng hơn, làm cho lạm phát bùng nổ trên toàn cầu, vượt đỉnh 30, 40 thậm chí 50 năm qua, mà thường bắt nguồn từ các nước có nhiều kinh nghiệm trong xử lý khủng hoảng trước đây.

Mỹ là một thí dụ điển hình. Gần 2 năm nay, Mỹ chủ yếu thực hiện các giải pháp kích cầu như các gói hỗ trợ khổng lồ; nới lỏng chính sách tài chính - tiền tệ…, kinh tế phục hồi không như mong muốn, nhưng tạo ra đại họa là lạm phát bùng nổ. Mỹ đã nhận ra sai lầm và đang sửa sai: “hy sinh” tăng trưởng kinh tế, thậm chí thà chịu suy thoái kinh tế để chống lạm phát.


Mỹ đang chịu suy thoái kinh tế để chống lạm phát

Hệ lụy nặng nề

Hậu quả xấu của cuộc khủng hoảng kép lần này là rất nặng nề, toàn diện, cả địa kinh tế lẫn địa chính trị. Dưới đây chỉ nêu một số hệ lụy, chủ yếu là khủng hoảng kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. 

Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa về kinh tế đã hình thành trong hơn 30 năm qua, góp phần đưa nền kinh tế toàn cầu phát triển, bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí đã xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng giai đoạn toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang đi đến hồi kết (Hội nghị Davos cuối tháng 5 và nhiều nghiên cứu khác…). Nhiều dự báo cho rằng một trật tự và quan hệ kinh tế quốc tế hoàn toàn mới đã và đang hình thành từ cuộc khủng hoảng kép, khác xa với những gì hình thành trong hơn 30 năm qua.

Với tư cách là nước có độ mở kinh tế rất cao, Việt Nam đã ký hàng chục hiệp ước, hiệp định kinh tế với các khối nước, các quốc gia. Vậy các văn bản đó còn có hiệu lực như ban đầu nữa không? Thay đổi theo hướng nào? Chúng ta chuẩn bị ứng phó ra sao?

Thứ hai, cuộc khủng hoảng kép kéo theo hay làm nảy sinh 2 cuộc khủng hoảng rất nguy hiểm khác, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế toàn cầu và đời sống của người dân trên thế giới. Đó là khủng hoảng năng lượng và khủng hoảng lương thực, thực phẩm (giá năng lượng, giá lương thực, thực phẩm tăng rất mạnh, tăng cao, kéo dài…).

Ông António Guterres hôm 8/6 báo động hậu quả cuộc xung đột Nga - Ukraine ngày càng trầm trọng, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến 1,6 tỉ người, tức 1/5 dân số toàn cầu. 

Thứ ba, hệ lụy đặc trưng của cuộc khủng hoảng lần này là: Kinh tế thế giới suy giảm sâu, kéo dài, thậm chí không loại trừ khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu trong thời gian tới; lạm phát tăng vọt.

Trong Báo cáo “Triển vọng kinh tế toàn cầu” ngày 7/6, Ngân hàng Thế giới cảnh báo thế giới đang bước vào “thời kỳ tăng trưởng yếu kéo dài và lạm phát gia tăng”; hạ 1,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng toàn cầu năm nay từ 4,1% xuống 2,9%.

OCDE dự báo tỉ lệ tăng trưởng thế giới năm nay sụt giảm mạnh, lạm phát tăng vọt. Kinh tế gia Laurence Boone trong phần giới thiệu bản báo cáo mang tên “Cái giá của chiến tranh” báo động: “Một cuộc khủng hoảng nhân đạo đang diễn ra trước mắt chúng ta, với hàng ngàn người tử vong, hàng triệu người phải di tản, đe dọa quá trình phục hồi kinh tế đang diễn ra sau 2 năm đại dịch”.

Tổ chức này dự báo GDP toàn cầu sẽ tăng trưởng 3% trong năm 2022, giảm mạnh so với mức 4,5% được đưa ra hồi tháng 12/2021 do ảnh hưởng của tình hình xung đột tại Ukraine. Bên cạnh đó, OECD còn nâng gấp đôi mức dự báo lạm phát trong nhóm 38 nước thành viên lên 8,5%, đánh dấu mức cao nhất kể từ năm 1988…

Suy giảm sâu về tăng trưởng kinh tế lần này, thậm chí suy thoái kinh tế và lạm phát tăng vọt không chỉ kéo dài 2 năm (2022-2023), như trước đây thường nhắc tới, mà nhiều khả năng kéo dài lâu hơn nữa.

Hải Lộc

TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KÉP ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM

HẢI LỘC/TVN 25-6-2022

Những dấu ấn của khó khăn

Kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế năm 2022 và cả năm 2023. Chỉ tạm nêu một số khó khăn, thách thức lớn, trước mắt.

Thứ nhất, trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, trước mắt ít nhất có 3 vấn đề cần quan tâm.

Nông nghiệp: Ngành chăn nuôi đang đối mặt với những khó khăn khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, trong khi giá đầu ra chưa tăng tương ứng. Người nuôi heo khốn đốn vì giá thức ăn chăn nuôi tăng 15 đợt trong gần 2 năm.

Khai thác thủy sản chịu ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu, nhiều tàu thuyền không thể ra khơi, thậm chí có người đã phải bán tàu, thuyền. Đang vụ cá Nam, mà khai thác thủy sản giảm 1% so với cùng kỳ…

Từ đó, dự báo giá thực phẩm có thể tăng vào những quý tiếp theo trong năm.

Công nghiệp, xây dựng: Tăng trưởng tuy có phục hồi, nhưng còn chậm so với năm trước: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng 5 ước tính tăng 4% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, IIP ước tính tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 10%).

Thậm chí một số lĩnh vực quan trọng còn bị tăng trưởng âm: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastics giảm 13,8%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 9,8%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 2,6%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên, khai khoáng khác cùng giảm 1,7%...


Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, tăng trưởng tuy có phục hồi, nhưng còn chậm so với năm trước

Ngành xây dựng có mức tăng thấp, phản ánh khó khăn của ngành này khi triển khai giải ngân vốn đầu tư và thực hiện xây lắp do giá vật liệu xây dựng tăng cao, mặc dù Chính phủ liên tục đôn đốc các bộ, ngành, địa phương giải ngân vốn đầu tư.

- Khu vực doanh nghiệp, vốn đóng góp trên 60% vào GDP, vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn.

Số vốn đăng ký mới trong 5 tháng đầu năm nay đạt 761.035 tỷ đồng, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2021. Điều cần quan tâm là cần khoảng thời gian nhất định để đi vào hoạt động sản xuất, tạo tăng trưởng cho nền kinh tế. Trong khi đó, cũng trong 5 tháng đầu năm, có 71.805 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, chờ làm thủ tục giải thể và giải thể, tăng đến 20,0% so với cùng kỳ năm 2021. Điều này cho thấy những khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp chưa được khắc phục để duy trì sản xuất, kinh doanh.

Thứ hai, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: Xu hướng thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu đang gia tăng mạnh, gây cản trở không nhỏ trong việc triển khai thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế do chiến sự Nga - Ukraine gây ra làm tăng mạnh chi phí đầu vào đối với sản xuất kinh doanh trong nước (nguyên, nhiên liệu...).

Lãi suất USD tăng cao gây áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam.

"Chiến lược zero-Covid không khoan nhượng" tại Trung Quốc, thực hiện các hạn chế về hoạt động và đi lại, đã làm chậm lại các hoạt động kinh tế của quốc gia này và không chỉ có thể gây ra những tắc nghẽn mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu nói chung, mà chắc chắn gây tắc nghẽn mạnh chuỗi cung ứng đối với nước ta, bởi Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Lạm phát và sức cầu toàn cầu yếu hơn và gián đoạn nguồn cung ảnh hưởng đến triển vọng kinh tế. Áp lực lạm phát cao trong năm nay vẫn đang hiện hữu, chủ yếu xuất phát từ: giá nguyên vật liệu, hàng hoá và dịch vụ thế giới tăng cao; giá dầu thô dự báo tăng trong những năm tới do nhu cầu tăng mạnh, trong khi nguồn cung hạn chế và thị trường dầu thô trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua, nhất là trong điều kiện Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Đó là chưa kể khi kinh tế phục hồi trong năm 2022, nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng cũng gây sức ép không nhỏ lên giá cả.

Tăng trưởng thấp đi, lạm phát ngóc dậy

Do phần lớn các động lực tăng trưởng kinh tế nước ta đều chịu tác động tiêu cực, nên tạm dự báo tăng trưởng kinh tế năm nay cũng chỉ xoay quanh con số 5,5% trở lại.

Trong khi đó, năm 2022, lạm phát tạm dự báo trên 6%; năm 2023 lạm phát ít nhất trên 7%. Tại sao vậy?


Việc đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và thiếu hụt lao động tạo áp lực không nhỏ đối với khu vực doanh nghiệp

Tuy lạm phát trong 5 tháng đầu năm được kiểm soát, bình quân 5 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,25% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,29% của 5 tháng đầu năm 2021, nhưng áp lực lạm phát năm 2022 và nhất là năm 2023 là rất nặng nề. Ít nhất do 3 nhóm nguyên nhân chính gây ra áp lực lạm phát cao.

Một, đứt gãy chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát trong thời gian tới. Nguyên nhân gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và lao động đã nói kỹ ở phần trên. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ 37% chi phí nguyên, vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên, vật liệu của toàn nền kinh tế. Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu - chiếm 50,98%.

Việc đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và thiếu hụt lao động tạo áp lực không nhỏ đối với khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong nỗ lực khôi phục hoạt động sản xuất trở lại bình thường. Để có đủ lao động, doanh nghiệp và hộ kinh doanh phải trả lương cao hơn, tăng chi phí đào tạo và tuyển dụng, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm. Đây cũng là yếu tố gây áp lực lạm phát của nền kinh tế trong năm 2022 v

Đối với nước ta, xăng dầu là mặt hàng chiến lược,chiếm 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn bộ nền kinh tế, chiếm 1,5% trong tổng chi tiêu dùng của hộ gia đình, sử dụng tại hầu hết các ngành, lĩnh vực nên biến động giá xăng dầu sẽ tác động mạnh đến giá sản xuất và giá tiêu dùng.

Khi giá xăng dầu trong nước tăng 10% sẽ làm cho lạm phát tăng 0,36%. Nhiều người tưởng rằng sử dụng xăng dầu sản xuất trong nước thì có thể được hưởng giá rẻ. Thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Hiện nay, xăng dầu sản xuất trong nước chiếm từ 70-75% tổng nguồn cung. Nhưng sản xuất xăng dầu trong nước cũng phụ thuộc vào nhập khẩu dầu thô. Do đó, biến động giá xăng dầu trong nước phụ thuộc gần như hoàn toàn vào biến động giá thế giới.

Với kinh tế Việt Nam, xăng dầu có tác động sâu, rộng tới các ngành và lĩnh vực, dự báo trong năm nay giá tăng vọt và đứng ở mức cao sẽ gây nên áp lực lạm phát và tạo mặt bằng giá mới cao hơn của nền kinh tế.

Ngoài ra, giá nguyên, vật liệu, kim loại công nghiệp, phân bón, thức ăn chăn nuôi, giá lương thực thế giới tăng cao, vượt dự báo của nhiều tổ chức tài chính và kinh doanh hàng hóa quốc tế.

Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu. Điều rất đáng chú ý là khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06%, đồng nghĩa với gia tăng lạm phát, do đó rủi ro nhập khẩu lạm phát là không thể tránh khỏi trong bối cảnh các nền kinh tế là đối tác thương mại lớn, quan trọng hàng đầu như Mỹ, EU, Hàn Quốc... đều dự báo lạm phát ở mức rất đáng lo ngại.

Ba, tổng cầu tiếp tục tăng và không loại trừ khả năng tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng cũng là nguyên nhân rất quan trọng gây lạm phát không chỉ trong năm 2022, 2023 mà có thể vài năm sau đó nữa.

Như vậy, do thiếu hụt nguồn cung; tổng cầu tăng; thiếu hụt lao động và tăng lương tối thiểu vùng cũng như giá xăng dầu, giá điện dự báo tăng do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng trong thời gian tới; giá lương thực tăng theo giá lương thực thế giới… do đứt gãy chuỗi cung ứng và nhu cầu tiêu dùng cuối năm tăng, lạm phát của nước ta năm nay, người viết tạm dự báo nằm trong khoảng trên 6%.

Lạm phát ở nước ta luôn có độ trễ cao so với thế giới, do đó với các tư liệu có được, dự báo năm 2023 lạm phát vẫn ở mức cao so với lạm phát mục tiêu của các nền kinh tế là đối tác quan trọng, người viết cũng tạm dự báo lạm phát năm 2023 của Việt Nam trên 7%.

Hải Lộc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét