Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019

20190619. VIẾT NHÂN NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM 21/6

ĐIỂM BÁO MẠNG

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

VÕ VĂN THƯỞNG/ TVN 17-6-2019

Kết quả hình ảnh cho VÕ VĂN THƯỞNG

Võ Văn Thưởng-Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng-Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

1. Cuối năm 2018, khởi lên từ đoạn video của một nghệ sĩ accordion thể hiện sự bất mãn về chính sách thuế được đưa lên mạng xã hội, những cuộc biểu tình mang tên “Phong trào áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên trong suốt thời gian qua ở Pháp. Phong trào lan nhanh bởi những lời kêu gọi phát tán trên mạng xã hội đã thổi bùng cơn giận dữ, vượt xa mục tiêu ban đầu là kích động biểu tình để phản đối chính sách, trở thành bạo loạn.
Nhìn lại các cuộc “cách mạng màu” hay các cuộc biểu tình bạo động mang hơi hướng của “cách mạng màu” được hiện đại hóa trong mấy thập niên gần đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi bùng bằng kích động, tổ chức và thông tin, khiến ban đầu là các phong trào đường phố, đi đến bạo động và hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ như ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ Latinh (1). Truyền thông xã hội, tin giả đã trở thành từ khóa làm nhiều người liên tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động khiến cả châu Âu và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Ngay tại Mỹ, sau những cuộc biểu tình chiếm phố Wall (năm 2011), giới chính trị gia đã chỉ trích đích danh Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn”. Báo chí phương Tây cũng đúc rút phương thức dùng truyền thông xã hội tạo nên những “đám đông” kích động, đó là: châm ngòi xuống đường; triệt để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những cái chết để tạo cớ bạo loạn; sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội để kích động và liên kết trong, ngoài (2).
Truyền thông xã hội là một “dòng chảy thông tin” trên nền tảng, dịch vụ công nghệ cho phép người dùng tạo ra, chia sẻ, trao đổi, thảo luận và thay đổi các nội dung, thiết lập thành các mạng lưới liên kết và tương tác xã hội (3). Truyền thông xã hội, nhất là mạng xã hội liên tục được nâng đỡ, hỗ trợ bởi những công nghệ mới, ngày càng tiện ích hơn, trở thành kênh quan trọng, thúc đẩy quá trình giao tiếp và kết nối xã hội. Các thuật toán cho phép các nền tảng truyền thông xã hội thiết lập các cộng đồng hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau (diễn đàn, nhóm, hội công khai, hoặc bí mật...) có thể thu hút từ hàng nghìn lên đến hàng triệu thành viên, không giới hạn về địa lý, thành phần xã hội. Sự tiếp cận đến từng cá nhân người dùng với tốc độ nhanh tạo ra nhiều cơ hội và lợi ích về truyền tải, tiếp nhận, chia sẻ, thông tin, tri thức; phục vụ các nhu cầu đa dạng của cộng đồng như: kết bạn, giải trí, kinh doanh, bày tỏ quan điểm, phản biện xã hội, lan tỏa những điều tốt đẹp… Đồng thời, cũng từ các nền tảng truyền thông xã hội bộc lộ những tác động tiêu cực, ẩn chứa những nguy cơ phức tạp, khó lường, thậm chí có khả năng gây chia rẽ sâu sắc, kích động hận thù trong các cộng đồng xã hội, nhất là ở các quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo.
Yuval Noah Harari không hề phóng đại nỗi lo lắng toàn cầu khi cho rằng, Internet, mạng xã hội “là một vùng đất tự do và vô luật làm xói mòn chủ quyền quốc gia, phớt lờ các biên giới, phá hủy quyền riêng tư và đem lại mối đe dọa an ninh toàn cầu có thể nói là đáng sợ nhất” (4). Với những tác động nhiều chiều, có thể xem không gian mạng như “miền chiến sự thứ năm” (5), ở đó, truyền thông xã hội đóng vai trò là một thứ “quyền lực”, vượt mặt truyền thông chính thống, thách thức các biện pháp quản lý hành chính và kỹ thuật của tất cả các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nguồn thu lớn từ truyền thông xã hội vẫn đang đổ về quốc gia phát triển có trình độ công nghệ cao, những dữ liệu cá nhân đang ở trong tay số ít các đại gia công nghệ nước ngoài khiến kinh tế, luật pháp, an ninh, chủ quyền đều bị đe dọa. Có người ví Facebook như một “quốc gia” lớn và chắc chắn có thông tin về các “công dân” của nó nhiều hơn bất kỳ chính phủ nào. Khi “dữ liệu trên mạng” là tài nguyên, thông tin là quyền lực, thì chúng ta có cơ sở để lo lắng rằng người nắm quyền “sở hữu thông tin” sẽ “tạo ra nhiều nguy cơ mới, đồng thời khuếch đại những nguy cơ khác” (6). Vụ bê bối dữ liệu do Cambridge Analytica, công ty phân tích dữ liệu chính trị tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin chính trị” tới 87 triệu người dùng là bài học đắt giá làm cho câu hỏi: “Làm thế nào để quản lý được quyền sở hữu thông tin?” trở thành “câu hỏi mang tính chính trị quan trọng nhất trong kỷ nguyên của chúng ta” (7).

Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam
Thông tin trên mạng xã hội không phải bao giờ cũng là sự thật
Trước những thách thức hiện hữu và nguy cơ tiềm ẩn đòi hỏi phải tư duy lại về mô hình và cách thức quản trị không gian mạng, các quốc gia đang ráo riết thiết lập những hàng rào bảo vệ bằng việc đưa ra những biện pháp cứng rắn. Bởi lẽ, “Quyền quyết sách đối với những vấn đề chính sách công liên quan tới mạng Internet là chủ quyền của các nước” (8). Đức đã thông qua luật về quản lý mạng xã hội (NetzDG), theo đó, những dịch vụ mạng xã hội nếu để xảy ra tình trạng người dùng lăng mạ, gây thù oán hay phát tán các tin tức giả mạo sẽ đối mặt với án phạt nặng có thể lên tới 50 triệu Euro. Australia tuyên bố sẽ phạt các công ty cung cấp dịch vụ mạng và các trang mạng xã hội, có thể phạt tới 10% tổng thu nhập hàng năm, thậm chí phạt tù lên tới 3 năm đối với người điều hành nếu không loại bỏ hoàn toàn các nội dung xấu. Luật chống tin giả của Ai Cập cho phép cơ quan chức năng quyền giám sát các tài khoản cá nhân trên những mạng xã hội có trên 5.000 người theo dõi. Luật An ninh mạng của Thái Lan quy định đối tượng phát tán tin giả sẽ phải chịu 7 năm tù. Philipines mới đây cũng ban hành luật quy định hoạt động truyền bá thông tin giả mạo bị coi là tội phạm hình sự, bị phạt tới 6 tháng tù, kèm khoản tiền phạt hơn 3.000 USD. Còn Singapore, vừa thông qua Dự luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối trực tuyến. Người lan truyền tin giả với dụng ý xấu, gây tổn hại nghiêm trọng lợi ích cộng đồng có thể đối mặt với bản án 10 năm tù, các công ty mạng xã hội nếu không tuân thủ các quy định có thể bị phạt lên đến 1 triệu đô la Singapore (9)...
2. Trong bối cảnh bất ổn gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới, sự ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam là một lợi thế quan trọng để phát triển. Nhờ nhất quán quan điểm: “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động, tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”(10) mà môi trường chính trị, xã hội ổn định, an ninh, an toàn được giữ vững, nội lực đất nước được khơi dậy và phát huy, ngoại lực được tiếp nhận và sử dụng hiệu quả, nên sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, của du khách, là điểm hẹn của khát vọng hòa bình thế giới.
Ổn định chính trị, xã hội dựa vào những nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong đó, nhân tố cốt lõi là “yên dân”, là đoàn kết và đồng thuận, là niềm tin xã hội. Trong quá trình dựng nước, giữ nước, các bậc minh quân luôn coi “yên dân” là “kế sâu rễ bền gốc”, “gốc có vững thì cây mới yên”, thế nước mới vững bền. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cho thấy, “dân là gốc” là tư tưởng dẫn dắt, chi phối đường lối, chủ trương, chính sách, hoạt động của Đảng và Nhà nước; là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong lãnh đạo của Đảng. Không ngừng chăm lo, nâng cao đời sống nhân dân, vun đắp cho mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là nền tảng cho sự ổn định chính trị, xã hội của nước ta trong thời gian qua. Tuy vậy, việc “yên dân” hay lòng dân, niềm tin, đồng thuận xã hội lại luôn bị thử thách, biến động không ngừng trong dòng chảy của thế sự, thời cuộc và các va đập của lịch sử. Năm nay thế này, năm sau có thể thế khác với rất nhiều yếu tố, tầng nấc đan xen tác động. Trong đó, báo chí, truyền thông nói chung, truyền thông xã hội nói riêng có vai trò rất quan trọng.
Sau hơn 20 năm Internet có mặt (từ năm 1997), với hơn 60 triệu người sử dụng, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ người dân sử dụng Internet và là 1 trong 10 nước có lượng người dùng Facebook và YouTube cao nhất thế giới. Điều đó cho thấy sự cởi mở, năng động của Việt Nam trong tiến trình hội nhập cùng thế giới số.
Cũng như các quốc gia khác trên toàn cầu, Việt Nam đang khai thác và phát huy những đặc tính ưu việt của truyền thông xã hội, đồng thời, cũng đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực khó kiểm soát từ dạng thức truyền thông mới này.
Có thể nhận thấy, “hệ sinh thái” mạng xã hội đã hình thành tầng lớp KOLs (Key Opinion Leader), influencers là những người có “thương hiệu” hoặc là “người bình thường” mà thông tin, quan điểm nêu ra có sức thu hút, ảnh hưởng, được “cư dân mạng” chia sẻ, khuếch tán nhanh trên phạm vi rộng. Họ đa phần là những chủ thể tích cực góp phần tạo nên đời sống thông tin lành mạnh. Nhưng, cũng đã lộ diện những KOLs, influencers có động cơ không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ, thậm chí từng vi phạm pháp luật nhưng lại biết “khơi gợi những cảm xúc xấu xa”; lạm dụng chữ nghĩa, ảo tưởng “quyền lực bàn phím”, luôn tìm cách điều hướng dư luận; tấn công doanh nghiệp nhằm trục lợi; đe dọa, xúc phạm cá nhân, tổ chức… Một số được nuôi dưỡng, cấp phát từ các tổ chức thù địch bên ngoài. Lợi dụng những bất cập trong quản lý nhà nước về Internet, mạng xã hội, chúng thâm nhập vào các nền tảng truyền thông xã hội, “nuôi” nick (tên tài khoản), lập ra hàng trăm nghìn tài khoản ảo và nhiều trang giả mạo cá nhân, tổ chức. Với nhiều thủ đoạn tinh vi được hỗ trợ bởi công nghệ, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội bộ Đảng và nhân dân. Chúng cường điệu những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý để khoét sâu vào xung đột lợi ích, làm chia rẽ xã hội, suy giảm lòng tin, thực hiện “diễn biến hòa bình”, đòi lật đổ chế độ. Từ đó, lôi kéo, tập hợp lực lượng, kích động biểu tình trái phép, chống đối, bạo loạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội như trong các vụ lợi dụng vấn đề môi trường tại Formosa Hà Tĩnh, phản đối Dự Luật về Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật An ninh mạng…
Có hiện tượng KOLs, influencers được hỗ trợ “không trong sáng” từ những thông tin mật trong nội bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước bị rò rỉ, không loại trừ có cả những cái “bắt tay với âm binh” vô cùng nguy hiểm của những cán bộ suy thoái, cơ hội chính trị, đầy tham vọng cá nhân. Việc các chính trị gia sử dụng truyền thông xã hội làm công cụ để giao tiếp với công chúng, xây dựng hình ảnh hay vận động chính trị không phải là mới mẻ trên thế giới và có thể khuyến khích ở Việt Nam nhưng cần phải được xác lập thành một trong những nguyên tắc hành xử chính trị công khai và minh bạch. Còn việc “đi đêm” với các nhân tố mạng xã hội để tạo “sóng” trong dư luận, vì ý đồ và động cơ cá nhân là điều không thể chấp nhận.
Sự lệch lạc trong nhận thức về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ dẫn đến sai lầm trong hành vi, tạo nên những mối nguy về an ninh, bất ổn chính trị, xã hội. Một bộ phận người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam thường có xu hướng quan tâm, thích (like) và chia sẻ (share) thông tin giật gân, tiêu cực, trái chiều hơn thông tin tích cực, một cách cố tình hoặc vô ý thức, bất chấp các hậu quả. Nhiều người cho rằng mạng xã hội là ảo, không phải chịu trách nhiệm về những phát ngôn, hành xử của mình. Tâm lý đó cộng hưởng với các công cụ được tạo ra để thu hút người dùng của truyền thông xã hội, cùng với sự bất cập, hạn chế trong quản lý của các cơ quan chức năng càng làm cho việc phát tán thông tin xấu, độc trở nên dễ dàng và nguy hiểm.
Những nghiên cứu gần đây chỉ ra, hiện tượng tin giả, các phát ngôn thù ghét, nói xấu, phỉ báng, vu khống, bịa đặt, kỳ thị dân tộc, tôn giáo, kỳ thị giới tính, các hành vi gây hấn, tấn công trên mạng,… đang trở nên đáng báo động (11). Những hành vi lệch lạc này có thể làm khủng hoảng đời sống của cá nhân, tổ chức, gây nặng nề và trầm cảm xã hội, thậm chí những “cơn bão mạng” có thể “khai tử” doanh nghiệp, có cá nhân đã lựa chọn cái chết làm lối thoát.
Tác động xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp, tức thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng xử, lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp. Những đổ vỡ về giá trị, những tổn thương về tâm lý ảnh hưởng đến đời sống mỗi cá nhân, từ đó, tác động đến ổn định chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhà xã hội học cho rằng, việc dành quá nhiều thời gian cho mạng dẫn đến “cô lập với xã hội thực tại”, “xao nhãng các quan hệ đời thực”, “tin vào đó mà không dành thời gian cho các quan sát, trải nghiệm và tương tác thực tế để đưa ra các quyết định đúng đắn”, thậm chí lệch lạc về nhận thức, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt với giới trẻ. Về lâu dài, có thể khiến sự cố kết xã hội bị rạn nứt sâu sắc, gây phân rã, khó tạo nên sự đồng thuận trong việc chung tay giải quyết các vấn đề của cộng đồng, quốc gia hay nhân loại(12).
3. Có những ý kiến về việc mạng xã hội đã qua đi thời khắc đỉnh cao và đang chững lại. Có những đánh giá lạc quan rằng người dùng mạng xã hội đang dần trở nên sáng suốt hơn, bình tĩnh hơn, trang bị bộ lọc tốt hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn sau khi bị tin giả lừa đảo nhiều lần. Nhưng trong thực tế, có thể khẳng định, truyền thông xã hội là một “mặt trận” ngày càng phức tạp, mở rộng mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để thúc đẩy các “yếu tố cách mạng sắc màu ở Việt Nam”. Bài học từ những cuộc “cách mạng màu” cho thấy không thể chủ quan, lơ là mà cần phải chủ động nhận diện, ngăn chặn kịp thời những nhân tố lợi dụng truyền thông xã hội để tác động đến ổn định chính trị, xã hội từ nhiều hướng, nhiều cách thức khác nhau. Yêu cầu ấy đòi hỏi phải nhìn nhận đúng về truyền thông xã hội ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực, nhận diện và quản lý những tác nhân gây ảnh hưởng để bảo vệ, phát huy những giá trị tiến bộ được xã hội thừa nhận, đồng thời hạn chế, đẩy lùi, triệt phá những tác động tiêu cực bằng những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả.

Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam
Sự thật bị cắt cúp sẽ không bao giờ là sự thật.
Một là, trong lãnh đạo, chỉ đạo cần tiếp tục quán triệt, nhận thức đúng, đầy đủ quan điểm: “không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet theo kịp sự phát triển của công nghệ Internet,… chủ động, kiên trì thúc đẩy phát triển đúng hướng đi đôi với quản lý chặt chẽ”(13). Xác định rõ, đây là môi trường mở, độc đáo, đặc biệt quan trọng nằm bên cạnh dòng chảy thông tin của truyền thông truyền thống cần được khai thác tối đa mặt tích cực, cổ vũ những giá trị tiến bộ, định hướng và tiến hành đấu tranh đối với những nhận thức, tư tưởng, quan điểm sai trái. Do đó, phải chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình; chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề bức xúc của người dân; khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập, không để hình thành “điểm nóng”, những xu hướng (trend) tiêu cực trên mạng xã hội. Các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch, kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã hội. Đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tấn công vào nội bộ. 
Hai là, khẩn trương thể chế hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong thực tiễn; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng. Thời gian qua, những thay đổi chóng mặt về thuật toán của các nền tảng công nghệ “làm khó” cả về nhận thức và hành động khiến các cơ quan chức năng vốn đã chậm trễ, hạn chế trong quản lý không gian mạng lại càng lúng túng, bất cập, chưa theo kịp trong việc hoạch định chính sách, pháp luật đối với truyền thông xã hội. Để quản lý tốt, cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội... thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa. Bởi lẽ, khi các ràng buộc pháp lý không cụ thể, rõ ràng và đủ mạnh thì các quy tắc đạo đức, văn hóa cũng rất khó để đi vào cuộc sống.
Kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật,... Cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, yêu cầu trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng. Tích cực triển khai thực hiện Luật An ninh mạng với các chế tài đủ mạnh để răn đe, xử lý những hành vi vi phạm, gây hại như lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát tán tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước trên Internet, mạng xã hội…
Ba là, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực. Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm. Vì vậy, phải khẩn trương tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Luật Báo chí năm 2016, sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh Luật cũng như các văn bản dưới Luật để hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý cho hoạt động báo chí. Xác định rõ tiêu chí đối với từng loại hình thông tin điện tử nhất là báo điện tử, tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội; có quy định để điều chỉnh hoạt động của các công ty công nghệ chuyên cung cấp thông tin báo chí. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, của cơ quan báo chí trong thực hiện tôn chỉ, mục đích và nội dung thông tin, trong hợp tác hoạt động báo chí, trong đầu tư nền tảng công nghệ số cho sự phát triển vươn tầm của báo chí. Thực hiện ngay quy hoạch báo chí đã được phê duyệt trong năm 2019, rà soát cấp phép lại hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức, cơ quan trong thời gian qua đã buông lỏng quản lý, có nhiều vi phạm trong hoạt động báo chí. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng những người làm báo về bản lĩnh chính trị, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, công nghệ, trau dồi đạo đức, ý thức về sứ mệnh nghề nghiệp, thực hiện tốt quy định về trách nhiệm và chuẩn mực khi tham gia mạng xã hội.
 Bốn là, thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, mạng xã hội. Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công chúng, đo lường thái độ của người sử dụng Internet, tham gia truyền thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm.
Năm là, truyền thông xã hội khác biệt vì nội dung do người dùng tạo ra và thông tin mang tính cá nhân hóa cao, do đó, sự quản lý của Nhà nước là cần thiết nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức người dùng. Việc người dùng nâng cao sức “đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh, lịch lãm trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên truyền thông xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.
Cho nên, cần chú trọng tăng cường các biện pháp tuyên truyền nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức, trách nhiệm khi tham gia các nền tảng truyền thông xã hội của mọi công dân. Giáo dục định hướng giá trị để người trẻ biết tránh khỏi các biểu hiện lệch lạc về nhận thức và hành vi; trang bị cho học sinh, sinh viên kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin.
Phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người điều hành website, blog, fanpage, các KOLs, influencers, người trẻ trong xây dựng môi trường Internet, mạng xã hội lành mạnh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia mạng xã hội phải giữ vai trò là lực lượng nòng cốt đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực và xem đây là giải pháp thường xuyên, lâu dài.
Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên, cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định. Tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, an toàn, trong đó, truyền thông xã hội là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng, sẽ góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững./.
Võ Văn Thưởng
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
-----------------------------------
(1) Từ “Cách mạng nhung” ở Nam Tư năm 2000, “cách mạng hoa hồng” ở Gruzia năm 2003, “cách mạng cam” ở Ucraina năm 2004, “cách mạng hoa tuy líp” ở Kyrgyzstan năm 2005, “cách mạng màu Jean” ở Belarus năm 2006, đặc biệt, “Mùa xuân Ả Rập” ở Tunisia, Ai Cập năm 2010 lan sang Libya, Sirya năm 2011, cho đến những biến động chính trị, xã hội gần đây ở Hy Lạp, Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Áo, Pháp… đều có vai trò tác động của truyền thông xã hội.
(2) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trung tâm Thông tin khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng: Hiểm họa từ mặt trái của Internet, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, tr.50.
 (3) Hội thảo khoa học thuộc đề tài cấp nhà nước KX.01.10/16-20: Mạng xã hội trong bối cảnh phát triển thông tin ở Việt Nam.
(4) Yuval Noah Harari: Lược sử tương lai, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.445.
(5) Bên cạnh mặt đất, bầu trời, biển cả và vũ trụ.
(6) Jean Tirole, nhà kinh tế học giành giải Nobel: Quản lý các tác nhân gây xáo trộn, Dự báo 2019, Đại biến động, TTXVN, Project Syndicate, Hà Nội, 2018, tr.92.
(7) Yuval Noah Harari: 21 Lesson for the 21st Century, Jonathan Cape, London, 2018, p. 80.
(8) Liên hợp quốc: Tuyên bố nguyên tắc Xây dựng xã hội thông tin: Thách thức toàn cầu trong thiên niên kỷ mới, Mục a, Điều 49 (WSIS-03/GENEVA/DOC), Hội nghị thượng đỉnh về xã hội thông tin, Gieneva, 12/12/2003.
(9) Theo Nhân dân điện tử: Cuộc chiến chống tin giả và nội dung bạo lực trên mạng xã hội, 10/4/2019 (http://www.nhandan.com.vn/thegioi/item/39805002-cuoc-chien-chong-tin-gia-va-noi-dung-bao-luc-tren-mang-xa-hoi.html); Theo Vietnamnet.vn: Singapore: Luật chống tin giả khiến người dùng mạng xã hội phải cẩn trọng, 14/05/2019 (https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-cong-nghe/singapore-luat-chong-tin-gia-khien-nguoi-dung-mang-xa-hoi-phai-can-trong-531604.html)...
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, P.I, tr.40.
(11) Theo khảo sát của chương trình nghiên cứu Internet và xã hội (VPIS) thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2017).
(12) Nhóm tác giả Nguyễn Hoài Sơn, Lê Quang Ngọc, Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn Đức Vinh, Viện xã hội học, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam: Một số chiều cạnh biến đổi xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (http://www.haiphong.gov.vn/PortalFolders/ImageUploads/SKHCN/12/Cong%20nghiep%204.0/Bien%20doi%20xa%20hoi%20trong%20CMCN%204.0.pdf).
(13) Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI ngày 25/12/2013 về “Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet”.


'XÃ HỘI ẢO PHẢN ÁNH XÃ HỘI THẬT'

LÊ DOÃN HỢP / TVN 18-6-2019

Tôi đánh giá cao bài viết “Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam” của Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng.
Bài viết nhìn nhận rất đúng rằng, “hệ sinh thái” mạng xã hội đã hình thành tầng lớp KOLs (Key Opinion Leader), influencers là những người có “thương hiệu” hoặc là người bình thường mà thông tin, quan điểm nêu ra có sức thu hút, ảnh hưởng, được “cư dân mạng” chia sẻ, khuếch tán nhanh trên phạm vi rộng. Họ đa phần là những chủ thể tích cực góp phần tạo nên đời sống thông tin lành mạnh. Nhưng, cũng đã lộ diện những KOLs, influencers có động cơ không tốt, bất mãn, thậm chí từng vi phạm pháp luật nhưng lại biết khơi gợi những cảm xúc xấu xa; lạm dụng “quyền lực bàn phím”, luôn tìm cách điều hướng dư luận; tấn công doanh nghiệp nhằm trục lợi; đe dọa, xúc phạm cá nhân, tổ chức…
Chúng ta không thể phủ nhận mạng xã hội đang bùng nổ không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Gần đây, tôi được biết rằng, tổng doanh thu trực tuyến ở Việt Nam đạt tới 550 triệu USD Năm 2018 và dự kiến đạt 630 triệu USD năm 2019 này. Điều đáng nói là doanh thu của Google và Facebook chiếm phần lớn doanh thu này. Trong khi đó, tỷ lệ doanh thu trực tuyến của các cơ quan báo chí giảm xuống 31% năm 2018 và tiếp tục giảm xuống 29% năm 2019, giảm rất nhanh so với 81% của 2010. Đây là thách thức lớn đối với báo chí nước nhà.

‘Xã hội ảo phản ánh xã hội thật’

Ông Lê Doãn Hợp: ‘Xã hội ảo phản ánh xã hội thật’. Ảnh Lê Anh Dũng.

Trên thế giới có nhiều giải pháp chống thông tin xấu độc mà chúng ta cần học hỏi. Tôi tạm liệt kê:
Thứ nhất, quản lý báo chí trên môi trường mạng, khoa học công nghệ. Cái gì báo chí chính thống không theo kịp thì mạng xã hội sẽ bổ sung. Vì vậy báo chí truyền thống phải bám sát đời sống xã hội.
Thứ hai, hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh hơn, luật pháp phải tạo ra khung pháp lý ủng hộ người tốt, thông tin tốt; nhưng ngược lại cũng phải răn đe người không tốt, xử lý người đưa tin xấu, độc.
Thứ ba là nâng cao dân trí để phòng vệ bản thân trên mạng xã hội. Việc tìm hiểu thông tin trên mạng cũng phải tự phòng vệ, trình độ khác nhau sẽ có những nhận thức khác nhau vì vậy nâng dân trí sẽ là cách phòng vệ tốt nhất.
Thứ tư, mỗi cá nhân đều phải có ý thức ngăn chặn và phản bác cái xấu một cách có lý, có tình giàu sức thuyết phục. Chúng ta không thờ ơ trước mạng xã hội nhưng nếu chúng ta không có cách ứng xử điềm tĩnh, trí tuệ, khoa học trước thông tin từ mạng xã hội thì cũng không thể đẩy lùi được thông tin xấu độc.
Tuy nhiên, ngoài chuyện thách thức từ mạng xã hội, tôi muốn nhấn mạnh đến cơ hội. Báo chí chúng ta có lợi nhiều hơn trong tương quan với sự phát triển của mạng xã hội. Nếu chỉ đề cập đến thách thức từ mạng xã hội thì chúng ta phải luôn bị động đối phó; còn nếu nói cơ hội, báo chí sẽ biết cách đóng vai trò làm chủ trước mạng xã hội. Vai trò của báo chí đối với xã hội phải là chủ đạo. Báo chí phải đưa thông tin nhanh, chính xác, kịp thời.
Đáng tiếc là nhiều sự kiện gần đây, báo chí chúng ta đưa tin quá chậm. Nhiều sự kiện được người dân cả nước quan tâm mà được báo chí đưa tin chậm tới cả mấy ngày. Như vậy là rất không nên là thua kém trước mạng xã hội.
Báo chí phải có các bài viết sâu hơn, đa chiều hơn so với mạng xã hội. Báo chí bình luận, phân tích chính là định hướng dư luận xã hội. Khi còn làm Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, tôi lo ngại nhất là thiếu thông tin và nhiễu thông tin. Tất cả các trường hợp nhiễu thông tin đều do thiếu thông tin, thông tin không được cung cấp, hay cung cấp không kịp thời. Báo chí cần có các bài phản bác, thuyết phục hơn nữa, phân tích sâu sắc thuyết phục sẽ giúp định hướng dư luận tốt hơn. Báo chí thời đại Internet phải tự chủ cao và sáng tạo cao hơn. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về thông tin của mình.
Ở Việt Nam, báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, vừa là diễn đàn của nhân dân. Vế thứ hai báo chí chúng ta làm chưa tốt. Tôi nhớ, một lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đóng cửa mấy ngày để xem truyền hình trung ương. Ông nhận xét,  hơn 70% thời lượng là đưa tin về đường lối, chủ trương, các sự kiện của lãnh đạo đảng và nhà nước, lượng thông tin về nhân dân rất ít. Ông muốn điều ngược lại, làm sao để đến giờ thời sự, lãnh đạo Đảng, Nhà nước cần ngồi trước tivi để biết được nhân dân nói cái gì, mong muốn điều gì để làm cho dân. Chúng ta cần có tỷ lệ cân bằng để thông tin đáp ứng cả hai chiều vì dân và vì Đảng.
Xã hội ảo chính là phản ánh xã hội thật, vì thế rất nhiều vấn đề trong xã hội ảo phải được giải quyết từ xã hội thật. Báo chí công dân gây áp lực làm báo chí chúng ta phải nhanh nhạy hơn.
Nghề báo có nhiều lợi thế. Làm báo phải rất sáng tạo. Báo chí là quyền lực thứ 4, ai cũng nói rồi. Nhà báo vừa có danh, có thế, có lực, chẳng có nghề nào được như thế.  Các nhà báo chân chính nếu biết gắn kết sẽ chống tiêu cực tốt hơn. Nghề báo chí cũng là nghề lan tỏa tốt, khuyếch tán nhanh, hội tụ mau trong thời đại toàn cầu hóa.
Ngài Phó Chủ tịch Google có nói một câu rất thực tiễn: “Sự nghiệp của chúng tôi chỉ làm một việc là tập hợp tất cả văn minh của loài người, phân loại và đưa đến cho người đọc nhanh nhất”. Báo chí có thể làm giàu từ chính tín nhiệm của tờ báo, tín nhiệm trong lòng độc giả. Vì vậy, muốn làm giàu phải có tín nhiệm. Đó là thương hiệu của tờ báo, tín nhiệm của Tổng biên tập, của phóng viên và biên tập viên. Mỗi nhà báo phải trở thành một thương hiệu và 17.000 nhà báo trở thành 17.000 thương hiệu thì đủ sức dẫn dắt dư luận xã hội rất tốt.
Báo chí là công cụ của Đảng và Nhà nước cũng cần có sự đóng góp, hỗ trợ của Nhà nước cho báo chí. Theo tôi “xoá bao cấp là xoá những cái cần xoá để có tiền bao cái cần bao”. Cho nên báo chí, xuất bản hay một số ngành nghệ thuật phải bao. Phải coi phóng viên là công chức truyền thông. Trên thế giới những tác phẩm “xấu” đối với chúng ta thì được tài trợ đưa vào Việt Nam rất nhanh, còn ở Việt Nam rất nhiều tác phẩm hay nhưng tác giả nghèo nên không đưa ra được với công chúng. Chúng ta cần có quỹ xuất bản để tài trợ cho các tác phẩm tốt sớm đến với công chúng nhiều hơn.
Một lần tôi sang Úc và hỏi Bộ trưởng Truyền thông, ai quản lý báo chí. Họ bảo không có cơ quan nhà nước nào quản lý báo chí, dân quản lý báo chí. Nhà báo viết hay, viết tốt thì dân mua; viết sai thì dân kiện. Nhà nước xử nghiêm.
Tôi mong, các nhà báo phát huy hết các lợi thế của mình, có trách nhiệm xã hội cao hơn; trong tác nghiệp luôn thấm nhuần 6 chữ: Trung thực, Khách quan, Hướng thiện.
Lê Doãn Hợp
Nguyên Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông

 BÀI 'ẤN TƯỢNG' VỀ MẠNG XÃ HỘI CỦA ÔNG VÕ VĂN THƯỞNG ĐƯỢC CHÚ Ý

BBC 17-6-2019

báo
Ông Võ Văn Thưởng nói báo chí "phải là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm"

Giới quan sát, cả lề phải và lề trái của Việt Nam, bày tỏ quan tâm, đưa ra bình luận sau khi Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng có bài viết ngày 17/6 về truyền thông xã hội.
Đảng khai trừ GS Chu Hảo 'vì chống đối'
VN bỏ tù hai phụ nữ vì 'tuyên truyền' trên Facebook
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng nhận định: "Tác động xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp, tức thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng xử, lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp."
Nhà báo Nguyễn Văn Minh của tờ Quân đội Nhân dân nhận xét trên Facebook cá nhân rằng ông Võ Văn Thưởng "chính thức cảnh báo nguy cơ từ mặt trái của truyền thông mạng xã hội đối với sự ổn định chính trị xã hội ở Việt Nam".

'Đối diện với sự thật'

Hôm 17/6, nhà báo tự do Sương Quỳnh nói với BBC:
"Theo tôi, bài báo của ông Võ Văn Thưởng về tin giả và tác hại của nó không sai, nhưng phải phân biệt việc xử phạt tin giả và bịt miệng sự thật."
"Ở các nước đã có chế tài đối với tin giả. Nhưng trong bối cảnh ở Việt Nam với sự tuyên truyền một chiều và bưng bít sự thật, những ai dám nói sự thật đều bị phạt, bị đàn áp, bị bỏ tù. Đó là vi phạm hiến pháp Việt Nam cũng như tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và không còn tự do phát ngôn, thông tin."
"Tôi còn nhớ rằng ông Võ Văn Thưởng từng tuyên bố đối thoại với những trí thức bất đồng, nhưng sau đó không thấy ông làm việc này? Điều đó cho thấy nhà cầm quyền không dám đối diện với sự thật."


thưởng
Ông Võ Văn Thưởng thường đưa cảnh báo về mạng xã hội "đưa tin xấu độc"

'Tích cực triển khai Luật An ninh mạng'

Cũng trong hôm 17/6, nhà quan sát Lê Trọng Vũ nói với BBC từ Đà Nẵng:
"Mở đầu bài xã luận, ông Thưởng dẫn chứng cuộc biểu tình mang tên "Phong trào Áo Vàng" trong thời gian vừa qua ở Pháp. Ông cho rằng phong trào lan nhanh bởi những lời kêu gọi phát tán trên mạng xã hội đã thổi bùng cơn giận dữ, vượt xa mục tiêu ban đầu là kích động biểu tình để phản đối chính sách, trở thành bạo loạn."
"Bằng lối áp đặt thường thấy của giới Tuyên giáo, ông Võ Văn Thưởng quy chụp mạng xã hội chính là nguyên nhân chính dẫn đến bất ổn ở các xã hội tự do, từ phong trào áo vàng đến phong trào chiếm phố Wall ở Mỹ, từ biểu tình ở Bắc Phi đến cuộc xuống đường ở Trung Đông."
"Tiếp đó, ông ca ngợi sự ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam sau hơn 30 năm đất nước mở cửa. Nhờ công của Đảng, VN giữ được sự ổn định liên tục và trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, của du khách, là điểm hẹn của khát vọng hòa bình thế giới."


Facebook sign

"Rồi thì ông bắt đầu tấn công những KOLs, cho rằng những người nổi tiếng trên mạng xã hội là có động cơ không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ.."
"Ở đoạn kết, ông đưa ra nhiều nhóm giải pháp để kiểm soát mạng xã hội. Từ tích cực triển khai Luật An ninh mạng chế tài thật nặng đến nhấn mạnh vai trò của báo chí để định hướng dư luận."
"Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển chóng mặt và thế giới đang biến đổi từng ngày, bài viết mang nặng tính giáo điều của ông trưởng Ban tuyên giáo Trung ương cho thấy những lo lắng về sự mất kiểm soát mạng xã hội của giới lãnh đạo Việt Nam."
"Bước ra khỏi bóng tối và hòa mình vào dòng chảy văn minh là cách tốt nhất để những nhà lãnh đạo Việt Nam có thể đứng gần để lắng nghe dân."
"Làm được thế, những nhà lãnh đạo không chỉ xóa bỏ những dèm pha trên mạng xã hội mà còn là cách bảo vệ nền móng quyền lực của mình một cách vững chắc nhất," nhà quan sát Lê Trọng Vũ nói.

'Tiến hành đấu tranh'

Trong bài viết dài, ông Võ Văn Thưởng đặt ra các giải pháp cho Đảng và Chính phủ, có thể tóm tắt:
  • Xác định rõ, đây là môi trường mở, độc đáo, đặc biệt quan trọng nằm bên cạnh dòng chảy thông tin của truyền thông truyền thống cần được khai thác tối đa mặt tích cực, cổ vũ những giá trị tiến bộ, định hướng và tiến hành đấu tranh đối với những nhận thức, tư tưởng, quan điểm sai trái.
Các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch, kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã hội.
Đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tấn công vào nội bộ.
  • Cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội... thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa.
  • Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm.
Thực hiện ngay quy hoạch báo chí đã được phê duyệt trong năm 2019, rà soát cấp phép lại hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức, cơ quan trong thời gian qua đã buông lỏng quản lý, có nhiều vi phạm trong hoạt động báo chí.
  • Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội bộ.
  • Phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người điều hành website, blog, fanpage, các KOLs, influencers, người trẻ trong xây dựng môi trường Internet, mạng xã hội lành mạnh.

TỰ DO BÁO CHÍ - NHU CẦU TINH THẦN HIỆN ĐẠI CỦA VIỆT NAM

NGUYỄN KHẮC MAI / BVN 18-6-2019

Từ thế kỷ XIV, trong Kê minh thập sách, bà Bích Châu*, một phi hậu của vua Trần Duệ Tông từng nói: “Nguyện cầu trực gián, sử thành môn dữ ngôn lộ tịnh khai”. Nghìa là “Xin cầu lời nói thẳng, để cho cổng thành cùng đường ngôn luận rộng mở”. Mở cổng thành, nghĩa là để có thông thương đi lại tự do dễ dàng, một nhu cầu bình thường của cuộc sống. Trong thời hiện đại mở cổng thành chính là làm cho đi lại, giao thương thông thoáng, tự do. Các hiệp định tự do mậu dịch thuộc ý nghĩa này.
Ngôn lộ, nghĩa là đường ngôn luận. Từ bảy, tám trăm năm trước, tổ tiên ta đã có quan niệm khá hiện đại: ngôn lộ. Bấy giờ Bà Bích Châu, chỉ đề cập đến đường ngôn luận rộng mở là nhằm làm cho nhà vua có thể lắng nghe những thỉnh cầu của dân chúng, lắng nghe những lời can gián của quần thần. Điều đó cũng phản ánh một tư tưởng thân dân của đời Trần, khi Thiền sư Phù Vân tâu với vua Trần Thái Tông : "Xin nhà vua lấy ý của thiên hạ (dân) làm ý của mình, lấy lóng thiên hạ làm lòng của mình”. Trong thời kỳ phong kiến, tư tưởng ấy thật nhân văn và tiến bộ.
Ngày nay, chúng ta cần biết bao nhiêu, sự tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ấy, làm cho cổng thành và đường ngôn luận rộng mở. Vì không biết lắng nghe Dân, nghe Trí thức chân chính phản biện, đề xuất, Đảng Cộng sản đã đưa Đất nước ta vào biết bao là rối loạn, khủng hoảng, hết Cải cách ruộng đất đến Cải tạo công thương, Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến thẳng lên  chủ nghĩa xã hội! Luôn khẳng định võ đoán và sai lầm một học thuyết ngoại lai đã phá sản. Đã chủ trương biết bao nhiêu chính sách và kế hoạch khiến cho tài nguyên, tài sản của dân của nước, một phần lớn chui vào túi tham của cán bộ đảng viên cầm quyền, kinh tế hư hỏng, xã hội suy đồi, khoa học và giáo dục lạc hậu, thua kém xa so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Những lỗi lầm và hư hỏng ấy, những người có trí tuệ đã dự báo, nhưng lãnh đạo đảng vẫn để ngoài tai, hơn nữa lại còn gạt họ ra bên lề xã hội. Đến nỗi với tư tưởng mỵ dân nhưng Hồ Chí Minh cũng phải để lại Di chúc “phải tiến hành một cuộc chiến (tranh) chống lại những hư hỏng cũ kỹ”.
Hiên nay, làm sao để tiếng nói của Dân, của Trí thức được tôn trọng, làm sao để thực hiện được lời của K. Marx: “Dân chủ nghĩa là Chính phủ được đặt dưới sự kiểm soát hoàn toàn của xã hội”. Cả Đảng lãnh đạo, cả Chính phủ cầm quyền, đều phải đặt dưới sự kiểm soát của xã hội. Nhưng nếu không có tự do báo chí thử hỏi làm sao thực hiện nguyên tắc dân chủ đó. Điều thú vị là những tư tưởng hiện đại đó của Mác là khi ông còn đi theo khuynh hướng Hegel mới, còn theo tư tưởng tư sản dân quyền, mãi mấy chục năm sau ông mới theo khuynh hướng cộng sản ảo tưởng và lầm lạc.
Báo chí là sản phẩm tinh thần của thời hiện đại, để xã hội thực hiện quá trình tự giáo dục, đổi mới mình không ngừng, hoàn thiện mình không ngừng, kiếm tìm văn minh và hạnh phúc, nâng cao năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, thực hiện giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của mình. Ngay trong đảng, từ những ngày đầu, F. Engels đã nêu yêu cầu quyền làm chủ của đảng viên, ông nói “phải chấm dứt ngay một tình hình tế nhị. Cớ sao các đảng viên thường, thay cho coi quan chức của mình (ông không gọi là leader, mà gọi là quan chức, bởi họ do toàn đảng bầu ra trả lương để làm việc cho mình), là công bộc (người phục vụ chung), mà quay ra coi họ là đám quan-liêu-không-bao-giờ-mắc-sai-lầm”. Từ thời đó đến nay, định nghĩa của Engels là hoàn toàn chính xác. Ngay trong đảng báo chí không tự do, nên lũ quan, liêu không bao giờ mắc sai lầm, đã gây không biết bao tội lỗi, tiếp tục lừa dối dân lừa dối đảng viên thường.
Trong xã hội, không có tự do báo chí, nên những thói hư tật xấu của chế độ và chủ nghĩa cứ từ từ lan tỏa, từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Chống tham nhũng cũng chỉ đánh từ vai đánh xuống, còn cái gốc của tệ tham những là thể chế, là hệ thống cầm quyền toàn trị không được mổ xẻ, phân tích… làm sao loại trừ được tham nhũng. Đông Kinh Nghĩa thục, một phong trào canh tân đất nước đầu thế kỹ XX nói: Chính phủ chẳng qua cũng là người dân nắm quyền. Ý nói hôm qua họ là dân, đựơc bầu một cái là trở thành nhà cầm quyền. Vậy nếu không có tự do báo chí làm sao xã hội giám sát được họ. Ở điểm này những người cộng sản hành xử như những kẻ lừa mỵ và mâu thuẫn. Họ nêu khẩu hiệu tự do, hạnh phúc, họ nêu khẩu hiệu xây dựng đảng trong sạch, đạo đức. Nhưng họ không muốn có tự do báo chí để nâng cao đạo đức và nhận thức của họ. Nên mọi chuyện rồi chỉ như con kiến leo vào leo ra mà thôi.
Vào thế kỷ XVIII, một thế kỷ Ánh sáng của Nhân loại, để dự báo cho một tiến trình vĩ đại và đầy bất trắc, của thế giới mới, Thánh ALCUIN , nhà triết học, thần học, người được coi như cha đẻ nền giáo dục đại học Anh quốc, có môt câu triết lý thâm thúy:
“Thiên chức của trí thức là: làm ngay ngắn những sai lầm, kiện toàn những đúng đắn và thăng hoa những điều thánh thiện”.
Xã hội ta hiên nay, còn biết bao điều sai lầm cần đính chính, biết bao điều đúng đắn chưa được củng cố vững chắc, biết bao thánh thiện không dược tôn vinh quý trọng và noi theo. Tự do báo chí phải làm điều đó!
Thôi đừng dẫn lời một vị Thánh. Hãy nhắc lại mấy lời của K. Marx, vị tổ sư của mấy người lãnh đạo đáng kính hiện nay của đất nước, để không phải thấy họ thông minh và đức hạnh. Mà là để thấy họ lú lẫn chừng nào. Ông Mác nói:
“Báo chí tự do - đó là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân gian, là hiện thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói, gắn liền các cá nhân với nhà nước và với toàn thế giới. Nó là hiện thân nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tinh thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đấu tranh đó. Báo chí tự do, đó là sự sám hối công khai của nhân dân trước bản thân mình, mà lời thú nhận thật tâm, như mọi người đều biết, thì có cơ cứu rỗi. Báo chí tự do, đó là tấm gương tinh thần, trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình, còn sự tự nhận thức, là điều kiện đầu tiên của sự sáng suốt. Báo chí tự do, đó là tinh thần quốc gia, mà mọi túp nhà tranh đều có thể có được với những chi phí thấp hơn là phương tiện thắp sáng. Báo chí tự do là toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái gì cũng biết”.
Ôi, anh Trọng, anh Thưởng, anh Thiện, anh Hùng, anh gì Chủ tịch HĐLLTW, các anh không phải loại mù chữ để đến nỗi không đọc được, nó đã được in trong Mác -Ăng Ghen toàn tập TI, trang 100, NXB CTQG, 1995. Chính các anh là lũ phản đồ (học trò phản phúc), nhắm mắt không nghe lời thầy, để tiếp tục lừa dân hại nước, mà suy cho cùng lại là hại chính cái đảng của mình. Mác nói Ở đâu có báo chí ở dó có tự do báo chí. Các anh không thể mãi mãi đặt vòng kim cô trên dầu của nhân dân được. Dự định đưa đất nước tiến  lên hiện đại với tiêu chí: giàu mạnh, văn minh, dân chủ, công bằng mà để nền báo chí được xếp hạng kém tự do nhất hành tinh (Tổ chức Phóng viên Không biên giới mới đây xếp Việt Nam 176/180 nước có nền báo chí kém tự do nhất. Đó là một hài kịch vĩ đại. Có phải người ta đã dự báo rằng,kết thúc một thời đại để chuyển sang thời đại mới bao giờ cũng bằng bi hài kịch chăng.
N.K.M.
*xem Chế Thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và Ngôi đền thiêng bên cửa biển. NXB Phụ nữ, 2015.
Tác giả gửi BVN.

LÃNH ĐẠO VIỆT NAM LỘ RÕ LO SỢ ĐỐI VỚI MẠNG XÃ HỘI

THANH TRÚC/ RFA/ BVN 19-7-2019


Biểu tượng của mạng xã hội Facebook. AFP

“Truyền thông xã hội là một ‘mặt trận’ ngày càng phức tạp, mở rộng mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để thúc đẩy các ‘yếu tố cách mạng sắc màu ở Việt Nam’”.
Đó là tóm tắt nguyên văn nhận định và đúc kết bài xã luận của ông Võ Văn Thưởng, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng kiêm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
Với tựa để “Truyền Thông Xã Hội Đối Với Chính Trị, Xã Hội ở Việt Nam”, bài xã luận được đưa ra trong buổi lễ khai trương Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng Internet, gọi tắt là VCNET, hôm 11 tháng Sáu vừa qua.
Trao đổi với RFA qua tin nhắn hôm 11 tháng Sáu, luật sư Đặng Đình Mạnh trong tư cách người Việt Nam có sử dụng mạng xã hội, nói rằng ông hoan nghênh sự ra đời của mạng xã hội Việt Nam, cho dù là của Ban Tuyên Giáo Trung Ương hay của tổ chức nào khác ở Việt Nam. Tuy nhiên, ông trình bày tiếp:
Với những tiện ích mà mạng xã hội Facebook hiện đang cung cấp cho người sử dụng thì tôi chưa hình dung ra được khả năng mạng VCNet có làm được như vậy hay không? Và cũng như bất kỳ mạng xã hội nào đã từng tồn tại, thì người sử dụng sẽ quyết định sự sống còn hoặc phát triển của nhà mạng.
Đối với VCNet, có thể người dùng mạng xã hội e ngại và cho rằng đây là nỗ lực kiểm soát của chính quyền. Thật ra, người dùng Facebook ở Việt Nam vẫn đang bị chính Facebook kiểm duyệt khá gắt gao như chính chính quyền Việt Nam đấy thôi.
Tôi cũng có thắc mắc với cái tên VCNet? Có phải là viết tắt của Viet Cong Net?”
Đại úy Võ Minh Đức, từng theo học chuyên ngành sĩ quan tuyên truyền, thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam, hiện đã giải ngũ và đang ở Sài Gòn, cho biết:
Theo tôi, ngoài nỗ lực tăng cường kiểm soát, họ muốn tuyên truyền trên không gian mạng càng nhiều càng tốt. Ngoài lực lượng 47, theo tôi, họ sử dụng thêm cái này để định hướng, dẫn dắt dư luận quần chúng. Trước đây tôi từng học chuyên ngành tuyên truyền, theo tôi đây là một thủ đoạn, biện pháp, để tuyên truyền, mị dân. Theo tôi đại đa số người dân, có thể vì miếng cơm manh áo họ không muốn lên tiếng, hay họ muốn an phận nên không biểu hiện ra thôi. Chứ còn niềm tin về chế độ này đã bị mai một nhiều, thậm chí ở một bộ phận dân chúng, gần như không còn, chỉ còn những người có quyền lợi, bổng lộc thì họ mới theo. Nên tôi nghĩ sẽ không thu hút người dân vào cái mạng này được.
Đến ngày 17 tháng Sáu 2019, báo chí trong nước  đồng loạt đăng tải lại bài của ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng vào lúc khai trương Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng tức VCNET:
Mở đầu bằng những viện dẫn về “Phong Trào Áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên trong suốt thời gian qua ở nước Pháp, ông Võ Văn Thưởng lần lượt nêu thêm cũng như chú thích về những sự kiện thế giới mà ông cho là bị tác động bởi truyền thông xã hội. Ông gọi đó là  các cuộc cách mạng màu hay các cuộc biểu tình bạo động, thí dụ Cách Mạng Nhung Nam Tư năm 2000, Cách Mạng Hoa Hồng ở Gruzia năm 2003, Cách Mạng Cam tại Ukraina năm 2004, Cách Mạng Hoa Tulipe năm 2005, Mùa Xuân Ả Rập ở Tunisia, Ai Cập năm 2010 lan tỏa sang Libya, Syria năm 2011, cho đến những biến động chính trị, xã hội gần đây tại Hy Lạp, Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha , Áo, Pháp.

 
Tuy nhiên bài viết thể hiện sự phiến diện, tức chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của mạng xã hội, cụ thể là tin giả, mà không đề cập đến mặt tích cực của mạng  xã hội là thông tin sự thật và phản biện sự thật mà mạng xã hội đã làm rất tốt trong nhiều năm qua.
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
  
Ông Võ Văn Thưởng cho rằng chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi bùng những cuộc cách mạng màu ấy bằng kích động, tổ chức và thông tin, biến những hành động ban đầu là phong trào đường phố thành những vụ bạo động mà hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ La Tinh.
Truyền thông xã hội, tin giả đã trở thành từ khóa, trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Võ Văn Thưởng nhấn mạnh, khiến người ta liên tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động làm cả Châu Âu, và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Tình trạng như vậy cũng xảy ra ở Hoa Kỳ với những cuộc biểu tình chiếm đóng phố Wall năm 2011 khiến các chính trị gia Mỹ đã nêu đích danh Facebook và Twitter là thủ phạm, là công cụ của bạo loạn.
Ông Võ Văn Thưởng chỉ trích truyền thông xã hội đã bộc lộ những tác động tiêu cực, ẩn chưa những nguy cơ phức tạp, khó lường, thậm chí có khả năng gây chia rẻ sâu sắc, kích động hận thù trong các cộng đồng xã hội, nhất là ở các quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo.
Từ những cáo buộc như vậy, ông quay sang chỉ trích vai trò của truyền thông xã hội, nói rõ hơn là các trang mạng xã hội ở Việt Nam, sau hơn 20 năm Internet có mặt với trên 60 triệu người sử dụng.
Điểm mặt những tác nhân KOLs (Key Opinion Leader) và Influencers, gọi đây là những người có “thương hiệu” hoặc là “người bình thường” nhưng thông tin hay quan điểm đưa ra đã tạo sức hút và ảnh hưởng, lại còn được cư dân mạng khuếch tán , chia sẻ nhanh rộng trên mạng.
Những KOLs và Influencers đó bị ông Võ Văn Thưởng liệt vào tầng lớp những kẻ “lạm dụng chữ nghĩa”, ảo tưởng “quyền lực bàn phím”, có động cơ không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ và thậm chí từng vi phạm pháp luật nhưng lại biết khơi gợi “những cảm xúc xấu xa”.
Tóm lại, theo như trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng viết trong bài xã luận, truyền thông xã hội tốt thì ít mà xấu thì quá nhiều vì gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội bộ đảng và nhân dân.
Chưa hết, ông Võ Văn Thưởng còn viện dẫn và chú thích nguồn từ bài viết có tên Hiểm Họa Từ Mặt Trái của Internet, được phổ biến trong Cục Tuyên Huấn, Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trung Tâm Thông Tin Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng, để chỉ trích rằng truyền thông xã hội là một dòng chảy thông tin, lạm dụng Internet và điện thoại di động để kích động và châm ngòi cho những cuộc xuống đường dẫn đến bạo loạn.
Từ Sài Gòn, ông Phạm Chí Dũng trong tư cách nhà báo độc lập, nhận xét rằng đây là chiến thuật cũng như chiến lược đối phó với truyền thông xã hội mà ông gọi chung là mạng xã hội:
Đây có lẽ là một trong những bài hiếm hoi có hàm lượng thông tin và kỹ thuật tương đối sâu về mạng xã hội so với những bài trước đây. Bài viết dựa trên cơ sở tham khảo những tài liệu báo cáo của Bộ Thông Tin- Truyền Thông. Những báo cáo này có từ lúc có tân bộ trưởng Bộ Thông Tin- Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng là thiếu tướng từ bên quân đội chuyển sang.
Tuy nhiên bài viết thể hiện sự phiến diện, tức chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của mạng xã hội, cụ thể là tin giả, mà không đề cập đến mặt tích cực của mạng  xã hội là thông tin sự thật và phản biện sự thật mà mạng xã hội đã làm rất tốt trong nhiều năm qua. Bài viết cho thấy đảng cộng sản Việt Nam đã chính thức nhìn nhận mạng xã hội là một thế lực chính trị không thể bỏ qua, họ thật sự lo sợ về mạng xã hội.
Bài xã luận phản ảnh sự sợ hãi của đảng và Nhà Nước cộng sản đối với các mạng truyền thông xã hội không nằm trong tầm kiểm soát của họ, là nhận định của ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Ông cũng là tác giả bài Tự Do Báo Chí: Nhu Cầu Hiện Đại Của Dân Tộc Việt Nam, đăng trên mạng Bauxite và mạng Tiếng Dân hôm 17 tháng Sáu:
Họ sợ cái cái minh bạch, cái thức tỉnh, cái hiểu biết và sợ sự thật được phơi bày. Họ đổ lỗi cho truyền thông xã hội, nói là gây ra tiêu cực, chống đối, bạo loạn… nhưng họ quên rằng ngay ông tổ sư của họ là ông Mác từng nói những vấn đề bức xúc, bất công, mâu thuẩn, bất cập và tiêu cực trong xã hội mà chính quyền gây ra đã tạo bất mãn bất bình trong xã hội.
Ông Võ Văn Thưởng không biết rằng Phong Trào Gilets Jaunes (Áo Vàng) bên Pháp xuất phát từ vấn đề đời sống, xã hội, sự phát triển, sự hài hòa, sự cân đối mà chính sách và chính phủ Pháp không  giải quyết được. Cho nên dân Pháp mới dùng truyền thông xã hội để truyền cho nhau thông tin và giục giã nhau đứng đậy phản đối. Vì thế mà tổng thống Macron mới nói rằng từ những phản đối của xã hội thì ta hãy cùng nhau bình tĩnh và bàn thảo để tìm ra giải pháp.
Đó là thái độ khôn ngoan của một nhà cầm quyền có văn hóa, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai nhấn mạnh, so với phản ứng chê bai chỉ trích gay gắt từ phía lãnh đạo Việt Nam:
Cộng sản là luôn luôn đánh tráo khái niệm, họ đánh lừa dân, họ sợ hãi truyền thông xã hội, họ biết sức mạnh của truyền thông xã hội nó thức tĩnh lòng người, cho nên họ mới đổ riệt tội cho truyền thông xã hội như vậy.
Sau mọi cáo buộc được cho là liên tục và ào ạt ném vào các mạng truyền thông xã hội, bài xã luận của ông Võ Văn Thưởng liền nhắc đến Luật An Ninh Mạng có hiệu lực từ đầu 2019. Ông nói phải tích cực triển khai Luật An Ninh Mạng với các chế tài để mạnh để răn đe, xử lý những trang mạng có ý xuyên tạc, phát tán tin giả gây hại cho Nhà Nước.
Ông khẳng định các báo trong nước, mà ông gọi là báo chí cách mạng, phải phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng trong thông tin tích cực, phải khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số, rằng báo chí cách mạng vẫn là dòng thông tin chủ lưu, chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội.

 
Họ sợ cái cái minh bạch, cái thức tỉnh, cái hiểu biết và sợ sự thật được phơi bày. Họ đổ lỗi cho truyền thông xã hội, nói là gây ra tiêu cực.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai
  
Ông Lê Phú Khải, phóng viên kỳ cựu Đài Tiếng Nói Việt Nam VOV, hiện đã về hưu, cho rằng bài xã luận với phần lớn nội dung công kích truyền thông xã hội cho thấy sự thất bại của truyền thông lề phải trước sự hiện diện của truyền thông xã hội:
Trước đây báo lề phải nói cái gì người dân đều nghe, nhưng bây giờ người ta thấy truyền thông xã hội đưa ra sự thậttham ô, cướp đất cướp nhà của dân như thế, Luật Đất Đai của anh như thế người ta đưa ra rất rõ ràng, Nhà Nước không chối cãi được.
Một thí dụ cụ thể được nhà báo Lê Phú Khải kể tiếp:
Thành phố Hồ Chí Minh này nhân dân biểu tình một tháng rồi mà báo Tuổi Trẻ ở ngay bên cạnh không đưa tin nhưng mạng xã hội thì có. Sự thất bại của báo lề phải đã rõ ràng, in xong rồi cho không người ta cũng không đọc. Báo Nhân Dân, báo Quân Đội, báoSài Gòn Giải Phóng để trên máy bay phát không cũng không ai lấy, giờ lại bày ra trò này trò khác. Tôi lấy một tờ báo Nhân Dân ngồi đọc, người ta nhìn tưởng tôi đến bốn mươi hay năm mươi tuổi đảng, chỉ có cái ông dở hơi này mới đọc báo Nhân Dân, thế thôi.
Vẫn theo lời ông, việc phải thành lập VCNET Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng Internet, kèm với bài xã luận của trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng trên các báo lề phải chẳng qua là biện pháp mà cũng là nỗ lực của đảng và Nhà Nước Việt Nam trong việc ngăn chặn các mạng xã hội mà người dân tin tưởng.
Việt Nam là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định, là câu kết của ông Võ Văn Thưởng.
Chính vì thế, ông viết tiếp, tạo lập môi trường thông tin, lành mạnh, an toàn trong đó truyền thông xã hội là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng, góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định, làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững.
Hơn lúc nào hết, cũng như nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, nhà báo Lê Phú Khải đoan quyết Việt Nam cần phải chấp nhận một mạng lưới thông tin tự do, thông thoáng, một nền báo chí độc lập không bị ràng buộc và không theo chỉ thị của bất cứ quyền lực nào:
Không thể chống lại qui luật, không thể chống lại những cải cách chính trị, nó là nhu cầu bức thiết, nhu cầu sống còn của xã hội nếu có tự do báo chí.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai thì nhân dịp này nhắc đến Ngày Báo Chí Việt Nam 21 tháng Sáu đang gần kề mà bao năm không có sự thay đổi:
Thế nào là nhu cầu của báo chí hiện nay? Họ đang làm ngược lại mong ước của dân tộc, đang phản bội lại những nhu cầu văn minh hiện đại mà một dân tộc cần có để có thể sống tốt và phát triển tốt trong thời đại hiện nay.
Còn theo nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, cho dẫu cái nhìn và quan điểm của nhà nước và của đảng cộng sản về truyền thông xã hội như thế nào đi nữa thì cũng không có sức thuyết phục vì quá bảo thủ, quá lạc nhịp mà còn vi phạm quyền được thông tin, quyền thể hiện và tự do biểu đạt trong Công Ước Quốc Tế Về Chính Trị Và Quyền Dân Sự mà Việt Nam đã ký kết năm 1982.
T.T.
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét