Thứ Tư, 12 tháng 6, 2019

20190612. BÀN VỀ NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC

ĐIỂM BÁO MẠNG

THƯƠNG CHIẾN MỸ-TRUNG ĐANG ĐỊNH HÌNH CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH TOÀN DIỆN

 pv NGUYỄN TUYỀN / DT 7-6-2019

Thương chiến Mỹ - Trung đang định hình cuộc chiến tranh lạnh toàn diện - 1

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trần Bạt

 Theo luật sư, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trần Bạt, cuộc chiến thương mại đang leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc đang cho thế giới nhiều bài học lớn, nó cũng cho Việt Nam thấy những xu hướng mới mà phải nghiên cứu, nhìn sớm ra vấn đề để có đối sách phù hợp. 

Phóng viên Dân Trí đã phỏng vấn ông Nguyễn Trần Bạt một số vấn đề của cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã, đang được xem là tâm điểm của thế giới những năm gần đây.
Thưa ông, hiện Mỹ đang đánh mạnh vào "yết hầu" của Trung Quốc ở lĩnh vực công nghệ để làm suy yếu lợi ích Trung Quốc, theo ông sắp tới Mỹ sẽ hướng đến lĩnh vực nào để bắt Trung Quốc phải nhượng bộ?
- Tôi nghĩ người Mỹ đã làm việc quan trọng nhất trong chiến lược đối phó với Trung Quốc. Trong tất cả các tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển thì khoa học và công nghệ là cốt yếu nhất và cũng là mặt yếu nhất của các nước đang phát triển, trong đó có Trung Quốc.
Các nước đang phát triển hiện vẫn đi sau phương tây về khoa học và công nghệ. Người Mỹ với những đòn chiến tranh công nghệ như hiện nay đã đánh vào điểm yếu của các nước đang phát triển.
Tại sao người Mỹ lại muốn hạn chế Trung Quốc? Bởi vì ưu thế Trung Quốc bao giờ cũng gắn liền với ưu thế chính trị. Nếu như yếu đi về chính trị thì sớm hay muộn cũng sẽ có sự yếu đi về kinh tế.
Năm 2008 phương Tây bắt đầu suy thoái, chủ nghĩa tư bản bắt đầu bộc lộ vấn đề của nó, lúc bấy giờ phương Tây mới nhận ra là mình sai tưởng rằng thuê người Trung Quốc làm thì họ sẽ vĩnh viễn là người làm của mình, không ngờ kẻ làm thuê ấy trở thành chủ công xưởng của thế giới và bắt đầu bước những bước rất căn bản để làm chủ nền kinh tế thế giới.
Khi nhìn ra vấn đề, nước Mỹ liền đánh ngay vào điểm yếu nhất mà Trung Quốc có muốn chống đỡ cũng không làm ngay được, đó là khoa học và công nghệ. Nếu xét về mặt tranh đấu thì người Mỹ đã làm đúng.
Chúng ta cũng thấy Trung Quốc hiện nay phát triển được khá nhiều sản phẩm khoa học công nghệ, cả tàu vũ trụ, cả máy bay họ đều đã làm được? Ông có cho rằng đã quá muộn để Mỹ ngăn chặn Trung Quốc phát triển?
- Chẳng có lý do gì mà người Trung Quốc lại phải khoanh tay ngồi chờ người Mỹ gõ đầu mình. Người Trung Quốc sẽ kháng cự, đầu tiên là kháng cự về chính trị, kháng cự bằng cách tận dụng các hiệp ước, các quan hệ quốc tế đã được hình thành.
Người Trung Quốc có thể đấu tranh dựa trên tất cả những thỏa thuận đã có trong quá khứ. Nhưng không chỉ có đấu tranh về chính trị, họ sẽ đấu tranh bằng đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ và đầu tư để phát triển Trung Quốc thành một thị trường.
Họ sẽ phải thay thế nền kinh tế xuất khẩu bằng nền kinh tế nội địa, “kinh tế bản thể”. Tất cả các quốc gia nếu không có kinh tế bản thể đều không ổn định. Trung Quốc trong khi mải mê kiếm ăn ở các thị trường quốc tế đã quên mất nhiệm vụ cải thiện điều kiện sống trong nước để hình thành thị trường nội địa.
Tôi nghĩ sự kháng cự của Trung Quốc phải dựa trên một chính sách chiến lược gồm ba vấn đề: Phát triển khoa học công nghệ; phát triển Trung Quốc thành một thị trường cho chính hàng hóa Trung Quốc; cải cách hệ thống giáo dục để cung cấp cho thị trường nội địa và nền khoa học công nghệ những yếu tố có thể triển khai được.
Nếu như chỉ nghiên cứu mà không triển khai được thì kết quả nghiên cứu chỉ xếp tủ. Nghiên cứu mà không triển khai được là bài học kinh nghiệm của khối xã hội chủ nghĩa. Người ta khoe mình giỏi, mình có thể lên vũ trụ sớm hơn thiên hạ, mình nói nhiều thuật ngữ hơn thiên hạ, có nhiều giải thưởng hơn thiên hạ…, tức là thay thế việc triển khai bằng lời nói.
Tôi nhớ, trong một buổi họp của Chính phủ Anh trước đây, Thủ tướng Churchill nói về chiến tranh thế giới thứ hai và kêu gọi người Anh kháng chiến.
Sau khi nghe Churchill nói một hồi, ông bộ trưởng ngoại giao không hiểu nên hỏi ông bộ trưởng chiến tranh ngồi kế bên: “Điều gì đang xảy ra vậy?”.
Ông bộ trưởng chiến tranh trả lời: “Ngài Churchill vừa huy động 40.000 từ tiếng Anh ra trận”!
Có thể cuộc chiến thương mại Mỹ với Trung Quôc sẽ kích thích Trung Quốc chủ động hơn trong chiến lược của mình, nhiều trò chơi mới, cách thức mới sẽ được người Trung Quốc nghĩ ra, lợi dụng để "đấu" với Mỹ ?
- Có thể khái quát câu chuyện Mỹ "đánh" vào Trung Quốc như thế này: Trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu cân bằng lợi ích của các quốc gia đã bắt đầu biến sự cạnh tranh thương mại giữa các công ty, các tập đoàn lợi ích thành sự cạnh tranh giữa các quốc gia với nhau.
Nó là tiền đề cho sự xuất hiện một cuộc chiến tranh lạnh mới, cao hơn cuộc chiến tranh lạnh cũ giữa phương Tây và Liên Xô trước đây. Cao hơn bởi vì nó toàn diện hơn; không chỉ ở chỗ khoe mẽ với nhau về thành tựu, mà còn vì các bên đã khôn hơn, khỏe hơn, thông minh hơn.
Người ta gọi những sáng tạo về mặt khoa học công nghệ là sự thông minh; sự sáng tạo, khéo léo về chính trị là sự khôn ngoan; và hiệu suất cạnh tranh của nền kinh tế là tính hiệu quả của cả chính trị lẫn khoa học công nghệ.
Người Mỹ sẽ làm gì Trung Quốc và làm đến đâu? Tôi khẳng định họ sẽ làm đến một cuộc chiến tranh lạnh, sâu sắc hơn, ghê gớm hơn và cụ thể hơn so với cuộc chiến tranh lạnh thế giới chưa từng có.
"Cuộc chiến tranh lạnh mới"? theo ông Mỹ muốn dùng kinh tế để kìm hãm một Trung Quốc đang trỗi dậy về mọi mặt?
- Cuộc chiến tranh lạnh trước đây là cuộc chiến thuần túy về ý thức hệ. Mọi sáng tạo trước đây trong cuộc chiến tranh lạnh cũ với Liên Xô là để biểu dương ý thức hệ. Còn mọi sáng tạo bây giờ là để các quốc gia hùng mạnh hơn và thắng trong từng cuộc cạnh tranh một.
Chúng ta phải hình dung cuộc chiến tranh lạnh mới không thể chỉ đối phó bằng lời nói mà còn bằng lao động thật sự, sáng tạo thật sự, bằng cả sự khôn ngoan về chính trị, sự thông minh về khoa học và sự cần cù trong lao động phát triển kinh tế.
Nếu không hiểu điều ấy thì chúng ta sẽ không có khả năng phán đoán tương lai của bất kỳ cái gì, cả tương lai của chúng ta lẫn tương lai của cuộc chiến tranh thương mại, tương lai của thế giới.
Thế giới đang chuyển dần từ một cuộc chiến tranh lạnh cổ điển đến một cuộc chiến tranh lạnh hiện đại. Chiến tranh lạnh lần này là sự đối đầu giữa các quốc gia dựa trên ba yếu tố: sự khôn ngoan chính trị, sự thông minh về khoa học-công nghệ và sự cần cù lao động phát triển kinh tế.
Mỹ đã phát động chiến tranh lạnh hiện đại bằng cách tấn công vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, điểm yếu nhất của phương Đông và của Trung Quốc.
Theo ông, liệu Trung Quốc sẽ làm gì và làm cách nào để không sa lầy vào chiến tranh lạnh mới của Mỹ, hoặc có thể đối đầu và dẫn đến thắng lợi với Mỹ, chí ít về mặt kinh tế, thương mại?
- Chúng ta đừng nghĩ chỉ có phương Tây mới đi trước, vào thế kỷ 15 và 16, kinh tế Trung Quốc đã lãnh đạo thế giới. Tất cả các hiện tượng khoa học và công nghệ người Trung Quốc đều có trước.
Toán học Trung Quốc phát triển trước, thuốc nổ Trung Quốc cũng phát triển trước…, thương mại quốc tế thì Trung Quốc đi trước thiên hạ rất xa. Con đường tơ lụa đã hình thành từ thế kỷ thứ 2, trước Công nguyên.
Trung Quốc đi trước, nhưng vì thắng lợi nên tự mãn và sai lầm một cách toàn diện trong cả triết lý, tôn giáo lẫn khoa học. Kết quả là Trung Quốc trở thành kẻ đi chậm và trở thành người làm thuê của các nước phương Tây vào những năm cuối thế kỷ 19.
Trước kia, chiến tranh lạnh cũ hình thành bằng sức mạnh quân sự. Để ngăn cản chiến tranh thật thì các chính phủ dùng sức mạnh quân sự gầm gừ đe dọa nhau. Còn chiến tranh lạnh bây giờ là cuộc chiến tranh của mọi người, cuộc chiến tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học. Các chính phủ hiện nay phải chịu trách nhiệm lãnh đạo để đối phó với cuộc chiến tranh lạnh mới.
Nhiều người có quan điểm ngược lại, với lợi thế dân số, sự ảnh hưởng chín trị, Trung Quốc có thể tận dụng cuộc chiến tranh thương mại mà Mỹ gây ra để kích thích tinh thần Đại Hoa, họ sẽ tiếp tục nhún nhường Mỹ để thực sự lớn mạnh đến lúc Mỹ không thể áp đặt được họ?
- Khi anh đánh người ta thì anh cũng mất sức, cho nên cuộc chiến tranh lạnh này đòi hỏi phải kiên trì. Người Trung Quốc sẽ lặng lẽ làm nhiều việc trong đó có nghiên cứu ra cách thức mới để đối phó với Mỹ.
Nói cái gì cũng phải nghĩ đến Việt Nam. Chúng ta phải khắc phục các nhược điểm có trong giai đoạn cũ, đó là dựa dẫm vào viện trợ và tỉnh táo trước những chiêu bài của các nước lớn. Chúng ta đã từng có thời kỳ sống bằng viện trợ, rất đói kém và năm 1986, chính sách Đổi mới, mở cửa đã cứu đất nước chúng ta.
Trước đây chúng ta từng đối mặt với các kẻ địch quân sự, bây giờ chúng ta phải đối mặt cả với các kẻ địch kinh tế, với những chiêu bài khác nhau và phải tỉnh táo, tự chủ.Tôi được biết, trong thập niên 80 của thế kỷ 20, Mỹ đã khơi mào cuộc chiến thương mại với Nhật Bản, nhiều nhà phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ không thất bại như Nhật trước đây bởi tiềm lực của nước này hiện mạnh hơn?
- Tôi nghĩ hai việc này khác nhau, Mỹ gây chiến về kinh tế với Nhật Bản năm 1980 là vì Nhật Bản có những lầm tưởng về sức mạnh kinh tế của mình.
Người Nhật lúc đó tưởng mình có thể mua hết nước Mỹ, rất nhiều người Nhật bỏ tiền ra mua các đảo ở Hawai, rất nhiều công ty Nhật xâm chiếm thị trường và mua các công ty của Mỹ. Hành động lúc ấy của Mỹ là một hành động cục bộ nhằm ngăn chặn khuynh hướng tiêu cực giữa hai đồng minh, cho nên họ không đánh nhau đến chết.
Sự va chạm kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ năm 1980 không phải là dấu hiệu của một cuộc chiến tranh lạnh, nhưng vấn đề của Mỹ và Trung Quốc hiện nay là biểu hiện của một cuộc chiến tranh lạnh. Hai quy mô khác nhau, với tính chất khác nhau, không nên so sánh. Việc so sánh sẽ khiến chúng ta nhầm lẫn và phân tích tình thế sai.
Nước Nhật không hề thất bại trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ thập niên 80 của thế kỷ 20 mà họ nhún nhường, mềm mại lùi một số bước căn bản và giữ được mình, chấp nhận trở thành nền kinh tế đứng thứ ba thế giới.
Người Nhật vĩ đại là bởi họ biết lùi, sự phát triển chính trị là một quá trình buộc phải có, nhưng phải kiên nhẫn và phải chịu đựng. Không phải cứ muốn có dân chủ tự do, muốn sáng tạo là có ngay được.
Trân trọng cảm ơn ông!
Nguyễn Tuyền (Thực hiện)
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:
>Thương chiến Mỹ - Trung căng thẳng, giá vàng tăng mạnh
>>"Thương chiến" căng thẳng, Trung Quốc đổ hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam
>>Trung Quốc tung “vũ khí hạt nhân” trong cuộc thương chiến với Mỹ

CHÚNG TA HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC ?

THU QUỲNH, HẢO LINH / TS 7-6-2019


Có lẽ là không nhiều lắm!

Xe tải nối nhau chở nông sản qua cửa khẩu sang Trung Quốc. Ảnh: Dân Việt. 


Vào năm 2012, tình trạng cấm biên ở cửa khẩu quốc tế Móng Cái diễn ra từ tháng 3 đến tháng 10, chưa bao giờ lâu đến như vậy1. Hàng ngàn container, phần lớn là hàng đông lạnh bị ách lại tại đây. Các cơ quan chức năng tìm mọi cách để đưa hàng hóa sang các lối cửa khẩu khác, nhưng chỉ giải quyết được 1/30 số hàng đang lưu kho. Ngoài ra toàn bộ các dịch vụ lo giấy tờ xuất nhập khẩu ở Móng Cái – nguồn sinh kế của nhiều người dân ở thành phố này bị đình trệ.
Đến bây giờ, tình trạng ách tắc tại các cửa khẩu mỗi mùa nông sản vẫn là nỗi lo thường trực của người dân. Thậm chí trong dịp Tết Nguyên Đán vừa rồi, Thủ tướng đã phải đăng đàn để chỉ đạo thông quan cho các hàng hóa xuất khẩu2. Đó chỉ là một ví dụ cho thấy một động thái nhỏ từ phía Trung Quốc có thể ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nó khiến dấy lên câu hỏi, chúng ta đã hiểu gì về tư duy, hành vi và lựa chọn của quốc gia này để có thể “chung sống” với họ?  Có lẽ là không nhiều lắm!
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng. Vì vậy, nhu cầu nghiên cứu Trung Quốc của Việt Nam là “tự thân”, “thường xuyên” của ông cha ta trong suốt chiều dài lịch sử để “thích ứng”. Kể từ sau khi hai Đảng thành lập và trở thành đảng cầm quyền, Trung Quốc và Việt Nam lại càng có nhu cầu “trao đổi và tham khảo kinh nghiệm của nhau”, bởi hai nước cùng chung mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước. Trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ với tham vọng trở thành một đế chế siêu cường, thì nghiên cứu về Trung Quốc học càng trở nên hết sức cần thiết.
Có những điều kiện đặc biệt như vậy, nhưng Việt Nam chưa tổ chức nghiên cứu người láng giềng này một cách đúng mức. PGS. Jonathan London, nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc, Đại học Leiden, Hà Lan cho rằng: “Những nhà nghiên cứu Việt Nam ở một vị trí mà lẽ ra phải có một hiểu biết sâu sắc hơn các quốc gia khác về Trung Quốc, nhưng lại hiếm khi có cơ hội triển khai và công bố những nghiên cứu sử dụng những phương pháp và tiêu chuẩn được công nhận trên thế giới”.
Thiếu liên kết và thông tin
Hiện nay, nghiên cứu Trung Quốc học được tập trung ở một số nơi, trong đó lâu đời và có nhiều dấu ấn hơn cả là Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc và Bộ môn Trung Quốc học, trực thuộc Khoa Đông phương học, đặt tại trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, còn Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc trường Đại học KHXH&NV TP. HCM mới thành lập ba năm nay và chưa có kết quả nổi bật. Ngoài ra, số đơn vị, chương trình nghiên cứu khác như Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), ĐHQGHN thường phân tích cập nhật tình hình kinh tế Trung Quốc; các khoa dạy ngôn ngữ Trung văn thuộc Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN hoặc Đại học Hà Nội tập trung vào giảng dạy, giao lưu về ngôn ngữ chứ không nghiên cứu khu vực học. Việc nghiên cứu về Trung Quốc của các bộ ngành như Ngoại giao, Công an, Quốc phòng… thường tập trung vào các đối sách chứ không nhằm nghiên cứu liên ngành và toàn diện về Trung Quốc. Để nghiên cứu cơ bản tốt, các đơn vị chuyên nghiên cứu về Trung Quốc như Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm KHXH tập trung vào các chương trình nghiên cứu lớn gồm: Nghiên cứu Trung Quốc truyền thống; Nghiên cứu về Trung Quốc hiện đại, đặc biệt là cải cách mở cửa; Nghiên cứu về quan hệ Việt – Trung, ngoài ra nghiên cứu phát hiện và cảnh báo sớm những nguy cơ có thể xảy ra, như chiến tranh thương mại Mỹ - Trung hiện nay sẽ đem lại các nguy cơ gì về kinh tế xã hội.
Mặc dù nghiên cứu cơ bản về Trung Quốc học có vai trò là “đầu vào” cho các tư vấn, tham mưu chính sách của các bộ, ngành nhưng việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị nghiên cứu với nhau và với các cơ quan tư vấn chính sách còn chưa tốt. Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc thuộc ĐHQGHN được mở ra từ năm 2016 với kỳ vọng triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu có tính liên ngành, xây dựng và kết nối chuyên gia nhưng cũng chỉ tập hợp lực lượng nghiên cứu Trung Quốc họp một lần duy nhất để bàn bạc … rồi cho đến nay chưa thấy khởi động lại. Theo GS. Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu của Trung Quốc, cơ quan nghiên cứu và tham mưu chính sách cần ngồi lại với nhau một cách “phi chính thức chứ không nhất thiết phải có cơ chế cứng nhắc” để cùng phân tích nhận định tình hình, khoảng 3 – 6 tháng một lần, nhưng cũng chưa thực hiện được. Các đơn vị tham mưu thuộc các bộ, ngành có nguồn tin riêng cũng như cập nhật thường xuyên từ các địa phương, còn các cơ quan nghiên cứu về Trung Quốc lại thường xuyên giao lưu học giả, nên có rất nhiều thông tin có thể chia sẻ cho nhau, cùng nhau phân tích. Tuy nhiên, có điều đáng tiếc là, “nhiều thông tin từ phía các cơ quan tham mưu thường khó tiếp cận”.




Những tiểu thương buôn bán hàng qua cửa khẩu Móng Cái. Ảnh: Nguyễn Văn Chính. 

Mặt khác, việc đầu tư cho nghiên cứu khu vực học về Trung Quốc có thể nói là “nghèo nàn” và chưa có một chiến lược bài bản. Nhiều sản phẩm nghiên cứu về Trung Quốc là nghiên cứu “chay”, tức là mới chỉ dừng ở chỗ tìm hiểu thông qua các nguồn tài liệu bằng tiếng Trung qua các trang mạng, chứ ít có điều kiện đi khảo sát thực tế tại Trung Quốc. Chỉ có một vài nhà nghiên cứu kỳ cựu mới đủ năng lực và kinh nghiệm xin các quỹ kinh phí cho khảo sát và giao lưu học thuật quốc tế. Cho nên, khi trao đổi với chúng tôi, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá, ấn phẩm duy nhất có tính hàn lâm về nghiên cứu Trung Quốc hiện nay là Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốccũng có nhiều công bố dựa vào nguồn tư liệu cấp hai, thậm chí là công bố các vấn đề về Trung Quốc “thông qua con mắt của người Trung Quốc”. Những thành tựu đáng kể hiện nay về nghiên cứu Nho học Trung Quốc phần nhiều nhằm thông qua đó để hiểu về Nho học Việt Nam truyền thống, hoặc chuyển tải các nghiên cứu Nho học của Việt Nam ra nước ngoài, hơn là hình dung một cách đầy đủ về Nho học Trung Quốc, theo một nhà nghiên cứu đề nghị giấu tên của trường ĐH KHXH&NV Hà Nội.





Mặc dù ít ỏi như vậy, hiện chỉ có Viện Nghiên cứu Trung Quốc là có nguồn đề tài nhất định, và thường xuyên từ hệ thống đề tài cấp viện, cấp bộ... về nghiên cứu Trung Quốc, còn đa số giảng viên ở các trường đại học thường phải kiêm nhiệm công tác giảng dạy và cũng không có đề tài thường xuyên mà phải “bươn chải” để có được xuất bản phẩm. Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc của Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội có hàng chục đầu sách về Nho học, trong đó nhiều sách là kết quả hợp tác với Đại học Bắc Kinh và Đại học Quốc gia Đài Loan, chủ yếu gắn với sự nỗ lực vận động của PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, hiện nay là Giám đốc ĐHQG HN, kiêm Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm. Trong khi đó, Đại học Sư phạm Hà Nội từng thành lập Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc nhưng từ lâu cũng phải dừng hoạt động và giám đốc Trung tâm chuyển hướng sang nghiên cứu Hàn Quốc học - theo TS Nghiêm Thúy Hằng, Bộ môn Trung Quốc học, Khoa Đông phương học, trường ĐH KHXH&NV Hà Nội. “Không được đầu tư, để các nhà khoa học tự bơi, tự đi tìm kinh phí nghiên cứu, thì nhà khoa học chỉ … bơi được thế thôi”, TS. Nghiêm Thúy Hằng nói.
Việc đào tạo nghiên cứu khu vực học về Trung Quốc ở Việt Nam cũng đang thiếu bài bản. Thông thường, để có được một số nhà nghiên cứu “sắc nhọn” về Trung Quốc học hay bất cứ một khu vực nào khác, các cơ sở đào tạo cần phải nhận được “đơn đặt hàng” của các cơ quan nghiên cứu hoặc bộ ngành để tuyển chọn sinh viên xuất sắc. Số sinh viên này được đào tạo ở trong nước với những nhà khoa học thực sự am hiểu Trung Quốc và sau đó sẽ được cử đi nước ngoài rồi về với những địa chỉ sẵn sàng nhận họ trở lại. Hiện nay nguồn kinh phí từ các quỹ quốc tế cho nghiên cứu sinh nghiên cứu về Trung Quốc rất dồi dào, vì “cả thế giới đang phải nghiên cứu Trung Quốc”, nhưng vấn đề đặt ra là nghiên cứu xong các em sẽ về đâu? TS. Nghiêm Thúy Hằng đặt câu hỏi. Nhiều học viên của bà sau khi được đào tạo bài bản xong đã đi tìm kiếm công việc khác hoặc chỉ dạy ngoại ngữ là “rất phí”. Hoặc nhiều người đi theo con đường nghiên cứu nhưng cứ phải “lờ phờ” với nguồn kinh phí ít ỏi cho tới khi tự mình tìm kiếm hoặc đứng tên được đề tài cấp bộ, và con số đó không nhiều, chỉ đếm trên đầu ngón tay trong số nhà nghiên cứu về khu vực học vẫn còn ít ỏi ở Việt Nam. Trong khi đó, các chuyên viên ngoại giao hầu hết được tuyển chọn chỉ với tiêu chí thành thạo tiếng Anh. “Thứ quan trọng nhất không phải tiếng Anh mà là hiểu biết về sự tương đồng và khác biệt giữa các quốc gia, giữa các nền văn hóa, nhất là trong bối cảnh xung đột về ý thức hệ và giá trị cốt lõi giữa các quốc gia, các nền văn minh. Do đó, học khu vực học, là để có căn cốt văn hóa, có mẫn cảm khoa học, giúp đủ phẩm chất, đáp ứng nhu cầu công việc [công tác ngoại giao]”, TS. Nghiêm Thúy Hằng nói.
Nghiên cứu “khu vực học được coi như là công nghệ trong KHXH&NV, học hỏi tất cả những thành tựu mới nhất của các ngành KHXH&NV, sau đó giải bài toán thực tế liên quan đến những quyết sách, vận mệnh, lợi ích quốc gia”, để tạo ra một “vũ khí lợi hại nhắm tới thay đổi tư duy con người, khiến cho con người đáng lẽ ra không đồng ý thì nay lại đồng ý” đã trở thành một chiến lược được đầu tư bài bản, không chỉ bởi các nước hùng mạnh, mà còn cả các tập đoàn như Ford, Rockefeller. Những bài học của nhiều quốc gia đã cho thấy vai trò của khu vực học, như cuốn sách “Hoa cúc và gươm” của Ruth Benedict đã giúp cho Mỹ thực sự hiểu Nhật Bản và trả lời được câu hỏi “ Nếu Mỹ ném bom nguyên tử thì Nhật hoàng có đầu hàng hay không?”, từ đó có chiến lược và quyết sách mang tính quyết định trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Không chỉ “nhất thời” như vậy, công trình so sánh văn hóa này của bà Benedict đã trở thành kinh điển, gối đầu giường cho những người làm chính trị ở Mỹ và cả Nhật Bản trong nhiều năm sau. Ngay cả Trung Quốc, trước khi tiến hành chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979, GS Đái Khả Lai và các cộng sự ở Đại học Trịnh Châu tiến hành các nghiên cứu về Việt Nam, biên soạn “sách trắng” và sau này nhóm của ông còn sản xuất cả các tài liệu ngụy tạo lịch sử về Trường Sa và Hoàng Sa. Còn Việt Nam thì sao? Nhìn thẳng thắn như PGS.TS Nguyễn Văn Chính, trường ĐH KHXH&NV HN, thì Việt Nam chưa hình thành cái gọi là Trung Quốc học theo nghĩa đầy đủ và toàn diện của từ này, mà mới chỉ có nghiên cứu về Nho học, Hán nôm học mà thôi.
Không thể ngày một ngày hai mà có những câu trả lời ngay lập tức, có những thành tựu nghiên cứu đóng góp vai trò quan trọng cho việc xây dựng chiến lược quốc gia được. “Không thể chỉ "hớt váng" mà có khu vực học. Khu vực học là một ngành học rất ‘lâu công, đắt tiền’ và cần đầu tư bài bản từ đào tạo cho tới thành lập nhóm nghiên cứu - vừa có nhà nghiên cứu khu vực học là trưởng nhóm, vừa có các thành viên từ các chuyên ngành KHXH&NV khác”, TS. Nghiêm Thúy Hằng nói. “Và nghiên cứu là để nhằm tạo ra ‘công nghệ’ hữu dụng cho các chính sách chứ không phải nghiên cứu để chơi”. Trước hết, cần có định hướng với nhu cầu thực sự, đặt hàng các nhà nghiên cứu trả lời những câu hỏi quan trọng. Thay cho tình trạng hiện nay là, mỗi khi xây dựng các chiến lược, thì chỉ có các chuyên viên ở các bộ ngành tiến hành, đến sát ngày ra văn bản mới bắt đầu lấy ý kiến các nhà nghiên cứu. Nếu vẫn còn tư duy theo kiểu “ăn đong” tuỳ tiện như vậy thì sẽ gây  thiệt hại cho đất nước, khó có chính sách bền vững, khó lòng  giải mã  văn hóa để có ứng xử phù hợp, đối thoại thành công và chung sống hài hòa với các quốc gia khác, tối ưu hóa lợi ích quốc gia.





Vắng bóng trên các diễn đàn quốc tế?
TS. Nghiêm Thuý Hằng chia sẻ, không chỉ bà mà nhiều nhà nghiên cứu nhận định, từ trước đến nay, Viện nghiên cứu Trung Quốc của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam mới chỉ chủ yếu kết nối với giới học giả Trung Quốc, còn chưa có điều kiện tiếp xúc với các nhà Trung Quốc học của Mỹ và các nước phương Tây khác vì kinh phí và rào cản ngôn ngữ. Nhiều công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc phần nhiều tham khảo từ nguồn sách báo tiếng Trung. GS. Đỗ Tiến Sâm cho biết, những người vừa có chuyên môn về một lĩnh vực, vừa biết tiếng Trung vừa biết tiếng Anh như TS. Phạm Sỹ Thành (VEPR) là “hiếm” trong giới nghiên cứu trẻ về Trung Quốc ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, khi chia sẻ với chúng tôi, TS. Thành cho biết mình còn ít công bố quốc tế vì những lí do liên quan đến công việc tư vấn cho các công ty bên ngoài.
“Trong khu vực học cần phải kết nối với Mỹ, Nga, Ấn Độ, Đài Loan” – TS. Nghiêm Thuý Hằng nhấn mạnh nhiều lần. Mỹ được coi là một trong những “cường quốc” về Trung Quốc học, khởi nguồn từ những năm 1950. Tất cả các “ngõ ngách” của Trung Quốc đều ghi dấu chân của học giả Mỹ, kể cả những vùng “nhạy cảm” như Tân Cương và khu tự trị Tây Tạng. Người Mỹ đã có được cái nhìn sâu sắc và chi tiết về gần như tất cả các khía cạnh của Trung Quốc truyền thống và đương đại3. Các trường Đại học lớn của Mỹ từ công lập đến tư nhân, các think tank, quỹ tư nhân đều đổ tiền cho Trung Quốc học. Rất nhiều sinh viên Trung Quốc tài năng có chuyên ngành về Hoa Kỳ học được tuyển luôn cho các chương trình Trung Quốc học ở Mỹ, nơi họ có lợi thế không phải bàn cãi.

Hội thảo “Chuyển đổi phương thức phát triển của Trung Quốc” năm 2014 do Viện Nghiên cứu Trung Quốc tổ chức. Tại đây, đại sứ Trung Quốc  tại Việt Nam Hồng Tiểu Dũng đã trình bày về những vấn đề đặt ra trong quá trình đi sâu cải cách toàn diện và chuyển đổi phương thức phát triển gần đây ở Trung Quốc. Nguồn: vnics.org.vn

Thế nhưng, giới học giả nghiên cứu Trung Quốc ở Việt Nam có vẻ xa lạ với phương Tây. Bill Hayton, nhà báo và nhà nghiên cứu tại một trong những think tank có ảnh hưởng nhất thế giới - Chatham House, tác giả của hai quyển sách Việt Nam: Con rồng trỗi dậy và Biển Đông - Sự tranh giành quyền lực ở châu Á, trả lời chúng tôi: “Ngoại trừ một hai ngoại lệ, nếu có học giả Việt Nam nào có thể bình luận về chính trị khu vực mà các nhà báo quốc tế có thể phỏng vấn, thì họ là những người làm việc ở nước ngoài. Những nghiên cứu của Việt Nam về Trung Quốc tìm đỏ mắt cũng không thấy”. Còn PGS Jonathan London chỉ thấy những mẩu bình luận cảm tính về Trung Quốc trên báo nước ngoài của các học giả Việt Nam chứ không phải là các nghiên cứu khoa học có bình duyệt. Nếu công bố quốc tế của Việt Nam gọi là có liên quan đến Trung Quốc thì phần lớn là về Biển Đông.

Một vấn đề khác mà các học giả phương Tây nhận định, là nghiên cứu Trung Quốc ở Việt Nam bị hạn chế tự do học thuật. Bill Hayton thì cho rằng ông không thể phỏng vấn người Việt Nam ở trong nước về vấn đề chính trị khu vực, một phần lớn là do họ luôn đề nghị giấu tên và không thể nói một cách tự do và độc lập như các học giả nước ngoài. Jonathan London thì cho rằng, những nghiên cứu phản biện Trung Quốc dễ bị coi là “nhạy cảm”. Ông lấy ví dụ, những nghiên cứu so sánh những hành động của Trung Quốc hiện nay với những động thái của các quốc gia được cho là bành trướng sức mạnh đế quốc trong lịch sử sẽ bị kiểm duyệt ở Việt Nam, điều mà không nhà nghiên cứu nghiêm túc nào có thể chấp nhận.
Trong khi đó, Trung Quốc đã có một bề dày lịch sử trong lĩnh vực Đông Nam Á học, khởi đầu từ trước những năm 1950 – 60, học hỏi phương pháp và quan điểm tiếp cận từ Xô Viết, để phục vụ việc xây dựng chính sách ngoại giao. Thời điểm bấy giờ có bốn cơ sở đào tạo và nghiên cứu của địa phương, chủ yếu tập trung vào dạy ngoại ngữ của các nước Đông Nam Á, nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, lịch sử Đông Nam Á và chính sách ngoại giao của nước này. Tuy nhiên, đến năm 1980-90, ngành học này mới trở thành đầu tư mũi nhọn của Trung Quốc, bùng nổ và được giảng dạy rộng rãi ở hơn mười trường đại học uy tín, lớn nhất của nước này, từ học vị cử nhân đến tiến sĩ và các viện nghiên cứu quốc gia trực thuộc Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại Trung Quốc, nghiên cứu mọi khía cạnh đa dạng của khu vực này từ ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, ngoại giao, luật... Mỗi đại học và viện nghiên cứu như vậy đều có từ một đến hai tạp chí khoa học uy tín trong lĩnh vực Đông Nam Á học. Ở thời điểm này, phương pháp nghiên cứu của họ đã được cập nhật và theo tiêu chuẩn cũng như lý thuyết của phương Tây. Các đơn vị nghiên cứu ở trung ương tập trung vào những vấn đề cấp khu vực nhưng các đơn vị nghiên cứu địa phương tập trung vào từng quốc gia.
Các nhà nghiên cứu Đông Nam Á, không phân biệt ở tỉnh hay trung ương, thường xuyên được mời tham vấn chính sách cho chính phủ và ảnh hưởng của họ lên hoạt động ngoại giao của Trung Quốc. Cụ thể là phần lớn những điều khoản Trung Quốc đặt ra trong Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc là do các học giả Đông Nam Á học của nước này đề xuất.
Việt Nam là một trong số những quốc gia trong Đông Nam Á được Trung Quốc quan tâm đặc biệt. Từ những năm 1950 – 60, các trung tâm, viện nghiên cứu Đông Nam Á của Trung Quốc đều dạy tiếng Việt. Hai trường Đại học lớn của Trung Quốc là Đại học Trịnh Châu (Hà Nam) và Đại học Bắc Kinh đều có bộ phận nghiên cứu Việt Nam học. Riêng Đại học Trịnh Châu, “bộ phận” này là một viện nghiên cứu độc lập, được thành lập từ những năm 1980. Theo một khảo sát trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á từ 1992 – 2004 của hai nhà nghiên cứu John Wong và Lai Hongyi, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia được nghiên cứu nhiều thứ hai, sau Indonesia. Các sinh viên học ngành Việt Nam học nói chung, đều được tuyển chọn, mỗi đợt chỉ khoảng trên dưới 10 sinh viên, vài năm một lần. Đến năm thứ hai đại học, Bộ Ngoại giao sẽ về tận trường đặt hàng những người xuất sắc, tài trợ học bổng để đi học ở Việt Nam một thời gian, về sau trở thành người điều hành các chiến lược ngoại giao. Theo TS. Nghiêm Thúy Hằng,  nhiều  đại sứ Trung Quốc hay cán bộ ngoại giao Trung Quốc ở Việt Nam từng được đào tạo bài bản về Việt Nam học từ những giáo sư hàng đầu Trung Quốc tại Đại học Bắc Kinh, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh hoặc các đại học nổi tiếng khác. Bản thân Trung Quốc cũng mời người Việt Nam sang dạy về tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở nhiều trường đại học, theo diện chuyên gia với mức lương vài chục triệu đồng/tháng (bao chỗ ở). Trung Quốc cũng tận dụng những sinh viên, nghiên cứu sinh người Việt Nam học tập tại Trung Quốc nghiên cứu về Việt Nam. GS. Đỗ Tiến Sâm kể rằng, ông bất ngờ khi thấy nhiều luận án, luận văn  về Việt Nam bằng tiếng Trung  lại do học viên và nghiên cứu sinh người Việt Nam du học tại Trung Quốc thực hiện với sự hướng dẫn của các giảng viên Trung Quốc.
Oscar Salemink, một nhà Việt Nam học hàng đầu và cũng thực hiện một số nghiên cứu về Trung Quốc cho rằng, sự phiến diện trong nghiên cứu về Trung Quốc sẽ ngăn cản Việt Nam có chiến lược và động lực để hiểu biết sâu sắc hơn về quốc gia này, đặc biệt là trong bối cảnh Trung Quốc đang trên đà lấy lại vị trí “cường quốc” trên toàn cầu (bên cạnh Mỹ và vượt qua Nga, Ấn Độ, châu Âu): Việt Nam không may bị rơi vào trò chơi địa chính trị của nước này nhưng đồng thời cũng gặp may hưởng lợi về kinh tế khi ở gần một nước lớn đang phát triển. Làm sao để thăng bằng trên vị trí này phụ thuộc nhiều vào chiến lược nghiên cứu Trung Quốc học của Việt Nam. 
-----
1https://laodong.vn/archived/doi-ben-cung-thiet-vi-cam-bien-tai-cua-khau-mong-cai-672292.ldo
2https://tuoitre.vn/thu-tuong-chi-dao-thong-quan-hang-hoa-xuat-khau-tai-tan-thanh-20180209092327679.htm
3https://www.chronicle.com/article/Chinas-Deficit-in-American/123884

Nghiên cứu Trung Quốc: Cần một sự đột phá 
Trong bối cảnh mới, khi cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, nghiên cứu, dự báo về sự điều chỉnh chiến lược và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Trung Quốc và Mỹ là hết sức cần thiết. Hơn lúc nào hết chúng ta rất cần một sự “đột phá” về thể chế quản lý trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ, để có thể “kết nối”giữa các nhà nghiên cứu về Trung Quốc thuộc các bộ ngành khác nhau, giữa trong nước với nước ngoài, nhằm tạo ra những sản phẩm khoa học có chất lượng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. GS. Đỗ Tiến Sâm


VIỆT NAM LIỆU CÓ LÀ MỘT 'CÔNG XƯỞNG' MỚI ?

VŨ DUNG /TBKTSG 10-6-2019

(TBKTSG) - Việt Nam có thể thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng sản xuất của thế giới dưới tác động từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Nhưng chất lượng công xưởng này như thế nào lại là vấn đề đáng bàn, theo các chuyên gia kinh tế nhận định.

Việt Nam có thể trở thành công xưởng của thế giới dưới tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Trong ảnh: công nhân trong nhà máy sản xuất của Samsung. Ảnh: T.L

Thay Trung Quốc trở thành công xưởng thế giới?

Những tháng qua, nhân viên khu công nghiệp DEEP C Đình Vũ luôn trong tình trạng quá tải khi lượng khách nước ngoài quan tâm đầu tư tại Hải Phòng tăng đột biến.

Liên quan đến diễn biến trên, ông Jaspaert giải thích thêm rằng có thể đã có sự chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc. Theo ông, hầu hết các công ty đa quốc gia trên thế giới đều có chiến lược Trung Quốc + 1. Tức khi tiềm năng sản xuất tại Trung Quốc tới một giới hạn nhất định, họ sẽ dịch chuyển sang các quốc gia lân cận, trong đó Việt Nam là một trong những lựa chọn.
Ông Bruno Jaspaert, Tổng giám đốc khu công nghiệp DEEP C Việt Nam, cho hay nhu cầu tìm hiểu đất khu công nghiệp và khả năng đầu tư tại riêng DEEP C đã tăng gấp đôi so với năm ngoái. Không chỉ vậy, tổng diện tích cho thuê đất tính tới thời điểm cuối tháng 4 của công ty đã bằng với cả năm 2018.
Gần đây, khi thương chiến Mỹ-Trung leo thang, một số chuyên gia kinh tế nhận định chiến lược Trung Quốc + 1 sẽ càng được đẩy nhanh, thậm chí ngay cả các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tìm đường “lánh nạn”. Trước bối cảnh này, Việt Nam được kỳ vọng sẽ thay thế Trung Quốc, trở thành “công xưởng sản xuất” của thế giới.
“Có khoảng 20.000 doanh nghiệp Nhật Bản tại Trung Quốc đang loay hoay tìm hướng dịch chuyển đầu tư”, ông Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), nêu dẫn chứng sau buổi nói chuyện với cựu đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam.
Sự dịch chuyển dòng vốn được thể hiện rõ qua các con số thống kê. Tính đến thời điểm 20-5, Việt Nam có hơn 1.360 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt xấp xỉ 6,46 tỉ đô la Mỹ, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm 2018, theo số liệu của Tổng cục Thống kê. Nếu cộng thêm số vốn điều chỉnh tăng từ các dự án cũ, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm tháng đầu năm đạt gần 9,09 tỉ đô la Mỹ, tăng hơn 27% so với cùng kỳ năm 2018.
Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là nhóm thu hút phần lớn dòng vốn FDI, đạt 4,71 tỉ đô la Mỹ, chiếm 73,5% tổng vốn đăng ký mới, theo Tổng cục Thống kê. Quan sát của ông Bruno Jaspaert cho thấy phần lớn dòng vốn đầu tư vẫn chảy vào lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp, nhưng gần đây, có những dấu hiệu cho thấy nguồn vốn đã dịch chuyển sang lĩnh vực có mức độ công nghệ cao hơn, các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành ô tô Việt Nam.
Nói về khả năng Việt Nam là một trong những nước thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng sản xuất của thế giới, chuyên gia kinh tế Phạm Thế Anh cho rằng viễn cảnh đó đang dần trở thành hiện thực nếu nhìn dòng vốn chảy vào Việt Nam thời gian gần đây.
Quan trọng ở chất lượng công xưởng
Dòng vốn FDI liên tục đổ vào Việt Nam là cơ hội lớn, tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế đất nước. Nhưng năng lực tiếp nhận vốn nước ngoài của Việt Nam cũng ở mức giới hạn, đặc biệt là nguồn lao động.
Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng với tổng lực lượng lao động tính tới hết năm 2018 là 55,64 triệu người. Nhưng với tốc độ già hóa dân số thuộc hàng nhanh nhất thế giới, chỉ khoảng 5-10 năm nữa Việt Nam sẽ đối mặt với tình trạng thiếu lao động, thậm chí cả lao động giản đơn, phục vụ các công việc lắp ráp trong nhà máy.
Theo Liên hiệp quốc, Việt Nam chỉ mất 20 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% tổng dân số, tức chuyển từ giai đoạn “đang già” sang “già” - một tốc độ thuộc hàng cao nhất thế giới. Thậm chí đến năm 2038, nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm đến 20% tổng dân số.
“Những người sinh ra ở thời kỳ bùng nổ dân số (những năm 1980) đang ở tuổi lao động. Nhưng chỉ khoảng 10 năm nữa, lực lượng lao động này sẽ bước vào cuối tuổi làm việc. Họ sẽ không thể làm được những công việc nặng nhọc, độc hại, lắp ráp tại các dây chuyền của doanh nghiệp FDI”, ông Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế nói.
Do đó, đáp ứng được số lượng lao động giản đơn đã là bài toán khó với Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang là quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, chủ yếu nằm trong đoạn gia công lắp ráp là chính. Muốn trở thành nước có mức thu nhập trung bình, Việt Nam phải vươn lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị, thông qua lực lượng lao động có trình độ. Nhưng chất lượng lao động hiện nay cũng là vấn đề đau đầu khi tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 22%, trong đó phần lớn là đào tạo bậc đại học, số lao động có tay nghề kỹ thuật rất thấp.
“Đây là bất cập lớn và cần thời gian dài để giải quyết”, ông Phạm Thế Anh nói.


Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm tháng đầu năm, tổng vốn đăng ký mới và đăng ký điều chỉnh từ thị trường Trung Quốc đạt 1,69 tỉ đô la Mỹ. Nếu tính cả nguồn vốn từ Hồng Kông và Đài Loan thì con số này lên tới 3,16 tỉ đô la Mỹ, chiếm 34,76% tổng vốn đầu tư của Việt Nam trong cùng giai đoạn.
Trung Quốc là nước mà Việt Nam có thâm hụt thương mại lớn thứ hai trong quí 1-2019, sau Hàn Quốc. Việc Trung Quốc vươn lên trở thành nhà đầu tư lớn nhất là một vấn đề rất đáng quan ngại, đặc biệt là vấn đề nhập siêu, theo các chuyên gia.
Một vấn đề khác là Việt Nam cũng không được hưởng lợi nhiều từ quá trình dịch chuyển sản xuất này vì các doanh nghiệp chuyển phần lớn lợi nhuận về nước họ. “Những năm qua, thu nhập của người nước ngoài tại Việt Nam chuyển ra rất lớn. Năm 2017, số tiền dịch chuyển khỏi Việt Nam khoảng 17 tỉ đô la Mỹ, năm 2018 tăng lên khoảng 20 tỉ đô la Mỹ”, ông Phạm Thế Anh trích số liệu từ Tổng cục Thống kê.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và đứng thứ 5 thế giới về độ mở của nền kinh tế. Việt Nam cũng là nước rộng cửa nhất đón dòng vốn FDI để khu vực này đóng góp cao nhất cho nền kinh tế. Nhưng đây cũng là vấn đề đáng quan ngại.
Mỹ là nước thu hút FDI lớn nhất thế giới, tiếp đến là Trung Quốc, vượt trội hơn Việt Nam rất nhiều. Song, nếu xét tỷ lệ FDI đóng góp trong GDP thì Việt Nam ở mức cao nhất, cao hơn hẳn Trung Quốc. Những con số gần đây cho thấy đóng góp của FDI chỉ vào khoảng 6% GDP của Trung Quốc. Trong khi đó, FDI đóng góp khoảng 20% GDP và hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Nói về khả năng Việt Nam là một trong những nước thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng sản xuất của thế giới, chuyên gia kinh tế Phạm Thế Anh cho rằng viễn cảnh đó đang dần trở thành hiện thực nếu nhìn dòng vốn chảy vào Việt Nam thời gian gần đây. Nhưng điều quan trọng hơn là Việt Nam tận dụng được gì từ công xưởng này.
Chất lượng công xưởng, theo ông Thế Anh, sẽ phụ thuộc vào một loạt chính sách từ đào tạo lao động, tiền lương, môi trường..., cho đến cả bộ lọc FDI.



'VIỆT NAM SẼ KHÔNG THỂ LÀ TRUNG QUỐC'


AN VIÊN /BVN 12-6-2019


Image result for Hình Tập Cạn Bình và Nguyá»…n Phú Trọng  
Foreign Policy ngày 6.6 nhận định, Việt Nam sẽ không thể là Trung Quốc.
Bài viết này đến từ quan điểm nêu trên, mặc dù bản thân ý thức hệ cũng như những giải pháp chỉnh đốn Đảng thời ông Nguyễn Phú Trọng khiến nhiều người sa sút niềm tin về sự độc lập, tự chủ trong quản trị đường lối quốc gia.
Xét trên thuộc tính kế thừa, kể từ thời điểm Khúc Thừa Dụ, người mở đầu thời đại tự chủ dân tộc, và Ngô Quyền, người mở đầu kỷ nguyên độc lập của quốc gia Việt Nam thì đến nay, lòng tự tôn dân tộc chưa bao giờ cạn trong con người Việt. Nhắc đến Trung Quốc là sự dè chừng cho đến căm phẫn, bởi lịch sử giao tranh hàng ngàn năm và những mưu đồ của lãnh đạo quốc gia này đối với người Việt. Nhưng số phận của dân tộc Việt dường như là sự đánh đố, khi chịu ảnh hưởng văn hóa và chính trị Bắc Kinh, cho đến tận thời điểm hiện nay.
Khi Trung Quốc sử dụng chính sách bảo hộ để ngăn chặn Facebook và Google, thì tại Việt Nam, sau những nỗ lực yếu ớt từ phía chính quyền, cả hai "công cụ khai sáng" này đã hiện diện như một thành tố thiết yếu đối với đại đa số người Việt Nam. Và khi Trung Quốc sử dụng "Vạn lý trường thành trên internet" để chặn các trang web của Washington Post, Guardian, Wikepedia để điều hướng một thời kỳ nhạy cảm về chính trị,... thì tại Việt Nam, các trang này vẫn truy cập bình thường.
Bắc Kinh thành công trong việc tạo ra một thế hệ mất trí nhớ (thế hệ không biết gì về sự kiện Thiên An Môn), cũng như bản thân nước này thiết lập thành công hệ thống chấm điểm công dân - biến công dân trở thành một con súc vật trong cái chuồng xã hội lớn,... thì giới trẻ Việt Nam - với công cụ Facebook và Google đang đi tìm lại những mảnh ghép lịch sử đã bị che mờ bởi lịch sử Đảng CSVN.
Điều tốt nhất mà một người Việt Nam được hưởng so với Trung Quốc đó chính là một nền tảng internet thông thoáng hơn, nơi họ được trao đổi nhiều vấn đề. Và ở Việt Nam, "thế hệ mất trí nhớ" không tồn tại, bởi nhờ có mạng xã hội.
Gạc Ma, Len Đao,... hay Biên giới Tây Nam, Tây Bắc,... đã được những người Việt, đặc biệt là người Việt trở lĩnh hội, hấp thu và trở thành một phần của sự hiểu biết. Nói cách khác, chính internet hay mạng xã hội đã tạo nên dáng hình độc lập và tự chủ, và đặt ra yêu cầu về độc lập, tự chủ đối với lãnh đạo nhà nước.
Khi người dân không ưa chuộng một lãnh đạo nào đó, thì hoặc là người đó bất tài yếu kém, hoặc người đó có xu hướng thân Trung Quốc. Tại Việt Nam, cũng từng xảy ra câu chuyện về một lãnh đạo cao cấp, một ủy viên Bộ Chính trị, công thần cách mạng, nhưng lại có quan điểm thân Trung, và ông đã bị thất sủng vì điều này (Hoàng Văn Hoan).
Không cho phép sự tồn tại lãnh đạo thân Trung, chỉ cho phép một lãnh đạo biết ứng đối với Trung. Câu chuyện đó không chỉ là câu chuyện của những người quan tâm đến chính trị, mà cả đối với một bộ phận dân chúng Việt, những người sinh ra - lớn lên và hít thở một bầu không khí "không thân Trung".
Chính một lớp người như vậy, đã giữ cho Việt Nam không là Trung Quốc, và vĩnh viễn sẽ không thể là Trung Quốc tiếp theo, bất chấp sự tương đồng về mặt ý thức hệ hiện nay.
Tính cách "không ưa Trung" của người Việt cũng sẽ phán xét tính chính danh cầm quyền của một lãnh đạo, thậm chí là một đảng phái chính trị bất kỳ. Và nếu đối diện sự thật, thì "thân Bắc Kinh" sẽ là hố chôn công danh đối với một chính trị gia, hoặc một đảng phái trong tương lai.
Trong bài trả lời phỏng vấn về nhân sự Đảng trước ĐH 13, nhà nghiên cứu Vũ Hồng Lâm nhận định rằng, ông Phạm Minh Chính dù tạo ấn tượng tốt với giới doanh nhân và ngoại giao Đông lẫn Tây, nhưng dự luật Đặc khu do ông chủ xướng bị phản ứng, và quá trình tìm hiểu dự án người ta nhìn thấy một phần mối quan hệ của ông với Trung Quốc, khiến người không ưa trở nên nghi ngại hơn. Nhận định này là xác hợp với tâm tính dân tộc Việt, và với ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng, cũng khiến không ít người nghi ngại vì vị trí Tổng Bí thư cũng như câu khen ngợi, "trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc".
Những nhân vật, dự án,... có yếu tố Trung Quốc cũng gặp nhiều sự phỉ báng tại Việt Nam, đến mức ông Phùng Quang Thanh, thời kỳ còn đương chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng phải bày tỏ lo lắng vì, "xu thế ghét Trung Quốc từ trẻ con đến người già".
Cuộc biểu tình phản ứng Formosa, chống xâm lấn chủ quyền của HD-981, hay mới đây là dự Luật đặc khu,... thu hút hàng vạn con người đã cho thấy "quốc tính" về Trung Quốc sẽ là như thế nào.
Đảng CSVN có thể học tập Trung Quốc về đổi mới kinh tế, về xây dựng cơ sở hạ tầng, về chỉnh đốn đảng,... Bởi chính đảng với sự độc tôn quyền lực cho phép họ làm như thế, và bản thân sức mạnh cưỡng chế nhà nước còn đang trong tư thế sẵn sàng cho mọi biến cố. Tuy nhiên, nếu tiếp tục "học tập" theo mọi yếu tố Bắc Kinh, thì chính bản thân Đảng CSVN sẽ tự tước bỏ đi tính chính danh của mình, đặc biệt, những cách thức "nhập học" liên quan đến chỉnh đốn đảng, nhưng lại tác động đến quản trị xã hội như luật an ninh mạng, đặc khu, hay vấn đề về xã hội dân sự.
Việt Nam hoàn toàn khác Trung Quốc, và lãnh đạo mà người dân hướng tới không phải là thân Trung. Những điều kiện về internet, cơ sở hạ tầng, quốc tính cũng làm cho Việt Nam riêng biệt so với Bắc Kinh, và có những thuận lợi lớn hơn so với Bắc Kinh.
Năm 2019 đánh dấu 100 năm phong trào "Ngũ tứ" tại Trung Quốc, nhưng với những gì Bắc Kinh đã làm để kiềm chặt dân chúng trong sự ngu dốt, thì Việt Nam có thể là quốc gia có cơ hội làm tốt điều đó hơn.
Đó là bao gồm việc đòi hỏi, giành chủ quyền đất nước, trừng trị bọn bán nước; trả Việt Nam cho người Việt Nam,... Điều này càng ý nghĩa trước thềm ĐH 13 của ĐCSVN, thời điểm đưa ra các quan điểm và yêu cầu cải cách, để Việt Nam trưởng thành hơn bên cạnh Bắc Kinh, vượt Bắc Kinh về dân trí và ý thức tự cường, khả năng chớp lấy các cơ hội bên ngoài, và là quốc gia trả quyền lực về tay nhân dân.
Việt Nam không phải là Trung Quốc, nhưng Trung Quốc sẽ là Việt Nam tiếp theo trong tương lai.
A.V.
VNTB gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét