Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

20180828. ĐỔI MỚI 'LẦN HAI' TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI

ĐIỂM BÁO MẠNG
ĐỔI MỚI  'LẦN HAI' TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI

NGUYỄN QUANG DY/ TBKTSG 27-8-2018

Kinh tế Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên gia công xuất khẩu và bất động sản. Đó không phải là tiền đề tốt cho mô hình tăng trưởng bền vững. Ảnh: THÀNH HOA
(TBKTSG) - Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang leo thang và chưa thấy điểm dừng với hệ quả khôn lường, Việt Nam đứng trước những cơ hội và rủi ro chưa từng có trong mấy thập kỷ qua.
Để tránh rủi ro và nắm bắt cơ hội mới, công tác đối ngoại cũng như đối nội đang đứng trước những thách thức lớn. Trong lúc này, không thể “trên nóng dưới lạnh”, mà từ trên xuống dưới phải đổi mới tư duy, thể chế, và hành động trước khi quá muộn.
Đổi mới thể chế để có nội lực
Người ta thường nói “có thực mới vực được đạo”. Đó không chỉ là câu chuyện của mỗi nhà mà còn là vấn đề của mỗi quốc gia. Tương tự như vậy, người ta nói “chính sách đối ngoại là sự nối tiếp của chính sách đối nội”. Tuy đối ngoại có vai trò chủ động rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, nhưng nếu đối nội không đổi mới kịp thời thì đối ngoại cũng bó tay.
Gần đây, Bộ Công an đang đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và thể chế, như một chuyển biến tích cực và đúng hướng. Nhưng các bộ, ngành khác cũng phải đổi mới tương tự.
Muốn nâng cao nội lực, để không ai bắt nạt được mình và “sánh vai với các cường quốc năm châu”, Việt Nam phải “kiến tạo lại” bộ máy nhà nước “gọn nhẹ nhưng hiệu quả”. Có lẽ không có nước nào trên thế giới lại có bộ máy cồng kềnh, tốn kém và năng suất thấp như Việt Nam.
Một khi Bộ Công an đã đổi mới, người ta mong đợi các bộ, ngành khác - bao gồm cả Quốc phòng và Ngoại giao - cũng phải đổi mới đồng bộ. Đã đến lúc Việt Nam phải làm lại “cải cách hành chính” có thực chất và hiệu quả, vì đang tụt hậu so với khu vực.
Sau hơn ba thập kỷ đổi mới “vòng một”, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đầy ấn tượng. Nhưng thành quả cải cách kinh tế bị triệt tiêu bởi nạn tham nhũng và thể chế bất cập, nên phải đổi mới “vòng hai”. Đến nay, kinh tế Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên gia công xuất khẩu (71% xuất khẩu từ khu vực FDI) và bất động sản. Đó không phải là tiền đề tốt cho mô hình tăng trưởng bền vững, để kiến tạo một nền kinh tế tri thức, ứng dụng công nghệ 4.0.
Gần đây, các chuyên gia kinh tế hay nói đến “bẫy gia công” hay “bẫy thu nhập trung bình”, vì năng suất lao động còn quá thấp. Muốn tháo gỡ các điểm ách tắc đó, Việt Nam cần tìm lối đi mới. Tại cuộc họp Ban chỉ đạo Quốc gia về cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng hồi đầu tháng 8 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói: “Chúng ta cứ đi mãi con đường cũ trong tổ chức sản xuất, quản lý thì không thể phát triển được”. Phát biểu của Thủ tướng phản ánh thực trạng kinh tế hiện nay và nhu cầu đổi mới thể chế.
Cách đây mấy năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới đã chủ trì việc soạn thảo Báo cáo “Việt Nam 2035” (công bố tháng 2-2016) khuyến nghị cải cách thể chế đồng bộ.
Tại sao “chúng ta cứ đi mãi con đường cũ”? Nếu không đổi mới thể chế thì không tháo gỡ được nút thắt gây ách tắc, để phát huy nội lực. Đó là yêu cầu cấp bách để nâng cao năng lực và giảm chi ngân sách thường xuyên vốn là gánh nặng quá lớn đối với một nước thu nhập trung bình thấp như Việt Nam.
Tái cân bằng quan hệ quốc tế
Chính sách đối ngoại của Việt Nam dựa trên sự cân bằng (như làm bạn với tất cả các nước) và không liên kết (như nguyên tắc ba không). Tuy Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 12 nước (Anh, Pháp, Úc, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines), nhưng quan hệ với các cường quốc (như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản) là quan trọng nhất (là đối tác chiến lược/toàn diện), trong khi quan hệ với các nước láng giềng (Lào, Campuchia, ASEAN) là quan trọng đặc biệt.
Trong bối cảnh tương quan chiến lược (Mỹ - Trung - Nga), điều chỉnh chiến lược của Mỹ theo tầm nhìn “Indo-Pacific tự do rộng mở” và chiến tranh thương mại (Mỹ-Trung) đang diễn biến khó lường, Việt Nam cần làm ba việc chính.
Một là tránh bị lôi cuốn vào cuộc chơi “ủy thác” (proxy), biến Việt Nam thành sân sau để hàng hóa Trung Quốc “made in Vietnam” tái xuất và trốn thuế của Mỹ. Thời buổi này khó lừa được người khác và không ai lại dại để “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”.
Hai là tránh bị xô đẩy vào cuộc chiến tiền tệ, với trò chơi tỷ giá đầy rủi ro khó lường.
Ba là điều chỉnh chiến lược từ quan hệ nước đôi (hedging) thành tái cân bằng tích cực (active rebalance), đặc biệt là với “tứ cường” Mỹ, Nhật, Ấn, Úc.
Gần đây, Việt Nam đã tăng cường quan hệ cả về kinh tế và chiến lược với bốn cường quốc nói trên, qua các chuyến thăm chính thức của các lãnh đạo cấp cao nhất. Đó là điều chỉnh chiến lược quan trọng theo hướng tái cân bằng tích cực, nhất là trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có thể leo thang thành chiến tranh tiền tệ, hay một cuộc chiến tranh lạnh mới. Đồng thời, trong bối cảnh Mỹ đã rút khỏi TPP (chưa biết đến bao giờ mới quay lại tham gia TPP11, hiện là CPTPP), Việt Nam đang cố gắng tăng cường quan hệ với các nước EU, nhằm thúc đẩy tiến trình ký kết Hiệp định Tự do thương mại EVFTA (có ý nghĩa quan trọng thứ hai, sau TPP).
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tên lửa Triều Tiên được tháo gỡ, theo hướng “phi hạt nhân hóa” bán đảo Triều Tiên, cuộc gặp cấp cao Trump-Kim tại Singapore hồi tháng 6-2018 là một bước ngoặt. Xu hướng hòa giải đang thay thế đối đầu, xu hướng “thoát Trung” đang làm thay đổi bàn cờ địa chính trị tại Đông Á.
Trong khi đó, Bắc Kinh đã mắc phải một sai lầm lớn (như “ngộ nhận chiến lược”). Lãnh đạo Trung Quốc đã quá tự tin và chủ quan nên đánh giá thấp Trump, tưởng ông là “tổng thống con buôn” chắc chỉ dọa già để đàm phán, chứ không dám liều tấn công. Vì vậy khi Washington ra đòn quyết liệt, Bắc Kinh đã bị bất ngờ, đối phó lúng túng và bị động. Bắc Kinh càng trả đũa để tỏ ra cứng rắn lại càng mắc kẹt. Nhưng dù Bắc Kinh có nhận ra sai lầm thì rất khó xuống thang vì tâm lý nước lớn và khó thay đổi vì đã trót đi quá xa. Tuy đó là cái giá phải trả cho ngộ nhận, như một nghịch lý của người Trung Quốc, nhưng Việt Nam cần phải sớm rút ra bài học kinh nghiệm, để thoát hiểm (và thoát Trung).
Muộn còn hơn không
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (về thu hút, quản lý và sử dụng vốn vay ODA giai đoạn 2018-2020, tầm nhìn 2025) trong số 12 dự án lớn thua lỗ nặng của Bộ Công Thương, có bốn dự án sử dụng vốn vay Trung Quốc. Theo nhận định của bộ này, các khoản vay ưu đãi từ Trung Quốc thường có lãi suất cao hơn gấp rưỡi hoặc gấp đôi so với các nguồn vay khác. Trong khi đó, điều kiện vay kém ưu đãi hơn, kèm theo yêu cầu chỉ định thầu cho các công ty Trung Quốc; và các dự án do nhà thầu Trung Quốc thực hiện thường xuyên chậm tiến độ và đội vốn. Đó là chưa nói đến việc sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, và rủi ro an ninh.
Với những đánh giá trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng trong thời gian tới cần xem xét, cân nhắc và nên hạn chế vay vốn ưu đãi từ Trung Quốc. Cảnh báo này tuy muộn còn hơn không, phản ánh một xu hướng mới.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam cần đổi mới “vòng hai” về thể chế, và tái cân bằng tích cực quan hệ quốc tế để giảm phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Để bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế, chúng ta cần nắm bắt cơ hội mới để điều chỉnh chiến lược, phù hợp với các xu hướng hiện nay trong khu vực Indo-Pacific, trong đó có xu hướng thoát Trung. Tuy nhiên, cần xác định rõ thoát Trung không phải là bài Trung hay chống Trung Quốc, mà nhằm “kiến tạo” một quan hệ bình đẳng hơn và tích cực hơn, nhằm góp phần duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực và trên thế giới. Trong lúc khó khăn, người ta cần tư duy tích cực, vì “trong nguy có cơ” và “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Ngoại giao kinh tế lấy doanh nghiệp làm trung tâm
Phát biểu tại hội nghị ngoại giao lần thứ 30 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao nhiệm vụ cho Bộ Ngoại giao phải nâng tầm công tác ngoại giao kinh tế và lấy ngoại giao kinh tế làm tiêu chuẩn để đánh giá các cơ quan đại diện.
Cụ thể, ngoại giao kinh tế cần làm tốt bốn nhiệm vụ lớn là: thu thập thông tin một cách chính xác, kịp thời, liên tục, đặc biệt là dự báo kinh tế; tham mưu cho Chính phủ, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; đồng hành, hỗ trợ các bộ ngành và địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là trong khâu tháo gỡ vướng mắc; và cuối cùng là đôn đốc triển khai các cam kết, thỏa thuận, dự án hợp tác quốc tế.
Theo Thủ tướng, ngoại giao kinh tế cần lấy doanh nghiệp làm trung tâm, đồng hành cùng doanh nghiệp vươn ra thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế có thành công hay không phần lớn là nhờ vào sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp và thành công của doanh nghiệp trong hội nhập là thước đo thành công của hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhuận Quảng Trí
TIN BÀI LIÊN QUAN:
NẾU VIỆT NAM MUỐN TẠO RA ALIBABA HAY WEIBO PHẢI VƯƠN RA TOÀN CẦU

HIỆU MINH/ TVN 28-8-2018
 - Muốn sớm có hệ sinh thái điện tử, hãy bắt đầu từ cách nghĩ của thời 4.0.
Hai mươi năm trước tôi từng đi xin giấy phép để vận hành hệ thống thu tín hiệu vệ tinh (VSAT) cho VP World Bank ở Hà Nội. Người phụ trách bên Cục Vô tuyến đã hỏi tôi, Trung Quốc làm như thế nào. Tôi phải về VP alo và nhờ các đồng nghiệp Bắc Kinh gửi tài liệu sang chứng tỏ nước bạn đã cấp rồi, không vấn đề gì, khi đó bên ta mới đi những bước đầu tiên nhỏ giọt.
Tôi cứ băn khoăn mãi, sao phải hỏi Trung Quốc, sao ta không tự thay đổi. Não trạng phải hỏi người khác khó có sức sáng tạo, bởi mỗi quốc gia, mỗi châu lục có hoàn cảnh địa chính trị khác nhau.
Trong giáo dục người ta nói vui, Trung Quốc giáo dục công dân của họ nghĩ về cội nguồn, Hoa Kỳ đào tạo thế hệ trẻ nghĩ đến toàn cầu.
Dù đi khắp bốn phương nhưng du học sinh Trung Quốc luôn nghĩ về quê cũ, đó là điểm mạnh và cũng là điểm yếu. Nhưng du sinh một số nước phát triển như Mỹ thường bay trên không trung thấy “điểm đen” ở đâu cần giúp đỡ là họ tới. Sống thế mới có chuyện Bill Gates bỏ cả nửa tỷ đô la giúp trẻ em châu Phi được tiêm chủng miễn phí.

Nếu muốn tạo ra Alibaba, Weibo, Việt Nam phải vươn ra toàn cầu
Để sử dụng hiệu quả công nghệ mới, nhất là nghĩ về 4.0, cần tư duy quản lý mới.
Trung Quốc với 1,4 tỷ dân thì cánh IT của họ chỉ cần làm ra sản phẩm cho dân đủ dùng sẽ giàu như Bill Gates hay Steve Jobs. Thị trường Hoa Kỳ hơn 300 triệu dân dù là nơi tiêu thụ lớn nhưng không thể so với Trung Quốc và Ấn Độ.
Các tên tuổi như Baidu, Weibo, Alibaba kể cả China-Internet đóng cửa với thế giới vẫn sống ngon vì quốc gia này ngang tầm một châu lục.
Nếu Việt Nam muốn tạo ra Alibaba hay Weibo thì phải vươn ra toàn cầu.
Nhìn những con số thống kê như Trung Quốc là một trong những nhà đầu tư và áp dụng công nghệ kỹ thuật số lớn nhất thế giới, và là quê hương của 1/3 số công ty khởi nghiệp kỳ lân trên thế giới, thì bạn đừng choáng. Họ không làm được mới là điều đáng bàn.
Có một điều nên học họ, đó là xã hội cần số hóa, cần có những hệ sinh thái nền tảng như bộ ba Baidu, Alibaba và Tencent, hay còn gọi là BAT, mà Trung Quốc đang sở hữu.
Trung Quốc tư duy theo “châu lục” Trung Quốc và thêm chút khu vực, Mỹ theo toàn cầu. Thế thì Việt Nam ở đâu? Ở ngay xứ mình và thêm chút ASEAN là ăn đủ.
Mạng Viettel đã lan tỏa Đông Dương vươn sang Myanamar, tại sao các dịch vụ khác đi theo chưa lan tới được các quốc gia này như Shopee của nước khác đang làm mưa làm gió ở Hà Nội và Tp HCM dựa trên Viettel hay FPT. Chỉ là đặt cáp, bán mobile và thu tiền thì chưa đủ. Ứng dụng chạy trên đó giúp cho ứng dụng thương mại điện tử nhanh hơn, tiện hơn, thì chắc chắn kết quả sẽ khác.
Ta không thiếu nguồn nhân lực, ta không dốt tiếng Anh, ta không thiếu người giỏi IT và toán học, nhưng cần tạo dựng môi trường để họ phát triển bền vững và lành mạnh. Môi trường chưa tốt thì chưa thể hệ sinh thái IT tốt đẹp.
Để sử dụng hiệu quả công nghệ mới, nhất là nghĩ về 4.0, cần tư duy quản lý mới. Để áp dụng 4.0 hay IoT trong thế kỷ 21 thì các nhà chiến lược và quản lý phải nghĩ khác. Để áp dụng công nghệ động cơ điện thì các ông giám đốc nhà máy phải nghĩ đến đường dẫn điện, hệ thống sản xuất bằng năng lượng điện. 
Và hôm nay cũng thế. Để cho công nghệ số trở thành cần câu cơm thì ngoài chuyện cần công nghệ và các tài năng, xã hội cần cách suy nghĩ khác với tư duy thế kỷ 20.
Một ví dụ trong thành công sản xuất phần mềm trong kỷ nguyên số là phương pháp Agile khá đơn giản, có tới 71% các tổ chức áp dụng. Đó là phát triển trên nền tảng liên kết chặt chẽ với người dùng, tìm hiểu nhu cầu của họ và dựa vào đó phát triển phần mềm mà khách hàng cần.
Điều đó trái ngược với các ông IT cuối thế kỷ 20 mải mê lập trình, rồi mang đi bán mà không biết khách hàng có nhu cầu hay không.
Sự sáng tạo và tư duy kiểu Agile cần một tầm nhìn. Nhưng thống kê toàn cầu cho hay khi khảo sát hơn 800 nhà quản lý cao cấp, thì có tới 50% nói rằng các lãnh đạo của họ không có tầm nhìn và đam mê để cho sáng tạo công nghệ mới nhất được áp dụng.
Muốn sớm có hệ sinh thái điện tử, hãy bắt đầu từ cách nghĩ của thời 4.0.
Hiệu Minh
TIN BÀI LIÊN QUAN:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét