Thứ Tư, 22 tháng 8, 2018

20180822. VÀI CHUYỆN ÍT ĐƯỢC BIẾT

ĐIỂM BÁO MẠNG
LÝ LUẬN KIỂU AN NINH VIỆT NAM
PHẠM ĐOAN TRANG/FB Phạm Đoan Trang/ BVN 21-8-2018
Đây là những lý luận rất điển hình của công an Việt Nam nói chung và ngành an ninh nói riêng. Tôi đưa lên để các bạn nhận ra rằng: Không cần phải là người học luật, biết luật, chỉ cần có cảm nhận tối thiểu về công lý, với lương tri của một con người bình thường, chúng ta sẽ thấy lực lượng kiêu binh bảo vệ Đảng Cộng sản sai phạm, tăm tối và đang phè phỡn trong thứ quyền lực được Đảng bảo kê như thế nào. Không có lý gì chúng ta phải cúi đầu trước những kẻ như thế.

Trong hình ảnh có thể có: má»™t hoặc nhiều người và cận cảnh  

Tình huống 1: Sau khi đã sầm sập xông vào quán, quay phim từng người, chặn cửa bắt tất cả khán giả về đồn kiểm tra giấy tờ và đánh đập tàn bạo những người phản đối.

- Mời về làm việc thì không chịu, cứ thích gây rối để phải cưỡng chế.
- Công an các anh vú to thật đấy nhỉ. “Cả vú lấp miệng em”. Người ta đang xem ca nhạc phòng trà, các anh vào phá, đánh, bắt người ta về đây rồi bảo người ta gây rối. Thế gọi là “vú to”, hay là “không vú” - tức là “vu khống” đấy. Vú to hay vu khống, các anh thích được gọi là gì hơn?
- Chị có biết các bài hát được biểu diễn toàn là bài không được cấp phép không?
- Tôi không có danh sách các bài bị cấm, nhưng cứ cho là chúng tôi hát bài bị cấm thì các anh có thể xông vào phá và đánh chúng tôi như thế à?
- Các anh chị là một thế giới riêng rồi, đối lập với chúng tôi. Tất nhiên là chúng tôi không thể để yên cho các anh chị được.
- Thế giới riêng nào? Khi các anh hát nhạc đỏ, chúng tôi có phá các anh không?

Tình huống 2: Sau khi đã lục soát đồ đạc và lấy được một tờ giấy giống như là danh sách khách mời dự show ca nhạc.

- Danh sách này là thế nào?
- (Cười xoà) Các anh hỏi làm gì? Chuyện này có quan trọng không?
- Quan trọng. Danh sách này là cái gì?
- Sao lại quan trọng?
- Quan trọng chứ. Đây là buổi biểu diễn không được cấp phép.
- Quan trọng với các anh chứ đâu quan trọng với tôi. Các anh hỏi làm gì?
- Hỏi để làm rõ, xử lý.
- À thế à? A, để xử lý thì ngu gì tôi trả lời. (Thực ra tôi định nói thế này cơ: “Tưởng hỏi làm gì chứ hỏi để xử lý thì ngu đéo đâu mà trả lời, ơ kìa!”, nhưng kiềm chế vì rất dễ cười ầm lên).
- (Dằn giọng) Tao hỏi, danh sách này là thế nào? Ai tổ chức?
- Anh hỏi làm gì?
- Tao có quyền hỏi.
- Vậy mày hỏi lại đi.
- Danh sách này là thế nào?
- Hỏi lại.
- Danh sách này là thế nào?
- Cứ hỏi thêm 1000 lần nữa đi. Hỏi tới sáng đi vì mày có quyền hỏi mà.
- …

Tình huống 3: Không moi được thông tin gì về người tổ chức sự kiện và khách tham dự.

- Tôi thấy chị hèn thế. Làm rồi không dám nhận. Nhục.
- Tôi lại thấy cướp mà lại gọi tránh đi là “tạm giữ” mới là hèn.
- Này chị bỏ cái giọng ấy đi nhé. Ai cướp của chị?
- Tiền này của tôi, đồ của tôi, các anh lấy mất thì gọi là gì?
- Tiền này từ đâu ra?
- Hay nhỉ. Tôi chưa thấy cướp nào lại hỏi nạn nhân “tiền này từ đâu ra” bao giờ.
- Cứ làm rõ nguồn gốc đi rồi tôi trả chị. Tiền bán vé phải không? Hay là tiền này có nguồn gốc xấu nên không dám làm rõ?
- Sao cướp lại bắt nạn nhân làm rõ nguồn gốc tiền? Tôi còn chưa bắt các anh giải thích lý do bắt người thì thôi chứ.
- Chị nói tiền của chị phải không? Chị chứng minh đi, giải thích nguồn gốc nó đi rồi chúng tôi trả.
- Tôi giải thích rồi các anh không trả thì sao? Lấy gì bảo đảm các anh trả? Ai là người có quyền diễn giải nguồn gốc số tiền này là xấu hay tốt? Mà tại sao tôi lại phải trả lời cướp?
- Cướp? Tao cướp đéo gì ba cái đồng bạc rách của mày.
- Đến bạc rách còn cướp nữa là bạc lành.
- …
***
Ở đây, chỉ với tư duy logic thông thường, hẳn bạn cũng có thể thấy công an rất đuối lý, và cách đặt câu hỏi của họ bộc lộ rõ sự kém cỏi của phương pháp “điều tra” mà công an áp dụng bấy lâu nay: thuần tuý dựa trên sự đe dọa, ép cung, mớm cung, và trò khiêu khích rất rẻ tiền.
Đó là bởi vì phương pháp luận hay là triết lý làm việc của công an Việt Nam đã sai ngay từ đầu: Họ và thứ luật pháp của họ không bảo vệ tự do của người dân hay là nhân quyền, mà chỉ là công cụ để bảo vệ một thể chế độc tài. Từ đó mới có chuyện họ đòi hỏi người dân chỉ được hát những ca khúc được cấp phép (vậy giả sử tôi hát nhạc Beatles hay ABBA thì có phải là phi pháp không?), phá bằng được một đêm nhạc phòng trà, đánh đập tàn tệ người tổ chức và ca sĩ…
Dùng bạo lực một cách thoải mái như thế, đồng thời khống chế để nạn nhân không thể nào tự vệ hay ghi lại bằng chứng, đó mới là nghiệp vụ số 1 của an ninh Việt Nam.
Tất nhiên tôi phải nói rằng, nếu vào đồn mà các bạn đối đáp với công an với những lý lẽ như trên thì chắc chắn bạn sẽ… ăn đòn. Bởi lẽ công an Việt Nam từ lâu đã quen với việc làm bố dân. “Đại diện cơ quan pháp luật” là một cái gì đó to lắm, “mời” đến gặp là công dân phải bỏ hết công việc mà lon ton “lên đồn”, hỏi là phải khai báo đầy đủ, bị “đấu tranh” là phải im lặng chịu trận… chứ ai lại cãi xơi xơi thế, láo, “tao đập chết mẹ mày” ngay. “Ôn hoà” đối với công an thực chất nghĩa là ngoan ngoãn, phục tùng, bảo gì nghe nấy, tóm lại là phải sợ họ.
Và mặc dù tôi thừa nhận rằng trong những người bị tấn công đêm đó, tôi là người “hung hãn” nhất, đã đấm một quả vào một đồng chí công an (sau đó bị đồng chí ấy đấm trả vài quả vào đầu, đạp cho vài cú vào bụng, v.v.), khi vào đồn lại bất hợp tác hoàn toàn, nhưng trong thâm tâm, tôi thừa hiểu họ đánh vì quá căm ghét tôi, mà lý do căm ghét là vì tôi không sợ họ. Ôn hoà hay bạo lực, lịch sự hay thô tục, đúng hay sai, với công an xứ độc tài điều đó không quan trọng; thực chất chúng chỉ cần bạn sợ chúng. Nếu bạn nhất định không sợ, bạn có thể phải trả giá, nhưng như thế cũng có nghĩa là chúng đã thất bại vì không đạt được điều chúng muốn.
P.Đ.T.
_____
(*) Ảnh chỉ có tính minh họa. Tay mình vẫn như đang chơi đàn mới sợ chứ!
Nguồn: FB Phạm Đoan Trang

CUỘC RA ĐI CỦA NHỮNG KẺ HÁI KHẾ 

BÙI THANH HIẾU/nguoibuongio/ BVN 21-8-2018

Đất nào sinh ra tôi
Mẹ hiền nào nuôi thân tôi
Miền nào nuôi thân tôi
Mà giờ này tôi xa rồi.
“Quê hương bỏ lại” là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.
Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về, từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.
Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.
Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu. Tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.
Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam, chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.
Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.
Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, Chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.
Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.
Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.
Đỗ Liên, Đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.
Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn. Với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng, những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn, không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.
Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.
Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm valy tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.
Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, sẽ đến Ba Lan tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.
Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ, chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.
Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.
Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn Chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.
Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường sá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.
Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.
Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loạn lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.
B.T.H.
Nguồn: https://nguoibuongio1972.blogspot.com/2018/08/cuoc-ra-i-cua-nhung-ke-hai-khe.html

GIÀ NỬA NHIỆM KỲ, ÔNG TRỌNG 'CHỐNG THAM NHŨNG' TỚI ĐÂU ?

PHẠM CHÍ DŨNG/ BVN 21-8-2018

https://i1.wp.com/www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2018/08/A1-PhamChiDung-Trong-don-Tap.jpg?fit=800%2C527&ssl=1
Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng (trái) đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Hà Nội hôm 12 Tháng Mười Một, 2017. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)
Kể từ chủ trương “việc cần làm ngay” vào giữa năm 2016 và “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy” vào giữa năm 2017 của ông Nguyễn Phú Trọng, có thể so sánh những kết quả nào của “người đốt lò vĩ đại” ở Việt Nam với tác giả “đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc?

Cuộc chiến hai giai đoạn

Có ít nhất một điểm chung giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình: Cả hai đều chọn “chống tham nhũng” là sách lược cơ bản trong trung hạn và có thể cả dài hạn.
Nhưng có một sự khác biệt cơ bản: Ông Tập Cận Bình đã chọn “chống tham nhũng” ngay vào thời kỳ đầu tiên chấp nhiệm của mình, trong khi ông Nguyễn Phú Trọng chỉ dám bước vào con đường này khi ông ta đã ngồi ghế Tổng Bí thư đến sáu năm.
Nhìn lại, có thể nhận rõ là giai đoạn “chống tham nhũng” đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng - có thể được tạm đặt cái tên là “Việc cần làm ngay” - đã mất một khoảng thời gian gần một năm rưỡi, từ Tháng Sáu, 2016, đến Tháng Mười Một, 2017, khá lặng lẽ, và chủ yếu là hô hào về chủ trương mà thiếu hẳn hành động cụ thể và quyết liệt. Chẳng khác gì một kẻ bất lực.
Chỉ sau Hội nghị Trung ương 6 vào Tháng Mười, 2017, mà đã bị nhiều cựu thần và cách mạng lão thành lên tiếng chỉ trích về não trạng “đập chuột sợ vỡ bình”, “nói không đi đôi với làm” và “nhát gan”, ông Nguyễn Phú Trọng mới có hành động đột biến chỉ đạo bắt giam, khởi tố, truy tố và xét xử 31 năm tù giam đối với ông Đinh La Thăng vào Tháng Mười Hai, 2017. Thời điểm đó cũng có thể được xem là mốc khởi đầu cho giai đoạn 2 của chiến dịch “chống tham nhũng”, mang tên “Đốt lò”.
Chẳng bao lâu sau vụ bắt ông Đinh La Thăng, ông Trọng đã dần có tên tuổi trên báo quốc tế. Chính những tờ trong khu vực Đông Nam Á như Asia Times, The Diplomat và một số tờ khác đã viết về chiến dịch “đốt lò” của ông Trọng, thậm chí còn nhắc lại biệt hiệu mà Đài Tiếng nói Việt Nam đặt cho ông Trọng là “Người đốt lò vĩ đại” cùng những biệt hiệu khác như là “Minh quân”, “Sĩ phu Bắc Hà” hay là “Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo” - những danh xưng ngút trời không văn tự.
Một cách “hữu xạ tự nhiên hương”, vào thời gian trên cái tên Nguyễn Phú Trọng đã trở nên nổi tiếng, khiến việc ông phải chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao làm dịch vụ quảng cáo trên tờ Le Monde về chuyến công du của mình đến Pháp vào Tháng Ba, 2018, trở nên thừa thãi và tốn thuế dân một cách vô ích.
Nhưng nếu chiến dịch “chống tham nhũng” của ông Trọng có hai tên gọi thì cũng có hai giai đoạn bị chùn xuống một cách bất ngờ và khó hiểu: Khoảng thời gian sau Hội nghị Trung ương 5 - từ Tháng Sáu đến Tháng Mười, 2017, và khoảng thời gian gần Hội nghị Trung ương 7, tức là Tháng Năm, 2018.
Tại Hội nghị Trung ương 7 đã không có bất kỳ xử lý một quan chức nào cả, thậm chí là kết quả này còn tệ hơn cả Hội nghị Trung ương 6 vào Tháng Mười, 2017, khi hội nghị này còn kỷ luật và loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương nhân vật bí thư của Đà Nẵng là Nguyễn Xuân Anh.
Một cách khách quan, ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư đầu tiên từ trước đến nay trong lịch sử Đảng CSVN đã xử lý quan chức tham nhũng nhiều đến thế trong một thời gian tương đối ngắn.
Tuy nhiên, ở những đời Tổng Bí thư trước tỷ lệ tham nhũng chỉ bằng khoảng 1/10 cho tới 1/100 mức độ tham nhũng hiện nay ở Việt Nam. Do đó việc ông Trọng bắt buộc phải xử tham nhũng là đương nhiên, ứng với đòi hỏi ông Trọng phải gây dựng một cơ chế và một lý do tồn tại cho ông ta và cho đảng của ông ta, cũng giống như là ông Tập Cận Bình với chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc từ năm 2012 cho tới nay.

Tập và Trọng

Không phải là nhân vật có nhiều phát ngôn nổi bật và ưa trích dẫn kinh viện Mác-Lê như Nguyễn Phú Trọng, ông Tập Cận Bình đã tỏ ra là người thích hành động, hành động thâm trầm và bất ngờ hơn là nói và khoa trương thành tích.
Vào năm 2015 - thời điểm đã đi được hơn phân nửa thời gian của nhiệm kỳ năm năm trên cái ghế Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư, ông Tập Cận Bình đã tạo nên một cuộc “cách mạng văn hóa” long trời lở đất lần thứ hai kể từ thời ông Mao Trạch Đông vào những năm 1960 của thế kỷ 20.
Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của ông Tập về thực chất có thể được xem là xứng đáng với tên gọi đó, hàng loạt “hổ” như Bạc Hy Lai - Bí thư Trùng Khánh, Chu Vĩnh Khang - Bộ trưởng Công an, Từ Tài Hậu - Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, tất cả đều là ủy viên Bộ Chính Trị, đều bị xử thẳng tay và phải mang án tù nhiều năm.
Cùng khoảng thời gian trên, bão tố gầm thét trên nhiều tỉnh thành của Trung Quốc. Ông Vương Kỳ Sơn - Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng, một người cứng rắn, lạnh lùng, ít nói và có lẽ không thiếu tàn nhẫn, được xem là cánh tay mặt của ông Tập Cận Bình, đã thả sức “diệt ruồi”.
Còn ở Việt Nam, dù thời gian đã trôi nhanh qua già nửa nhiệm kỳ, “người em” Nguyễn Phú Trọng dù có năm sinh trước “ông anh” Tập gần một chục năm và thâm niên làm Tổng Bí thư Đảng hơn “ông anh” Tập cả năm, lại vẫn chưa đạt được những kết quả mang tính thực chất và khiến người ta có thể tin kết quả đó là bền vững, cho dù ông Trọng đã nắm được vai trò Bí thư Quân ủy Trung ương từ trước và sau Đại hội 12 của Đảng CSVN vào đầu năm 2016, và thậm chí còn “tự cơ cấu” vào Đảng ủy Công an Trung ương vào cuối năm đó.
Dù mục đích thật sự của ông Tập Cận Bình là hoặc chống tham nhũng, hoặc thanh trừng phe phái hay tập quyền cá nhân, hoặc cả hai hay ba mục tiêu này vẫn nằm trong diện tranh cãi của giới phân tích chính trị cho tới nay, hàng triệu quan chức bậc trung và thấp đã bị xử lý dưới nhiều hình thức.
Còn thành tích “diệt hổ” đáng kể nhất của ông Nguyễn Phú Trọng đến giờ phút này mới chỉ là ông Đinh La Thăng - một ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Thành ủy TP.HCM - trường hợp có thể được xem là tương đương với Bạc Hy Lai ở Trung Quốc.
Sát Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 vào cuối năm 2017, dường như ông Tập Cận Bình đã hoàn thành giai đoạn đầu tiên của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” cùng những mục đích cá nhân lớn lao của ông ta. Đến lúc đó, ông Tập không chỉ trở thành Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, trở thành một cách thực chất chứ không phải dựa vào hơi hám của chủ nghĩa hình thức, mà còn được ghi tên mình vào Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đại hội 19 với “Tư tưởng Tập” - sánh ngang với “Tư tưởng Mao” của hơn nửa thế kỷ trước.
Kết quả đồ sộ của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” kéo dài suốt năm năm - từ 2012 đến 2017 - đã mang lại cho ông Tập Cận Bình một thứ quyền uy bá chủ thiên hạ: tại Đại hội 19, thậm chí Hiến pháp Trung Quốc còn phải sửa đổi theo cách sẽ không còn ai bàn về giới hạn nhiệm kỳ của Chủ tịch nước. Một cách đương nhiên, ông Tập Cận Bình có thể trở thành “hoàng đế” suốt đời!
Nhưng cho đến cuối năm 2017, thành tích “diệt ruồi” của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn ấn tượng đến mức các cơ quan tư pháp Việt Nam “chỉ phát hiện năm trường hợp kê khai không trung thực trong số hơn 1 triệu công chức kê khai tài sản”. Và đến giữa năm 2018, chỉ lẻ tẻ một số quan chức bậc trung và thấp ở địa phương bị xử lý không thật nghiêm khắc, trong khi vẫn phổ biến không khí “trên nóng dưới lạnh” ở rất nhiều tỉnh thành.
Cũng khác hẳn với chiến dịch “Săn cáo” được Trung Quốc tổ chức khá hiệu quả mà đã lôi về hàng trăm quan chức tham nhũng lẩn trốn ở nhiều quốc gia trên thế giới, chính trường Việt Nam vẫn còn nguyên thời kỳ ồ ạt quan chức “ra đi tìm đường cứu nước”, mang theo một khối tài sản và ngoại tệ khổng lồ mà gần như không bị đảng và các cơ quan thừa hành pháp luật chế tài.
Những cái tên Trịnh Xuân Thanh, Lê Chung Dũng, Vũ Đình Duy… chỉ là phần chóp nổi của một tảng băng còn phần lớn thể tích chìm sâu trong rác rến cặn bã nhân loại. Còn vô số quan chức, với không hiếm trong số đó được ông Nguyễn Phú Trọng nhẵn mặt, đang bị người đời xem là “nền chính trị quái vật nhiều đầu hiếp dâm nền kinh tế dân sinh chỉ còn một cái đầu để thở”.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN.

VIỆT NAM ĐÃ CẠN NGUỒN VAY ODA TỪ NĂM 2014 !

PHẠM CHÍ DŨNG /BVN 22-8-2018

D:\Downloads\BVN\unnamed (2).jpg

Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn $94 tỉ. (Hình: Trích từ website của The Economist)
2018 rất có thể là năm chứng kiến sự sụt giảm thảm thiết nhất của nguồn vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) vào Việt Nam, bổ túc một dấu ấn cho năm ‘thắng lợi kinh tế chưa từng có’ theo lối tuyên truyền không còn biết trời cao đất dày của chính thể độc đảng này, chìm nghỉm trong bức tranh tổng thể mang gam màu xám ngoét - được đặc tả bởi sự phối ngẫu của ba thành phần ‘binh chủng hợp thành’: nợ công - nợ xấu - ngân sách.
Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn ‘xin tiền’ không biết mệt mỏi.

Chỉ bằng 1/7!

Tròn một năm sau thời điểm Việt Nam chính thức không còn nhận được ưu ái trong kênh vay ODA từ các tổ chức tín dụng quốc tế, một bản báo cáo của Bộ Tài chính vào tháng Bảy năm 2018 cho biết lũy kế 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã ký kết được 4 hiệp định với vay ODA với tổng trị giá 193,2 triệu USD.
Báo cáo trên cũng phải thừa nhận rằng ước tính giải ngân nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi chỉ bằng 21% kế hoạch và thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị ký kết ODA của nửa đầu năm 2018 trong báo cáo trên cho thấy trong nguyên năm 2018, Việt Nam chỉ có thể đạt được giá trị ký kết ODA khoảng 400 - 500 triệu USD, tức chỉ bằng khoảng 1/7 giá trị ký kết bình quân 3,5 tỷ USD/năm của giai đoạn 1993 - 2014 (tổng vốn đã ký kết của giai đoạn này là 73,68 tỷ USD).
1993 là thời điểm mà Việt Nam đã mở cửa kinh tế được vài năm và bắt đầu được nhận nguồn vốn ODA ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn của một số chính phủ Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật Bản… và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)…
Sau năm 2015 là thời điểm mà quan hệ Việt - Mỹ được bình thường hóa hoàn toàn, dòng chảy ODA vào Việt Nam đã từ suối biến thành sông, mở ra một thời kỳ ‘tiền vào như nước sông Đà’ và cũng biến hóa thành thời hoàng kim của giới quan chức Việt ‘ăn không chừa thứ gì’ đối với tiền ODA được xem là ‘lộc trời’.
Nhưng sau hai chục năm nhận ‘lộc trời’, ODA đã trở thành một trong những bi kịch ‘vĩ đại’ nhất của chính thể Việt Nam.
Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải “đề nghị Ngân hàng Thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay” - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá nặng về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm ‘đổ vỏ’ cho đời thủ tướng trước bị xem là ‘phá chưa từng có’ là Nguyễn Tấn Dũng…
Vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một ‘bí mật quốc gia’ mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm: ông Huệ đề nghị Mỹ “mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam”.
Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0.
Tiền nào cũng là tiền. Viện trợ không hoàn lại là tiền của người dân các nước phát triển đóng thuế cho chính phủ, và những người dân này sẽ phẫn nộ đến mức nào khi biết tiền của họ đã bị một quốc gia nằm trong nhóm đầu thế giới về tham nhũng như Việt Nam “ăn không chừa thứ gì”.
Hiện thời, cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo Đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động: những chuyến công du quốc tế của giới chóp bu Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh “ngoại viện” gần như đóng lại.

Bị phát hiện

Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể ‘không hẹn mà gặp’ đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà ‘Đảng và Nhà nước ta’ đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua: từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0.
Vào tháng Tám năm 2015, Ban Kinh tế Trung ương đã chủ trì tổ chức Hội thảo “Hoạt động ODA tại Việt Nam - 20 năm nhìn lại” tại Đà Nẵng. Thông tin được tuyên truyền khi đó đầy màu sắc thành tích: “Hơn 80 tỷ USD vốn ODA dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2014” (https://baodautu.vn/hon-80-ty-usd-von-oda-danh-cho-viet-nam-giai-doan-1993-2014-d30863.html).
Đến tháng Bảy năm 2018, một quan chức Phó Thủ tướng Chính phủ là Phạm Bình Minh khi tham dự buổi làm việc về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giao đoạn 2011-2016, đã cho biết “Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD vốn ODA sau 25 năm” (http://cafef.vn/25-nam-viet-nam-tiep-nhan-80-ty-usd-von-oda-20180726062228006.chn).
Độ chênh của hai kết quả về viện trợ ODA từ năm 1993 đến năm 2014 (20 năm) và đến năm 2018 (25 năm) là số 0. Tức sau 4 năm, con số tổng nhận ODA vẫn chỉ là 80 tỷ USD mà không có một chút tăng tiến an ủi nào.
Còn con số vài ba tỷ USD viện trợ ODA mà Chính phủ Việt Nam vẫn công bố đã nhận được hàng năm kể từ năm 2015 đến nay thực ra chỉ là số chưa được giải ngân trong những năm trước, mà chỉ được giải ngân trong những năm gần đây (trong giai đoạn 1993 đến 2014, vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân đạt 53,89 tỷ USD, chiếm trên 73,2% tổng vốn ODA đã ký kết).

Có chịu cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền?

Con số Việt Nam vay ODA của nước ngoài từ năm 1993 đến năm 2014 đã lên tới 80 tỷ USD. Sau khi trừ đi 10 - 12% vốn vay không hoàn lại trong số đó, mỗi năm ngân sách Việt Nam phải có trách nhiệm trả nợ quốc tế hàng chục tỷ USD. Mà muốn trả được số nợ này, Việt Nam lại phải tìm cách “vay đảo nợ” của các tổ chức tín dụng quốc tế. Trước đây, những tổ chức này vẫn cho Việt Nam vay vốn “đầu tư phát triển” và vay đảo nợ khá dễ dàng. Nhưng đến năm 2015, WB bất ngờ thông báo hai “tin buồn” cho Việt Nam: Việt Nam đã “tốt nghiệp IDA” mà sẽ không được xếp vào loại quốc gia “xóa đói giảm nghèo”; và từ tháng 7/2017 sẽ không được vay với lãi suất ưu đãi 0,7 - 0,8%/năm cùng thời gian ân hạn đến 30 - 40 năm như trước đây, mà mức lãi suất vay sẽ được nâng lên gấp ba và thời gian ân hạn giảm xuống một nửa.
Trong khi đó, ngân sách Việt Nam vẫn buộc phải làm cái chuyện vừa lo trả nợ vừa phải tiếp tục vay mượn vượt hơn đến 30% số trả nợ hàng năm để phục vụ các khoản chi tiêu thường xuyên khổng lồ của bộ máy gần 4 triệu công chức viên chức và lực lượng vũ trang với 30% ‘không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương’. Trong đó tỷ lệ chi cho lực lượng công an ở Việt Nam lên đến 12% chi ngân sách - một mức chi cực kỳ lớn cho đội ngũ công an chuyên nghề đàn áp dân chúng và nhân quyền, chưa kể gần 5 tỷ USD chi cho bộ máy quốc phòng hàng năm nhưng không hề bảo vệ ngư dân trước tàu Trung Quốc, trong lúc lại lập kỷ lục thế giới về các vụ máy bay quân sự đắt tiền rụng như sung.
Hình ảnh hiện thời thật không khác mấy mỡ treo miệng mèo. Tuy được quảng cáo vẫn còn đến 22 tỷ USD nguồn ODA chưa giải ngân, nhưng Việt Nam không những phải trả lãi suất cao từ năm 2017, mà còn phải móc tiền ngân sách để trả một phần lãi do chậm giải ngân dự án ODA.
Nếu chính thể Việt Nam không cấp thiết cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, chi tiết và bằng hành động chứ không phải lối trớt trả miệng lưỡi như trước đây, e rằng sang năm 2019 giá trị ODA mà các tổ chức quốc tế ký kết với Việt Nam sẽ chỉ là con zero to tướng.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét