ĐIỂM BÁO MẠNG
- Quốc tế: Đánh giá quá trình hội nhập thương mại quốc tế: Việt Nam dưới con mắt các thành viên WTO (Thời Đại Mới 9/2016) - Tham luận tại Hội thảo Hè 2016 ở Praha- Đỗ Tuyết Khanh-Đằng sau “đồng thuận Hàng Châu”… (TT 10-9-16)-Chất Việt trong lòng Paris (ĐĐK 11-9-16)-Trục hướng Đông của Nga bỏ qua Đông Nam Á (GD 12/9/2016)-Triều Tiên: Quan chức đi Audi, dân đi xe đạp cũ (VNN 12/9/2016)-Trung Quốc đã từng bước mua Campuchia như thế nào (BVN 12/9/2016)-James Kynge, Leila Haddou, và Michael Peel-Đại mà tiểu, ngẫm mà lo (Mênh mông thế sự 43) (BVN 12/9/2016)-Tương Lai-
- Trong nước: Rất ít cánh tay giơ lên khi Phó thủ tướng 'điểm danh' nhà khoa học dưới 35 tuổi (VnEx 11-9-16) -Mẹ bổ nhiệm con, chồng quy hoạch vợ sao tìm ra người tài? (VNN 12/9/2016)-Kháng thư của các tổ chức xã hội dân sự độc lập (BVN 12/9/2016)-về việc phá chùa Liên Trì-
- Kinh tế: Bia Sài Gòn đem gần 8.200 tỷ đồng đi gửi ngân hàng lấy lãi (VnE 11-9-16) - Đại gia Trương Mỹ Lan thâu tóm thêm đất vàng Nguyễn Huệ (Zing 11-9-16)-Thủ tướng: Việt Nam chỉ đón nhận công nghệ thiết bị hiện đại, bảo vệ môi trường (GD 12/9/2016)-Dám làm những ‘việc chưa từng có tiền lệ’ (VNN 12/9/2016)-Từ chức giám đốc ngân hàng, trồng rau thu 2 tỷ/tháng (VNN 12/9/2016)-
- Giáo dục: Rối bời đổi mới giáo dục (NLĐ 10-9-16)- Ở Thủ đô, cả làng nói tiếng lóng (TP 11-9-16)-Đi bằng đôi chân của mình, tự học cả đời, đừng bị động trong các lớp học thêm! (GD 12/9/2016)-Thầy Tạ Quang Sum và những vấn đề lớn của dự thảo cải tiến thi cử 2017 (GD 11/9/2016)-Toàn văn dự thảo phương án thi, xét tốt nghiệp và tuyển sinh năm 2017 (GD 12/9/2016)-Phụ huynh bức xúc vì kiến thức sách tiếng Anh không “đuổi” kịp con (VNN 12/9/2016)-'Bộ Giáo dục nên nghiên cứu cẩn thận để công bố lộ trình thi cử' (VNN 12/9/2016)-
- Phản biện: Chỉ xin được làm Người (BVN 12/9/2016)-Tuấn Khanh-Đệ tử phật môn có ai nói và làm như ông Lê Phước Vũ? (GD 11-9-16)-"Huyền thoại thời đại": Chim bồ câu sống giữa hang cáo (BVN 12/9/2016)-Đặng Nguyễn-Tập san “Tổ Quốc” – mốc son không phai trong lịch sử báo chí Việt Nam (BVN 12/9/2016)-Tôn Phi-Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt (BVN 12/9/2016)-Hà Sĩ Phu-Formosa Hà Tĩnh: Không chỉ đơn thuần là thảm họa môi trường! (BVN 11/9/2016)-Nguyễn Đăng Quang-
- Thư giãn: Bí mật đằng sau bức ảnh gây chấn động thế giới trong sự kiện 11/9 (VNN 12/9/2016)-10 clip 'nóng': Hành động gây sốc của trai đẹp với bà lão 94 tuổi (VNN 12/9/2016)-
HÁN VĂN LÀ BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA TIẾNG VIỆT
HÀ SĨ PHU/ BVN 12-9-2016
Hán văn là một bộ phận cấu thành của tiếng Việt
Đang lúc cần chống âm mưu Hán hóa của giặc bành trướng Đại Hán mà nói chuyện dạy chữ Hán cho học sinh phổ thông thì thật không phải lúc, vì tính “nhạy cảm” của thời sự. Tuy nhiên, xin hãy tạm chế ngự xúc cảm nhất thời (tuy rất đáng quý) để bàn một việc về lâu về dài, đáng lẽ phải đặt ra từ rất lâu rồi.
Trong đề tài này hai phái tán thành và phản đối dường như đã bộc lộ khá đầy đủ những luận cứ chính của mình.
Để góp thêm, mở đầu, tôi xin lấy vài ví dụ vui để thấy chữ Hán đã dính chặt vào dân tộc Việt Nam như thế nào, người mù chữ Nho tuyệt đối cũng đang dùng chữ Nho một cách tự nhiên, vô thức. Không phải là chuyện vay mượn vài chữ như vay mượn tiếng Anh, tiếng Pháp, mà người Việt dùng chữ Nho tự nhiên, tuôn chảy như viết, như nói tiếng mẹ đẻ của mình.
- Có thể đâu đó đã xuất hiện những tấm biển quảng cáo thế này:
“Kinh doanh quần áo các loại - hoa quả thời vụ - tạp hóa tổng hợp”.
“Phục vụ học sinh: sách giáo khoa, bút mực, dụng cụ thủ công, truyện cổ tích thế giới”.
Chẳng mấy ai bảo các tấm biển kia đã dùng chữ Hán. Nhưng xin thưa đó là ngôn ngữ Hán học hay Nho học trăm phần trăm, thuần Nho, không lẫn một chữ thuần Việt nào hết. Bạn có thể nghĩ “quần áo” hay “hoa quả” là tiếng thuần Việt chứ gì, không đâu, quần áo là hai chữ Nho 裙襖, đúng cả về phát âm và ngữ nghĩa. Quần 裙 là cái quần, áo 襖 là cái áo, cứ tra từ điển Hán Việt Đào Duy Anh thì biết. Hoa quả 花果 cũng vậy, vốn là chữ Nho. Cũng hai ký tự ấy nhưng người Tàu Bắc Kinh phát âm hơi khác, người Tàu Quảng Đông phát âm hơi khác mà thôi (nên mặc dù là tử ngữ nhưng bằng chữ Hán người Việt và người Tàu có thể bút đàm).
- Không phải chỉ những câu ngắn mà có thể cả một buổi thuyết trình một ông cán bộ Việt mù chữ Nho có thể dùng toàn ngôn ngữ Hán, vốn chỉ là “tử ngữ” (mà không lẫn một chữ thuần Việt nào mới khiếp!), chẳng hạn ông ấy nói thao thao bất tuyệt như sau:
“Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, kính trọng nhân dân, đề cao tinh thần trách nhiệm, phục tùng ý kiến đa số, bảo lưu ý kiến thiểu số, vận động các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công đoàn tích cực đấu tranh, bài trừ nạn tham ô, hối lộ, trấn áp quần chúng. Đề cao tinh thần học tập quần chúng, đề cao tình hữu ái giai cấp, tận dụng thời gian học tập tu dưỡng bản thân, khẩn trương phát hiện các thủ đoạn thù địch tinh vi, hành động xâm phạm lợi ích cộng đồng, giả danh đảng hoặc nhân danh đảng kỳ thực phá hoại uy tín đảng, cảnh giác âm mưu ly gián, tạo cơ hội chiếm đoạt tài sản, tham quyền cố vị, mưu lợi bất chính. Tiếp xúc nhân dân cần quần áo chỉnh tề, thái độ nghiêm túc, tế nhị, phương pháp cần minh bạch, linh hoạt, chuẩn bị công phu, kết quả tất nhiên mỹ mãn. Các cấp tỉnh, cấp thành phố chấp hành nghị quyết tương đối khả quan, tiến bộ, Trung ương tuyên dương. Duy các huyện các xã đa phần lạc hậu, tình hình thực hiện tùy tiện, vi phạm các nguyên tắc căn bản, kết quả tất nhiên thất bại, nhất định tạm thời bị Trung ương khiển trách”.
Có thể ghi lại toàn bộ đoạn diễn thuyết bằng chữ Nho, đọc lên nghe hệt như đọc bản quốc ngữ Latinh này, không sai một tiếng, nghĩa là nguyên văn chứ không phải bản dịch.
Chẳng hạn câu đầu tiên “Các đồng chí cán bộ chính trị, cán bộ quân đội, sĩ quan công an cần đề cao tinh thần phục vụ nhân dân…” sẽ ghi ra giấy thành 各同志幹部政治, 幹部軍隊,士官公安勤提高精神服務人民, 敬重人民…, đọc lên cũng y như đọc bản quốc ngữ vậy, bảo rằng thuyết trình viên đã nói tiếng Việt hay đọc “Hán văn” đều đúng.
- Trong những cuộc thảo luận của giới trí thức hiện nay, cả người thân Tàu hay ghét Tàu cũng có thể nói toàn chữ Hán:
Ví dụ ông Cộng sản thân Trung Quốc thì giữ lập trường “Độc quyền lãnh đạo, kiên trì định hướng Xã hội chủ nghĩa” 獨 權領導,堅持定向社會主義. Toàn chữ Nho!
Ông Dân chủ tiên tiến không biết mặt một chữ Nho nào cũng “Quyết tâm thực hiện Dân chủ đa nguyên Pháp trị” 决心實現民主多元法治. Cũng toàn chữ Nho!
Ông thứ ba quyết chống Hán học thì hô lớn “Kiên quyết phản đối chủ trương phổ cập Hán tự tronggiáo dục phổ thông, vì Hán tự có YẾU ĐIỂM là phức tạp, khó học, sử dụng cầu kỳ, không thể là CỨU CÁNH giúp nhân dân chấn hưng văn hóa, chấn hưng dân tộc”. Trong 46 chữ thì 38 chữ là chữ Nho (chỉ có 8 chữ tô đậm là chữ thuần Việt), nhưng vì ông này không học chữ Nho nên ở đây có hai từ Hán dùng bậy là YẾU ĐIỂM 要点và CỨU CÁNH 究竟, dùng sai hai từ này là điều đáng xấu hổ đối với không ít trí thức Việt Nam hiện nay.
Trong những ví dụ nói trên, người Việt chúng ta cứ mở miệng ra là nói rất nhiều chữ Nho, thậm chí nói toàn chữ Nho, nhưng thuần thục và tự nhiên như tiếng mẹ đẻ, đến mức ta không nhận thấy. Ngay cà tên, họ, bút danh của một người chống Hán học thì cũng đều từ chữ Hán mà ra. Vậy ngôn ngữ Hán học đâu phải ngoại nhập, hoặc nếu ngoại nhập thì nhập ngay từ thuở hồng hoang, từ lúc bắt đầu biết mặc quần áo 裙襖, gọi cái này là “quần” cái kia là “áo”, biết thế nào là quả 果 là hoa 花… thì yếu tố bên ngoài đã thành bên trong rồi. Nói khác đi, tiếng Việt được cấu thành bởi hai bộ phận: tiếng thuần Việt và tiếng Hán Việt. Bộ phận Hán Việt tuy có ưu thế diễn tả các khái niệm của ý thức, xã hội, khoa học, tư duy… và có văn tự (chữ viết) để ghi chép, nhưng không át được sức sống tuy còn thô sơ nhưng tự nhiên và mãnh liệt của bộ phận thuần Việt vốn phong phú về ngôn ngữ biểu cảm, về các mối quan hệ và sự cố kết gia đình - làng xóm, đặc biệt ở trúc câu (tính từ phải đi sau danh từ) và giàu các từ liên kết, từ chuyển tiếp trong câu. Hán ngữ tuy giàu danh từ nhưng được sử dụng, được đồng hóa nhuần nhuyễn trong một cú pháp thuần Việt.
Về mặt văn tự, chữ Nho không chỉ là ký tự mang giá trị ký hiệu mà còn mang trong nó cái hồn của nội dung khái niệm. Khi chữ Hán không đủ để ký hiệu những âm thuần Việt tổ tiên ta phải sinh ra chữ Nôm, là sáng kiến lắp ghép dựa trên các chữ Hán có sẵn để bổ sung.
Đến khi có ký tự Latinh để ghi chép thì sách vở tiếng Việt bước sang một thời kỳ phát triển thuận lợi. Với ký tự Latinh tiếng Việt nào cũng diễn tả được bằng ký hiệu, không cần dùng chữ Nôm nữa. Nhưng Latinh chỉ là ký hiệu đơn thuần, vô hồn. Phải là chữ Hán mới mang được cái hồn của chữ, tức cái khái niệm được hình tượng hóa, nhìn chữ đã toát lên nội dung chính của khái niệm, điều này GS Nguyễn Huệ Chi đã mô tả khá chi tiết. Vì thế, dù đã có chữ Quốc ngữ Latinh, người Việt vẫn cần có kiến thức tối thiểu về Quốc ngữ Hán tự, không phải để viết chữ Hán, không phải chỉ để đọc và hiểu một tư liệu cổ (việc này có thể ỷ lại vào các chuyên gia Hán Nôm), mà chủ yếu để hiểu và sử dụng tốt chính cái ngôn ngữ mà mình đang nói và đang viết hôm nay: tiếng Việt!
Hán văn là một trong hai nguồn gốc tạo ra tiếng Việt, nó không phải ngoại ngữ như Trung văn, Pháp văn, Anh văn, Nga văn… Hán văn không phải của Tàu mà vốn của Việt Nam hoặc đã Việt hóa thành của Việt Nam. Hiểu biết Hán văn không chỉ nhằm hiểu quá khứ mà chủ yếu phục vụ hiện tại.
Và điều này mới quan trọng: Hán văn không phải công cụ để nô lệ Tàu mà là công cụ chống Tàu xâm lược.
Tuy còn có những ý kiến khác nhau về xuất xứ của nền “Hán học” và từ đó có những cách gọi tên khác nhau, chữ Hán, chữ Nho, chữ Hán-Việt, chữ Việt cổ… nhưng dù thế nào thì loại chữ viết này cũng xuất hiện ở nước ta rất sớm, có thể từ thuở sơ khai, nên đã cùng dân tộc ta suy tư, biểu cảm, phát hiện, lưu trũ, chia vui sẻ buồn , cùng dân tộc Việt Nam trải qua mỗi bước thăng trầm, tạo ra một tầng lớp sĩ phu có học, và xây dựng nên con người Việt Nam, tạo dựng nhân cách…, trong đó tuy có ưu có khuyết nhưng góp phần quan trọng trong việc hình thành một Dân tộc Việt Nam, một Văn hóa Việt Nam. Qua Hán văn ảnh hưởng của Trung hoa tuy rất mạnh, nhưng những yếu tố Trung Hoa vào Việt Nam đều bị Việt Nam hóa để phục vụ cho cuộc sinh tồn của nòi giống Việt.
Sự gạn lọc của học giả Phan Châu Trinh đối với Nho học, bỏ thô lấy tinh, chọn lấy cái phù hợp và đồng hóa nó là một ví dụ điển hình. Tác giả Trần Gia Ninh có nhận xét đúng “Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm”.
Chữ Hán vào Việt Nam được dùng theo cú pháp Việt Nam, yếu tố coi rẻ nữ giới (nữ nhân nan hóa, thập nữ viết vô) hầu như không còn, yếu tố bạo lực, báo thù phải nhường chỗ cho nhân ái, bầu bí tương thân của dân tộc Việt. Suy luận rằng một nền văn hóa“quân-sư-phụ” đã cúi đầu “trung với vua” thì cũng cúi đầu trước giặc Hán ngoại xâm là một suy luận nhầm. Trung quân phải đi đôi với ái quốc và tư cách trượng phu “uy vũ bất năng khuất” nên chính Nho học đã tạo nên những nhân cách Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung…, những anh hùng chống Tàu xâm lược, trong khi những kẻ một chữ Nho bẻ đôi không biết thời nay có thể lại chui dưới háng Tàu!
Việt Nam với Trung Quốc có quan hệ đồng văn - đồng chủng, liên quan với nhau về nhiều mặt, điều ấy không cần tránh né, vì điều đó không phải là cớ khiến Việt Nam phải lệ thuộc Tàu. Nguồn gốc, tầm văn minh và tính độc lập của quốc gia là ba yếu tố hoàn toàn độc lập với nhau. Không phải loài người khởi xuất từ châu Phi thì châu Phi là gốc văn minh, và khi hình thành quốc gia thì các quốc gia lớn bé đều độc lập như nhau, không thể phân biệt “quốc gia mẹ” hay “quốc gia con” để đòi con phải về với mẹ!
Nước lớn hoặc giàu mạnh hơn thường dễ có ý đồ lấn át hoặc xâm lược nước nhỏ yếu hơn. Điều này rất cần cảnh giác và chống lại. Tuy vậy cần thấy mâu thuẫn giữa ý đồ chủ quan và hiệu quả khách quan, có thể hoàn toàn trái ngược.
Ví dụ: Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam để khai thác lợi ích là ý đồ xấu, nhưng hiệu quả khách quan là nâng dần trình độ của Việt Nam, đến một lúc chế độ thuộc địa sẽ phải chấm dứt. Ngược lại, chủ nghĩa Mác muốn làm điều tốt nhưng ảo tưởng, phi khoa học và độc đoán nên gây hiệu quả xấu, nên chế độ cộng sản kết cục cũng phải chấm dứt. Chủ nghĩa Đại Hán có ý đồ xấu nhưng sẽ gây hiệu quả xấu hay tốt cho Việt Nam thì chưa biết được, còn phụ thuộc vào sức sống của dân tộc Việt Nam, có khi yếu tố xấu lại gây hiệu quả tốt, kích thích Việt Nam vững mạnh thêm lên. Cho nên không phải thấy họ có ý đồ xấu là ta phải sợ đến mức phát hoảng mà rũ bỏ bất cứ thứ gì liên quan đến Tàu, kể cả những thứ đã được Việt hóa và trở thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Kết luận:
- Với Việt Nam, Hán văn là một trong hai bộ phận cấu tạo nên tiếng Việt, nên dạy Hán văn cũng là dạy một phần của tiếng Việt chứ không phải dạy một ngoại ngữ như Trung văn, Anh văn, Pháp văn… Để có cốt cách Việt cần trau dồi Việt văn, Hán văn, đồng thời để hòa nhập tốt với thế giới thì cần giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp…
- Để có kiến thức Hán văn thì các loại từ điển là cần thiết, nhưng từ điển không thay được giáo dục để trang bị một cái nền căn bản cần thiết tối thiểu. Không thể đem tâm lý nhất thời học sinh thích hay không thích để xác quyết nhu cầu một môn học.
- Việc này đáng lẽ phải đặt ra từ lâu và phải chuẩn bị mọi mặt cần thiết rồi, nhất là chuẩn bị đội ngũ giáo viên Hán văn, và phải tiến hành từng bước, từ diện nhỏ rồi mở rộng dần ra thành phổ cập.
- Nhưng nay, trong tình huống quan hệ Việt Trung đang gặp thử thách sống còn thì đặt vấn đề chữ Hán lúc này là không đúng lúc, phải đối phó với sự lợi dụng và sự nghi ngờ, nếu tiến hành càng phải thận trọng, từng bước thăm dò và cảnh giác.
- Cùng một việc nhưng hiệu quả sẽ tốt hay xấu phụ thuộc vào con người: ai chủ trương, bộ máy nào thực hiện, thực hiện với động cơ gì? Văn hóa không thể tách rời chính trị, và đấy mới là ẩn số lớn nhất, quyết định việc dạy chữ Nho rộng rãi cho học sinh nên bắt đầu lúc nào và tổ chức thực hiện ra sao.
H.S.P. (10-9-2016)
Tham khảo:
- Sàng lọc và kết hợp văn hóa Đông Tây, Phan Châu Trinh trở thành nhà Dân chủ - Nhân quyền.
Tác giả gửi BVN.
Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu CN), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).1- Trước hết cần phải nói rõ: Chữ Hán là gì? Có phải tiếng Hán, tiếng Trung không?
4- Các khoa ngữ văn ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế đều có Hán - Nôm, học viên cao học Hán - Nôm, các sinh viên Văn học cũng được học hơn 100 tiết chữ Hán cơ sở và nâng cao. Đây chính là nguồn giáo viên dạy nhập môn chữ Hán. Ở bậc THPT thì học sinh chuyên ban KHXH có thể tự chọn học sách chữ Hán cơ sở trong môn Ngữ văn. Nếu học sinh có hứng thú thì có thể học tiếp lên chuyên ngành ở đại học. Có thể hình dung môn chữ Hán như môn tiếng Latin ở các trường tinh hoa ở Mỹ và châu Âu.3- Nếu học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có 2 kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Trong thực tế học sinh chuyên văn Phổ thông năng khiếu hàng năm đều có học mấy chục tiết chữ Hán, các em học rất thú vị và tiến bộ rõ rệt khi sử dụng từ Hán Việt và học văn học cổ điển Việt Nam.
Tất nhiên có người sẽ nói, đó là công việc của những nhà khoa học, chuyên sâu, dân thường chẳng cần, bằng chứng là cả trăm năm nay, chúng ta làm mọi việc bằng chữ quốc ngữ mà đâu có sao. Nhưng các bạn có tự hỏi là ít nhất, muốn giữ gìn vẻ đẹp, sự chính xác của tiếng Việt, phải hiểu từ Hán Việt? Tôi tin là hầu hết mọi người đều tưởng chữ lò vi ba là từ tiếng Anh, tiếng Pháp. Xin thưa đó là từ Hán Việt. Hay trên báo chí, người ta hay dùng từ vấn nạn để chỉ những tệ nạn xấu xa, trong khi vấn nạn chỉ có nghĩa là “câu hỏi vặn”. Hàng ngày, trên báo chí và trong các bài văn của sinh viên, học sinh vẫn đầy rẫy những từ sai.Về phần mình, tôi ủng hộ việc cần có một số giờ chữ Hán trong nhà trường phổ thông, từ cấp 3 trở lên. Vì sao phải học chữ Hán? Bởi vì 70% từ ngữ Hán Việt chiếm đa số trong ngôn ngữ nước ta. Bởi vì cả kho tàng lịch sử, văn học, văn hóa suốt thời kỳ trung đại của Việt Nam là được sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm. Học để hiểu thêm về những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông mình. Đơn giản nhất, hàng ngày chúng ta đến chùa chiền cúng bái, nhưng thử hỏi, có mấy ai đọc được những biển, bảng ở chùa?
Điều này cũng giống như bảng chữ cái Phoenicia là nền tảng cho nhiều bảng chữ cái khác được dùng chung ở châu Âu và Trung Đông, bao gồm cả bảng chữ cái Latin. Cũng như thế, bảng chữ cái Kirin là hệ thống kí tự làm cơ sở cho bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau, trong đó có các bộ phận của Đông Nam Âu và Bắc lục địa Âu Á, đặc biệt trong các nhóm người gốc Slav…Trước hết, cần giải định kiến chữ Hán là sở hữu của người Trung Quốc. Thực chất, chữ Hán là một cách nói theo thói quen, còn có cách gọi khác là chữ Nho (?) một kiểu chữ tượng hình từng được sử dụng chung cho cả một khu vực rộng lớn gồm Trung Quốc, Hàn, Nhật, Việt Nam trước khi các quốc gia này có biên giới lãnh thổ rõ ràng.
Nếu các bên tranh luận đều đủ nội lực và tâm lượng thì sẽ không bao giờ có quang cảnh một cuộc “đấu tố” thảm hại như mấy ngày vừa qua.Hai vĩ nhân không đồng tình với nhau về con đường cứu nước mà trân quý nhau đến chết. Họ không cùng chí hướng nhưng cùng tâm huyết. Thanh niên sôi sục tranh luận cũng vì vận nước, và vì đủ tâm trí, đủ văn hóa để hiểu lời của hai tiên sinh. Những người thanh niên đó đã tranh luận vì yêu nước, họ có đủ tình cảm và trí tuệ để quan tâm đến chủ đề gan ruột đó. Cứu nước là chuyện lớn, lớn lắm, mà không thấy họ “chửi” nhau. Họ không vùi dập nhau như hậu duệ đang bàn về chữ Hán.
KHÔNG THỂ QUAY LƯNG VỚI DI SẢN HÁN-NÔM
VNCA 12-0-2016
- Số hóa hơn 10.500 trang tài liệu Hán Nôm
- Ra mắt cuốn sách: “Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển Đông”
- Làng lưu giữ nhiều văn bản Hán - Nôm khẳng định chủ quyền Hoàng Sa
PGS TS Đoàn Lê Giang (Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh): Lời tạm kết cho cuộc tranh luận dạy chữ Hán trong trường phổ thông
Khi phát biểu trong Hội thảo ở Viện Hán Nôm (27/8/2016) tôi có nói: 6 năm trước tôi đã từng có tham luận đề nghị dạy chữ Hán trong nhà trường để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, tuy nhiên nếu nói trong tình hình bây giờ thì rất khó, vì tâm lý chung của người dân.
Một vài ý tưởng ấy đã được Vietnamnet tường thuật và đưa lên mạng. Sợ mọi người không hiểu hết ý nên tôi phải đưa nguyên văn bài tham luận của tôi trình bày trong Hội thảo "Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế" (2010), bài viết có tên "Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam".
Sau đó 2 bài viết ấy lan truyền rất mạnh trên các mạng xã hội với nhiều ý kiến trái chiều, gay gắt. Tôi xin nói rõ suy nghĩ của tôi ở đây với mong muốn những người ngoài chuyên môn cũng hiểu được.
Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu CN), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).1- Trước hết cần phải nói rõ: Chữ Hán là gì? Có phải tiếng Hán, tiếng Trung không?
Chữ Hán đã tạo nên 60-70% vốn từ vựng tiếng Việt. Ví dụ câu “Hà Nội hoàn thành chỉnh trang đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc”, thì có lẽ 100% là từ gốc Hán các thời khác nhau. Lưu ý trong chữ Hán cũng có khá nhiều từ có nguồn gốc Việt cổ. Có người nói với tôi nên dùng chữ Nho cho khỏi lầm. Dùng cũng được, nhưng nó không chuẩn, vì chữ ấy không chỉ dùng trong các văn bản Nho, mà cả Phật, Đạo hay những loại văn hóa khác.
Có người nói nên dùng chữ Hán Nôm. Tôi thì không dùng vì trên đời không có chữ đó, mà chỉ có chữ Hán và chữ Nôm. Vậy chữ Hán là nói tắt của chữ Hán cổ đọc theo âm Việt. Cách nói này rất phổ biến, và được giới nghiên cứu mặc nhiên thừa nhận. Chữ Hán không phải là tiếng Hán, càng không phải Trung văn.
2- Chúng ta nên học chữ Hán vì 2 lý do chính:
- Muốn hiểu sâu được tiếng Việt thì chúng ta cần biết gốc gác nó ra sao, tra cứu nó thế nào. Từ Minh Tâm, nghĩa là sáng lòng, vì chữ Minh là sáng. Nhưng trong từ U Minh, Minh trong trường hợp này lại là Tối. U Minh là mờ mịt. Làm thế nào cho học sinh không hỏi thầy cô mà cũng biết được.
Có hai cách: Thứ nhất là học âm Hán - Việt, tự tra từ điển tiếng Việt. Đa số những người giỏi tiếng Việt hiện nay đều hình thành bằng con đường ấy. Thứ hai là học chữ Hán để có ấn tượng là chữ Hán rất nhiều từ đồng âm, nhiều nghĩa khác nhau. Sau đó biết cách tra từ điển. Từ điển chữ Hán có nhiều loại, rất phức tạp, phải học để có một chút vốn liếng mới tra được. Bằng cách này người ta có thể tự tra cứu, tự học tiếng Việt suốt đời.
- Học chữ Hán để cho chúng ta hiểu được văn hóa Việt Nam, chúng ta cảm thấy gắn bó với ông cha. Vì từ trước khi bỏ chữ Hán hoàn toàn vào đầu thế kỷ XX, toàn bộ di sản văn hóa Việt Nam được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (một thứ chữ được hình thành từ chữ Hán). Chúng ta học chữ Hán để chúng ta hiểu sâu tiếng Việt, từ đó có thể hiểu được vốn văn hóa Việt Nam. Văn hóa cổ dù có được dịch ra tiếng Việt, như các công trình của Lê Quý Đôn chẳng hạn, nếu không có vốn chữ Hán nhất định, đọc vẫn rất khó hiểu. Đọc “Truyện Kiều”, nếu có biết chữ Hán, chữ Nôm thì mới hiểu thấu đáo cái hay của nó.
Chúng ta nếu có biết chút ít chữ Hán thì đến các di tích văn hóa (đình chùa miếu mạo), nhìn một tập thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng ta không thấy xa lạ, không thấy mình là "những đứa con thất cước của giống nòi" (chữ của Hoài Thanh). Sâu xa hơn, chúng ta là người Việt Nam, trong văn hóa chúng ta có một phần văn hóa Đông Á. Đạo đức của chúng ta hình thành từ văn hóa bản địa và văn hóa Đông Á (Nho, Đạo thuộc về văn hóa Hán, Phật thì gốc Ấn Độ).
Những điều ấy được các bậc hiền triết phương Đông nói rất hay và từ rất sớm, các sách vỡ lòng chữ Hán ngày xưa vừa dạy chữ, vừa dạy người thông qua các sách đó rất thú vị và dễ nhớ. Vậy chúng ta có nên học một chút tinh hoa từ đó qua sách chữ Hán nhập môn không?
“Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn tại đền Bát Đế, Bắc Ninh.
4- Các khoa ngữ văn ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế đều có Hán - Nôm, học viên cao học Hán - Nôm, các sinh viên Văn học cũng được học hơn 100 tiết chữ Hán cơ sở và nâng cao. Đây chính là nguồn giáo viên dạy nhập môn chữ Hán. Ở bậc THPT thì học sinh chuyên ban KHXH có thể tự chọn học sách chữ Hán cơ sở trong môn Ngữ văn. Nếu học sinh có hứng thú thì có thể học tiếp lên chuyên ngành ở đại học. Có thể hình dung môn chữ Hán như môn tiếng Latin ở các trường tinh hoa ở Mỹ và châu Âu.3- Nếu học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có 2 kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Trong thực tế học sinh chuyên văn Phổ thông năng khiếu hàng năm đều có học mấy chục tiết chữ Hán, các em học rất thú vị và tiến bộ rõ rệt khi sử dụng từ Hán Việt và học văn học cổ điển Việt Nam.
Trên mạng đa số không phân biệt được chữ Hán với tiếng Hán, tiếng Trung. Không phân biệt được từ Hán Việt, ngành Hán - Nôm, hay "từ" với "chữ" Hán... Thế nhưng ai cũng có ý kiến: đọc rồi cũng nói, không đọc cũng nói, biết cũng nói, không biết cũng nói, biết dở dở ương ương cũng nói.
Người ta chỉ nghe cái tít thôi, có người còn rút tít xuyên tạc: "Học tiếng Hán để cứu sự sụp đổ của Tiếng Việt" rồi vu cho tôi chủ trương quay lại dùng chữ Hán chữ Nôm thay cho chữ quốc ngữ Latin (!). Thế rồi cứ hè nhau, đọc nhau rồi chửi, lại nhân đó mà trút mọi bực dọc xã hội, chửi hết những người có bằng cấp tiến sĩ, giáo sư... hệt như những người chưa hề đến trường bao giờ.
Tất nhiên có nhiều người hiểu biết, phân tích, trình bày một cách có lý lẽ, người thì nhiệt liệt đồng tình, người thì đồng tình có mức độ, người thì nêu ra những khó khăn hay điều kiện để chủ trương ấy thành khả thi v.v...
TS Hà Thanh Vân (Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh) : Muốn thoát ràng buộc trước hết phải tìm hiểu sợi dây
Có rất nhiều ý kiến ủng hộ PGS-TS. Đoàn Lê Giang, song cũng có không ít người không đồng tình, thậm chí có những lời lẽ không đẹp, xúc phạm. Tôi cho rằng mọi hành vi tấn công vào cá nhân là xấu xa. Khoa học dung chứa những ý kiến phản biện hợp tình, hợp lẽ, chứ không chấp nhận những đòn tấn công vào nhân phẩm cá nhân.
Tất nhiên có người sẽ nói, đó là công việc của những nhà khoa học, chuyên sâu, dân thường chẳng cần, bằng chứng là cả trăm năm nay, chúng ta làm mọi việc bằng chữ quốc ngữ mà đâu có sao. Nhưng các bạn có tự hỏi là ít nhất, muốn giữ gìn vẻ đẹp, sự chính xác của tiếng Việt, phải hiểu từ Hán Việt? Tôi tin là hầu hết mọi người đều tưởng chữ lò vi ba là từ tiếng Anh, tiếng Pháp. Xin thưa đó là từ Hán Việt. Hay trên báo chí, người ta hay dùng từ vấn nạn để chỉ những tệ nạn xấu xa, trong khi vấn nạn chỉ có nghĩa là “câu hỏi vặn”. Hàng ngày, trên báo chí và trong các bài văn của sinh viên, học sinh vẫn đầy rẫy những từ sai.Về phần mình, tôi ủng hộ việc cần có một số giờ chữ Hán trong nhà trường phổ thông, từ cấp 3 trở lên. Vì sao phải học chữ Hán? Bởi vì 70% từ ngữ Hán Việt chiếm đa số trong ngôn ngữ nước ta. Bởi vì cả kho tàng lịch sử, văn học, văn hóa suốt thời kỳ trung đại của Việt Nam là được sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm. Học để hiểu thêm về những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông mình. Đơn giản nhất, hàng ngày chúng ta đến chùa chiền cúng bái, nhưng thử hỏi, có mấy ai đọc được những biển, bảng ở chùa?
Việc học chữ Hán không chỉ là để chúng ta viết tiếng Việt cho đúng hơn, mà còn để hiểu lịch sử, văn hóa mấy ngàn năm của dân tộc. Còn nếu bảo học chữ Hán là lệ thuộc Trung Quốc thì chỉ là cách nói ngụy biện. Ít nhất, nếu đọc được tiếng Hán, chúng ta sẽ biết Trung Quốc tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân họ về đường lưỡi bò như thế nào, sẽ am hiểu chính sách “cua đồng” (hướng mọi người đến những vấn đề không thực tế như ngôn tình, tiên hiệp, tránh bàn luận đến thực tế chính trị) của Trung Quốc.
Tôi ủng hộ PGS-TS Đoàn Lê Giang.
TS Châu Minh Hùng (Trường Đại học Quy Nhơn): Có phải học chữ Hán là thành “Hán nô”?
Tôi không chấp những người mang thói quen hàm hồ quy chụp "Hán nô" khi tấn công những ai nói về việc học chữ Hán. Nhưng chung quy cũng bởi tại mặc cảm ngàn năm Bắc thuộc, cho nên người Việt không tránh khỏi sự đề kháng một cách vô thức!
Điều này cũng giống như bảng chữ cái Phoenicia là nền tảng cho nhiều bảng chữ cái khác được dùng chung ở châu Âu và Trung Đông, bao gồm cả bảng chữ cái Latin. Cũng như thế, bảng chữ cái Kirin là hệ thống kí tự làm cơ sở cho bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau, trong đó có các bộ phận của Đông Nam Âu và Bắc lục địa Âu Á, đặc biệt trong các nhóm người gốc Slav…Trước hết, cần giải định kiến chữ Hán là sở hữu của người Trung Quốc. Thực chất, chữ Hán là một cách nói theo thói quen, còn có cách gọi khác là chữ Nho (?) một kiểu chữ tượng hình từng được sử dụng chung cho cả một khu vực rộng lớn gồm Trung Quốc, Hàn, Nhật, Việt Nam trước khi các quốc gia này có biên giới lãnh thổ rõ ràng.
Kí tự (characters) là tài sản chung của cả một khu vực các cộng đồng chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Thực chất, trên thế giới dù có hàng trăm dân tộc khác nhau, nhưng chỉ có ba bốn nhóm kí tự tương ứng với các nền văn minh.
Nhiều dân tộc có ngôn ngữ nhưng không có hoặc không cần kí tự. Các nhà ngữ học lấy cái nôi văn minh của một khu vực mà đặt tên cho các nhóm kí tự và điều ấy không đồng nghĩa với sự sở hữu độc quyền của dân tộc được gắn cho tên gọi ấy. Không có chuyện chữ Hán là độc quyền của người Hán hay kí tự Slav là độc quyền của người Nga.
Từ đầu thế kỉ XX, người Việt bỏ chữ Hán để sử dụng kí tự Latin là một sự lựa chọn có tính lịch sử, do sự thích hợp và tiện dụng của lối chữ ghi âm, kể cả do tác động bởi sức mạnh ảnh hưởng của nền văn hóa, văn minh phương Tây. Không có chuyện các dân tộc sử dụng chung một loại kí tự là dân tộc này bị nô dịch dân tộc kia.
Kí tự khác với ngôn ngữ. Ngôn ngữ (language) bao gồm hệ thống kí hiệu biểu đạt bằng âm thanh của một cộng đồng bản ngữ như một khế ước trong trao đổi tình cảm, tư tưởng. Tiếng Việt mà chúng ta đang nói đến là ngôn ngữ tồn tại như một tài sản riêng của người Việt.
Các cộng đồng, dân tộc có thể sử dụng chung một loại kí tự nhưng ngôn ngữ vẫn khác biệt khó có thể đồng hóa. Vì mặc cảm, người ta hay dùng khái niệm Hán hóa cho ngàn năm Bắc thuộc, riêng cá nhân tôi vẫn gọi đó là quá trình Việt hóa dù áp lực của cả ngàn năm Bắc thuộc.
Mặc dù cha ông ta vay mượn hết Hán rồi cải biến Hán thành Nôm, cuối cùng là kí tự Latin, tiếng Việt với âm điệu, kể cả tình cảm, tư tưởng luôn hoàn toàn khác biệt với các dân tộc khác. Kí tự không làm thay đổi ngôn ngữ.
Đành rằng, giới nho học phong kiến một thời có sử dụng nguyên chữ, nguyên cấu trúc và thể loại của người Hán để giao tiếp trên mặt văn bản, nhưng nếu có chuyên môn phân tích về âm và nghĩa, sẽ thấy các cụ ta đã Việt hóa rất rõ ràng bằng chính sức mạnh của tinh thần Việt.
Không có quá trình Việt hóa ấy, tiếng Việt đã không tồn tại, người Việt không ăn nói như người Hán thì cũng ăn nói như người Tây.
Không có quá trình Việt hóa ấy, văn chương Việt Nam cũng không có vị thế nào cho những áng văn chương thấm đẫm tinh thần, ý chí dân tộc.
Cha ông ta đã dùng chữ Hán cả ngàn năm, cũng như chúng ta hôm nay dùng kí tự Latin đã hơn trăm năm, ắt không đồng nghĩa với nô dịch Hán hay nô dịch Tây!
Có nô dịch chăng là ở những người ngu dốt. Ngu dốt thì ắt bị nô dịch. Muốn thoát khỏi sự nô dịch chỉ có thể là nỗ lực nâng cao dân trí. Dân trí mới mang lại dân chủ, tự do thực sự!
Học chỉ để phát triển thôi ư? Triết lí giáo dục hiện đại là học không chỉ để phát triển vật chất một cách thực dụng mà còn tiếp thu những giá trị tinh thần của nhân loại: Học để hiểu biết, để làm người, để cống hiến… Theo tôi, sự phát triển bền vững nào cũng cần có nền tảng, không thể cắt đứt hoàn toàn với mạch nguồn văn hóa dân tộc. Quan niệm của tôi, chữ Hán là một tri thức gắn liền với văn hóa ngàn năm của cha ông. Không có tri thức nào phục vụ cho mục đích trên là không cần thiết.
TS Lê Thị Thanh Tâm (Giảng viên Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội): Khi “Tử ngữ” là văn hóa bề sâu
Ừ, thì khỏi học chữ Hán. Có ai chết đâu.
Thầy tôi, GS. Nguyễn Văn Hạnh kể trong giờ giảng văn đại học: Ngày xưa, thanh niên Việt Nam ở độ tuổi 18 - 20 đã sôi sục tranh luận Phan Bội Châu đúng hay Phan Chu Trinh đúng.
Nếu các bên tranh luận đều đủ nội lực và tâm lượng thì sẽ không bao giờ có quang cảnh một cuộc “đấu tố” thảm hại như mấy ngày vừa qua.Hai vĩ nhân không đồng tình với nhau về con đường cứu nước mà trân quý nhau đến chết. Họ không cùng chí hướng nhưng cùng tâm huyết. Thanh niên sôi sục tranh luận cũng vì vận nước, và vì đủ tâm trí, đủ văn hóa để hiểu lời của hai tiên sinh. Những người thanh niên đó đã tranh luận vì yêu nước, họ có đủ tình cảm và trí tuệ để quan tâm đến chủ đề gan ruột đó. Cứu nước là chuyện lớn, lớn lắm, mà không thấy họ “chửi” nhau. Họ không vùi dập nhau như hậu duệ đang bàn về chữ Hán.
Ừ, thì khỏi học chữ Hán. Có ai chết đâu. Sao mà nhiều người tức tối cuồng nộ đến thế.
Nhưng rồi sẽ có phóng viên viết giới thiệu về “kỳ thư bằng đồng” của người Việt ở Hà Tĩnh mà chụp ảnh ngược chữ Hán.
Nhưng rồi sẽ có tiến sĩ viết gần một chục lần chữ “phồn thực” thành “phồn thức” mà vẫn “năn nỉ” hội đồng cho qua.
Tôi có lúc ngạc nhiên sao ở Nhật, người ta chào cả… xe. Tôi ở gần một tiệm rửa xe ôtô. Sau khi xe được rửa xong, người lái xe chào người rửa xe, rồi cho xe chạy ra đường. Người rửa xe sau khi giúp khách hàng lui xe và tham gia giao thông thì trở về tiệm, đứng nhìn theo xe rồi chào hai cái, một cái 90 độ, một cái 45 độ.
Không chào cái xe thì cũng đâu có ai chết. Đúng rồi. Nhưng đó chính là cái mà Fukuzawa đã nói từ ngày “khởi nghiệp” khai minh, rằng nước Nhật chỉ có người dân mà không có “quốc dân”. “Quốc dân”, đó là sự đồng lòng vươn lên với khát vọng mãnh liệt về văn hóa và “chung làm một” trong những suy tư chân chính về nền văn hóa, về vóc dáng và sức mạnh tự tôn. Đó là sự lễ độ của một xã hội đã trưởng thành và không ngừng cúi thấp xuống để học hỏi.
Đừng nghĩ học thuyết Kaizen (liên tục cải tiến) của người Nhật chỉ áp dụng trong quản lí tài chính, kinh doanh, mà nó còn được sống trong nền giáo dục Nhật. Hãy học từng chút, hãy chia nhỏ những vấn đề khó, hãy tiến bộ từng giây phút – đó là mấu chốt quan trọng. Cho nên, ý tưởng “học làm chi cái thứ tử ngữ” hẳn sẽ được lòng đại bộ phận giới trẻ đang không có nhu cầu gì quá sâu sắc về chữ nghĩa; nhưng sẽ rất khó rèn luyện cái thói quen “chia nhỏ vấn đề khó”, giải quyết từng chút một, cẩn trọng với chân lý, cúi đầu học hỏi – thứ mà người Việt Nam sẽ mãi thiếu.
"Tử ngữ" mà liên hệ thiết thân đến nguồn gốc tiếng Việt và ẩn tàng kho báu nhân cách, trí tuệ của giống nòi thì đó là thứ tử ngữ cần được sống, sống không phải như một sinh ngữ, mà như văn hóa bề sâu. Loạn tranh luận là do chưa có "quốc dân”.
PV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét