Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016

20160521. XOAY QUANH VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY

ĐIỂM BÁO MẠNG
TỰ ÁI DÂN TỘC VÀ ÁP LỰC VƯỢT VŨ MÔN
VŨ NGỌC HOÀNG/VNN/ BVB 20-5-2016
Một 'góc đổi mới' ở T.p HCM

"Vấn đề phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm trước hết là chống tụt hậu, tiếp theo là vươn lên thành một quốc gia tiên tiến, văn minh, một dân tộc có đẳng cấp cao.”
-Vũ Ngọc Hoàng.
Tự ái dân tộc
Vấn đề phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm trước hết là chống tụt hậu, tiếp theo là vươn lên thành một quốc gia tiên tiến, văn minh, một dân tộc có đẳng cấp cao. Muốn vượt lên phía trước (để thành XHCN) thì trước nhất phải bằng người ta, lúc đầu là bằng mức trung bình, tiếp theo là bằng mức tiên tiến.
Nói cách khác, về kinh tế, trước mắt phải vượt qua thu nhập trung bình (hiện nay thế giới xác định khoảng hơn 12.000 USD/người/năm) và tiếp theo là vươn lên trong thu nhập cao để bằng (khoảng 40.000 USD) rồi vượt hơn các nước phát triển. Hiện nay một số nước phát triển đã đạt trên 60.000 USD/người/năm. Nước ta mới ở mức 2000USD/người/năm.
Để chống tụt hậu thì việc đầu tiên là phải thấy mình tụt hậu, biết mình tụt hậu, công khai sự tụt hậu để toàn Đảng, toàn dân biết. Cần thường xuyên so sánh mình với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới (chứ không phải chỉ so với chính mình ngày xưa). Không ngại nhân dân biết và cũng không được giấu nhân dân việc nước ta bị tụt hậu. Đảng và Nhà nước dám công khai sự tụt hậu của nước ta tức là Đảng mạnh, Nhà nước mạnh. Mạnh và có trách nhiệm. Đó là một Đảng chắc chắn như cách nói của Hồ Chí Minh. Công khai để chạm vào tự ái của dân tộc. Từ đó mà phát động tinh thần dân tộc – một sức mạnh vô cùng lớn lao và ẩn chứa.
Trong chiến tranh ta đã chiến thắng bằng tinh thần dân tộc và văn hóa giữ nước. Nay xây dựng hòa bình cũng phải nghĩ đến sự tiến lên với tinh thần dân tộc quật cường (không duy ý chí) và văn hóa phát triển. Thật sự khuyến khích mọi người tham gia ý kiến thẳng thắn về nguyên nhân tụt hậu, giải pháp để đổi mới và phát triển, đổi mới cho phát triển.
Trong đổi mới tư duy, không nặng nề việc phân chia thế giới thành hai nửa TBCN và XHCN, đối lập nhau, khác nhau căn bản, làm cái gì giống như các nước tư bản thì coi là “chệch hướng”, là “xét lại”, xóa nhòa ranh giới ấy là mất lập trường, là mơ hồ trong cách mạng. Tư duy ấy rất không đúng, đã xưa cũ, sai lầm và lạc hậu. Nó siêu hình và duy tâm, không phải biện chứng và duy vật, không đúng với cách tư duy của C.Mác, cũng không đúng với thế giới hội nhập mà Việt Nam đã và đang tham gia tích cực để trở thành của nó.
Việc phân chia quá trình phát triển của lịch sử nhân loại thành nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, TBCN và XHCN là cách phân chia theo hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó, cho đến nay, chế độ XHCN vẫn chưa đạt được trong hiện thực, mà còn trong dự báo tương lai.
Từng sai lầm khi lập “hàng rào”, ngăn “chiến tuyến”
Thực tiễn từ sau cách mạng tháng 10 Nga, năm 1917, cách phân chia nói trên (TBCN và XHCN) chủ yếu nặng về chính trị. “Loài người” có một thời kỳ khá dài đã tư duy và ứng xử rất sai lầm trong việc lập ra “hàng rào”, “chiến tuyến” ngăn đôi thế giới, trên cơ sở các hệ tư tưởng khác nhau, đằng sau “hàng rào” ấy thực chất là sự đối nghịch của hai cường quốc là Liên Xô và Mỹ, gây ra thù địch, đe dọa và chiến tranh, chạy đua vũ trang làm ra rất nhiều loại vũ khí có đủ khả năng giết cả nhân loại, kể cả bên này và bên kia đều phạm những sai lầm về tư tưởng và hành động. Thực tiễn đã cho thấy cuối cùng cũng phải hội nhập, cũng phải coi nhau là đối tác chiến lược đấy thôi.
Ngày nay, đồng thời với việc phân chia theo hình thái kinh tế - xã hội để tiếp tục nghiên cứu, chúng ta có thể và nên phân chia thế giới theo trình độ phát triển thành các loại nước: chưa phát triển, đang phát triển, phát triển và phát triển cao. Cách phân chia này sẽ có nhiều ý nghĩa trong chỉ đạo công việc thực tế. Trong đó, nước nào và khi nào đạt trình độ phát triển cao thì đó là nước XHCN.
Cho đến nay, như đã nói, CNXH chưa có trong hiện thực. Các nước tư bản phát triển là các nước gần nhất với CNXH. Còn nước ta đang ở giai đoạn đầu của nhóm thứ hai (các nước đang phát triển), còn rất xa để có thể đến được XHCN. Các nước tư bản phát triển dù ta vẫn gọi họ là tư bản (mà tư bản cũng không phải là xấu!) nhưng họ đã phát triển khác xa họ trước kia, họ không còn là họ như thời C.Mác đang sống.
Thậm chí chính họ (chứ không phải các nước XHCN) đang chứng minh trên thực tế những dự báo của C.Mác về xã hội tương lai [Tôi nói dự báo khoa học chứ không phải các ý kiến tư biện]. Thu nhập và phúc lợi xã hội cao hơn chúng ta rất nhiều lần. Vấn đề con người ngày càng chiếm vị trí trung tâm. Quyền con người được bảo đảm. Sở hữu xã hội xuất hiện ngày càng nhiều trong các hình thức kinh tế cổ phần, kinh tế hợp tác và các tổ chức phi lợi nhuận trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự xuất hiện của sở hữu xã hội mặc dù có vai trò quan trọng của cơ chế quản lý do nhà nước ban hành, nhưng chủ yếu vẫn là kết quả tự nhiên của quá trình phát triển của kinh tế tư nhân, đến lúc nó tự vượt qua chính nó, vượt ra khỏi ranh giới của nó để thành sở hữu xã hội (trên cơ sở vẫn tôn trọng kinh tế tư nhân, không phủ nhận kinh tế tư nhân). Nhờ tự do cạnh tranh và chính các nhà tư bản cần phải có thị trường phát triển, cần nguồn nhân lực chất lượng cao, cộng với kiên trì đấu tranh xã hội, các nước tư bản đã thực hiện một quá trình dân chủ hóa, chuyển quyền lực từ tay các tập đoàn tư bản lớn (nhất là tư bản tài chính) về tay của đa số nhân dân.
Nói cách khác, các nước tư bản phát triển đang XHCN hóa, chính họ đang chứng minh tính “tất yếu” trong quá trình phát triển, còn các nước gọi là XHCN thì chưa hiểu hết về mình.
Không có tự do sẽ không có bền vững
Để có thể phát triển bền vững trên đường dài, vươn tới đỉnh cao của nền văn minh nhân loại, giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là tự do tư tưởng. Và song song với tự do tư tưởng là tự do ngôn luận, tự do học thuật.
Cũng có không ít ý kiến thắc mắc không rõ tại sao không phải là các giải pháp kinh tế mà tự do tư tưởng mới là giải pháp đầu tiên quan trọng nhất đối với sự phát triển? Đó là điều chắc chắn! Bởi lẽ sức mạnh quan trọng nhất của một dân tộc là sức mạnh trí tuệ; phát triển là kết quả của sáng tạo – của hoạt động trí tuệ. Và trí tuệ của một dân tộc, của một Đảng chân chính chỉ có thể ngày càng giàu có và phong phú hơn lên nhờ quá trình tiếp cận liên tục, thường xuyên với các chân lý. Mà con đường đi đến chân lý (trong khoa học xã hội) chủ yếu là thông qua trao đổi, tiếp biến, thử nghiệm, tranh luận, phản biện và đối thoại bình đẳng, dân chủ giữa các ý kiến khác nhau; chứ không phải chân lý đã luôn có sẵn rồi, trong sách vở, do ai đó đã nghĩ ra tất cả rồi hoặc đã độc quyền nắm giữ và áp đặt, người khác không được quyền nghĩ khác.
Không có tự do tư tưởng cũng có nghĩa là chưa có con đường tiếp cận chân lý để nhanh chóng trưởng thành về “duy lý” mà còn dừng lại phổ biến trong “duy cảm”.
Thực tiễn của thế giới từ trước đến nay đã cho thấy, chưa có một nước nào không có tự do tư tưởng mà trở thành quốc gia phát triển. Ngày xưa Châu Á đã từng có thời kỳ đạt bước tiến đáng kể trong nền văn minh nhân loại, trong khi Châu Âu vẫn còn trong đêm dài lạc hậu bởi chế độ thần quyền. Vậy mà sau đó Châu Âu đã tiến vượt lên, bỏ Châu Á lại phía sau, nhờ các cuộc khai sáng và phục hưng đã khai phóng tư tưởng, mở đường cho tự do cá nhân và tiến bộ về dân chủ xã hội.
Tất nhiên, để phát triển được, không chỉ có tự do tư tưởng mà còn các vấn đề về cơ chế, thể chế, trình độ và năng lực quản trị quốc gia… nữa. Tuy nhiên, tự do tư tưởng vẫn là giải pháp đầu tiên quan trọng nhất, mà nếu không có nó thì chắc chắn dân tộc ấy sẽ tụt hậu về tư duy, từ đó mà dẫn đến tụt hậu toàn diện. Chính tự do tư tưởng sẽ giúp cho lãnh đạo và cộng đồng tiếp cận đúng hơn với chân lý, lựa chọn những quyết định đúng nhất có thể, và nếu sai thì điều chỉnh nhanh nhất; đồng thời thông qua đó mà nhanh chóng trưởng thành về duy lý.
Mới sẽ có sức sống, cũ sẽ mòn
Lâu nay, Đảng và Nhà nước ta đã không ít lần ghi vào văn bản về sự cần thiết của tự do tư tưởng. Trong thực tế xã hội cũng đã có nhiều tiến bộ so với vài ba chục năm trước. Tuy nhiên vẫn là rất chưa đủ! Cần phải tiếp tục giải quyết vấn đề nhận thức và điều chỉnh bổ sung, đổi mới các quy định pháp lý về vấn đề này, kể cả việc xem lại các điều luật về tội tuyên truyền chống nhà nước, sao cho nước ta có được một môi trường văn minh, lành mạnh về tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, không để ai có thể lợi dụng những điểm chưa rõ để quy chụp, quy tội, gán tội một cách tùy tiện cho người khác, hoặc bằng hành vi bạo lực chống lại nhà nước của dân, hoặc lợi dụng tự do để bịa đặt vu cáo các tổ chức và cá nhân, xúc phạm và xâm phạm tự do của người khác.
Tiếp theo tự do tư tưởng, và nhờ tự do tư tưởng, cộng đồng nhân dân tiếp cận dễ dàng hơn với tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, cả cổ điển và hiện đại. Các giá trị ấy được chắc lọc từ trong đa dạng văn hóa và trở thành nền tảng cho sự phát triển, trước tiên là nền tảng tinh thần.
Trong sự đa dạng văn hóa ấy, có phần thuộc tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh, C.Mác và Lê Nin… Đó là bộ phận rất quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Trên nền tảng văn hóa ấy mà tiến hành đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế, chính sách và lựa chọn giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển.
Bản thân Đảng cũng phải mới, không để cho Đảng ta bị cũ. Mới sẽ có sức sống. Cũ sẽ không còn hấp dẫn. Đảng đổi mới để đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo công cuộc đổi mới của đất nước, tham gia tích cực việc khai hóa văn minh cho dân tộc, để Việt Nam phù hợp với thế giới đang thay đổi rất nhanh chóng mà chúng ta không thể đứng ngoài hoặc tự cô lập mình, ngược lại phải là một thành viên chủ động hội nhập, một bộ phận hợp thành của thế giới đó.
Mặt khác, thông qua đổi mới phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng và thông qua lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ của đất nước mà Đảng thật sự nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, trong sạch và vững mạnh hơn./.
VNH/VnN
-----------
>Kỳ 1: Chệch hướng sang "CNTB thân hữu": Mối nguy có thật
TƯ DUY 'THỜI XA VẮNG" VÀ  LIÊM CHÍNH THỜI NAY
KỲ DUYÊN/ VNN 21-5-2016
Tư duy, 'thời xa vắng', Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung, Chính phủ mới
Con rồng VN vẫn chỉ là biểu tượng khát vọng.
 Sự trong sạch, liêm chính của một Chính phủ, là điều người dân mong chờ từ rất lâu nay. Nhưng còn mong chờ hơn, ấy là lời nói gắn liền với quyết liệt hành động.
Như một quy luật thực tiễn, quốc gia nào cũng vậy, cơ chế quản lý nào thì có nền kinh tế đó tương thích. Nhìn ngược thời gian, nước Việt đã từng trải qua những dâu bể lịch sử. Cơ chế quản lý thời bao cấp, có nền kinh tế kế hoạch hóa- bao cấp song hành. Nhưng rồi những thăng trầm, biến động của nhân loại, nhất là ở những quốc gia “đầu đàn” đã khiến cho nước Việt thức tỉnh và quyết tâm “đổi mới hay là chết”?
Kinh tế thị trường nhưng tư duy… xin- cho?
Thực tế đó cho thấy không có một thể chế nào là duy nhất đúng, nếu không có sự điều chỉnh liên tục để thích ứng với đời sống nhân sinh. Bởi dù muốn dù không, nhân loại luôn vận động, đời sống XH luôn vận động. Những quốc gia văn minh luôn tiến về phía trước, và họ tồn tại phát triển bởi luôn biết điều chỉnh chính mình.
Từ cơ chế kinh tế bao cấp chuyển hẳn sang cơ chế quản lý thị trường định hướng XHCN, nước Việt từng có lúc được quan tâm như một hiện tượng, thậm chí là hy vọng “hóa rồng” của nhân loại.
Tuy nhiên, cho dù đạt không ít kết quả, có sự thay đổi cả trong diện mạo quốc gia lẫn diện mạo từng gia đình, nhất là ở các đô thị lớn, 30 năm đổi mới đã qua, nước Việt giờ đây đang đứng trước những thách thức của hội nhập hiện đại: Phát triển hay tụt hậu? Khi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình khá nhãn tiền?
Con rồng VN vẫn chỉ là biểu tượng khát vọng, từ trong giấc mơ cổ tích ngày xửa ngày xưa, của trẻ em, nay là người Việt trưởng thành? Vì sao?
Câu trả lời chỉ có thể tìm trong thực tiễn. Trong chính tư duy của người Việt.
Mặc dù, về bản chất, kinh tế thị trường là dựa trên quy luật cung- cầu của đời sống, dựa trên sự bình đẳng và cạnh tranh sòng phẳng của các thành phần kinh tế, nhưng mô hình kinh tế thị trường của nước Việt ngay từ đầu vẫn không thoát khỏi tinh thần… duy ý chí, khi chọn lựa doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo, thực chất vẫn không thoát khỏi cách tư duy “kế hoạch hóa, bao cấp” xơ cứng khốn khổ một thời. Đằng sau các DNNN vẫn là các Bộ chủ quản quản lý.Sự phát triển của mỗi quốc gia bao giờ cũng phải có lý luận làm nền tảng. Nhưng lý luận kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước Việt còn khá mỏng manh. Bởi chưa có mô hình thực tế của bất cứ quốc gia nào “thị phạm”. Rút cục người Việt mò mẫm vừa học vừa … mần.
Điều này khác hẳn với các quốc gia tiên tiến, mà câu chuyện của ông Vũ Tiến Lộc (Chủ tịch VCCI) tại hội thảo về động lực phát triển của kinh tế tư nhân tháng 10/2015, khi so sánh kinh tế của t/p New York (Mỹ) với 08 triệu dân, chủ yếu là kinh tế tư nhân- có tổng GDP trên 1000 tỷ USD và Cu Ba, quốc gia với 11 triệu dân, chủ yếu là kinh tế nhà nước, nhưng tổng GDP chỉ đạt trên 70 triệu USD, chính là sự so sánh về tư duy kinh tế phản chiếu sau sức mạnh kinh tế mỗi địa danh.
Tiếng là kinh tế thị trường, nhưng các DN tư nhân nước Việt vẫn phải chấp nhận một môi trường kinh doanh bất bình đẳng, sống “ngoắc ngoải’ với đủ thứ điều kiện kinh doanh, kiểu hành là chính.
Rút cục, tư duy xin- cho, thứ tư duy chứa đựng rất nhiều mầm mống tai hại và hệ lụy của nền kinh tế thời bao cấp vẫn tồn tại dai dẳng ngay trong khối các DNNN của thời kinh tế thị trường, vô tình và rất nhanh chóng, hình thành nên các lợi ích nhóm liên kết nhằng nhịt nhau. Cộng với sự quản lý của cơ quan chức năng vốn lỏng lẻo, cộng với cơ chế quản lý vĩ mô thiếu công khai, minh bạch…
Đã dẫn đến kết quả, trái ngược với các thành phần kinh tế khác như DN tư nhân, DN có vốn nước ngoài FDI, các DNNN được ưu đãi từ hạ tầng cơ sở, đầu tư tài chính, thuế khóa, dây chuyền công nghệ…, sự gặt hái của các DNNN so với sự đầu tư là càng nhiều càng ít.
Người viết bài không hề phủ nhận vẫn có những DNNN ăn nên làm ra, có thương hiệu, nhưng bạn đọc sẽ nghĩ gì, khi đọc thông tin so sánh phát xấu hổ này: Tuy tỷ trọng đầu tư của khu vực DNNN trên 40% tổng số vốn đầu tư, nhưng tỷ trọng của khu vực này trong GDP chỉ 32%, trong khi khu vực kinh tế ngoài Nhà nước có tỷ trọng vốn đầu tư chỉ khoảng 38% GDP, nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng trong GDP của khu vực này chiếm đến 49% GDP (báo Đầu tư, ngày 03/9/2015).
Tư duy, 'thời xa vắng', Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung, Chính phủ mới
Liệu những sự bất động, chết lâm sàng, đắp chiếu, trùm mền, thua lỗ triền miên của các DNNN có liên quan gì tới hiện trạng điều hành ngân sách như “đi trên dây”. Ảnh: vneconomy

Nghĩ gì, khi đọc thông tin, hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi đều có nhà máy ethanol lớn hàng đầu Đông Nam Á, đến nay, cả hai đều trong tình trạng 'chết lâm sàng' và đang gánh khối nợ lên đến cả ngàn tỷ (VietNamNet, ngày 17/5). Nghĩ gì trước đó, ngày 10/5, VietNamNet đưa tin, dù đã gần hoàn thành, nhưng hơn 04 năm nay, nhà máy nhiên liệu sinh học ethanol Phú Thọ vốn đầu tư 2.400 tỉ nằm bất động, mặc cho thời gian, sương gió đang tàn phá những thiết bị nghìn tỷ.Sẽ nghĩ gì khi đọc một loạt thông tin về bảy nhà máy methanol với tổng giá trị đầu tư ước tính 10.000 tỉ đồng, Nhà máy Xơ - Sợi polyester Đình Vũ (PVText) 7.000 tỉ đồng, Nhà máy Gang thép TISCO gần 9.000 tỉ đồng đang “trùm mền”. Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đầu tư gần 03 tỉ đô la Mỹ tạo ra khoản lỗ lũy kế khoảng 1,2 tỉ đô la Mỹ...(TBKTSG, ngày 17/5).
Nghĩ gì, khi đọc thông tin trong tiền điện của Tập đoàn Điện lực VN (EVN) mà người dân phải gánh chịu, cõng cả tiền … đám cưới, đám tang? (GDVN, ngày 19/5)
Bất động, chết lâm sàng, đắp chiếu, trùm mền- là hiện trạng của các DNNN- vốn được coi là thành phần kinh tế chủ đạo.
Vì sao, ở các DNNN này quy mô và nghiệp kinh doanh càng to lãi càng… bé? Câu trả lời chắc chỉ các DNNN đó, các nhà kinh bang tế thế tài giỏi ở đó mới trả lời nổi.
Chính vì thế, Ts Võ Trí Hảo, đã thẳng thắn “Cứu DNNN là xén bớt của người nghèo” (VietNamNet, ngày 17/5), khi ông làm phép tính so sánh, đổ vào gần 10.000 tỉ đồng để cứu một dự án thép trùm mền, tức là đã lấy đi của học sinh nghèo ở Tây Bắc, Tây Nam 10.000 ngôi trường tiểu học. Âm vốn hơn 30%, khoản lỗ lũy kế 1,25 tỉ đô la Mỹ của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất có thể làm giàu cho ai đó, nhưng phúc lợi của nhân dân miền Trung không có phần trong đó; cả tin, đã nghèo họ lại nghèo hơn.
Còn Ts Vũ Thành Tự Anh (Giám đốc Nghiên cứu CT Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại TP. HCM) thẳng thắn cảnh báo:  
20 năm trở lại đây, chưa bao giờ bức tranh ngân sách xấu như bây giờ. Chi thường xuyên tăng nhanh bất thường, khiến cho toàn bộ ngân sách thu được hầu như chỉ vừa đủ cho chi thường xuyên. Điều này cũng có nghĩa là để đầu tư phát triển buộc phải đi vay, kết quả tất yếu là thâm hụt ngân sách triền miên, cả nợ chính phủ và nợ công đều đã vượt trần. Tình thế này càng trở nên nghiêm trọng khi ngân sách thâm hụt ở mức rất cao (trung bình 5,3%) trong một thời gian rất dài (từ năm 2000-2015), và khi mức nợ công (nếu tính đúng, tính đủ) đã vượt trần 65% từ lâu rồi. Nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia là điều không thể tránh khỏi (TBKTSG, ngày ¼)
Liệu những sự bất động, chết lâm sàng, đắp chiếu, trùm mền, thua lỗ triền miên của các DNNN có liên quan gì tới hiện trạng điều hành ngân sách như “đi trên dây” (lời Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng) không?
Các DNNN có lỗi. Nhưng lỗi lớn hơn, chính là ở tư duy kinh tế và sự điều hành thời hội nhập, vẫn mang nặng tính chất tư duy kinh tế của một… “thời xa vắng”,nhất bên nặng nhất bên nhẹ, đi ngược quy luật kinh tế thị trường.
Sứ mệnh nặng nề và sự trong sạch, liêm chính
Có thể nói, vai trò của Chính phủ cũ đã kết thúc, và gánh nặng lẫn sứ mệnh phát triển quốc gia đã được chuyển giao cho CP mới, vào ngày 07/4 cách đây ít lâu, khi người đứng đầu CP mới tuyên thệ trước QH, cũng tức là trước quốc dân đồng bào cả nước.
Có lẽ ý thức rõ gánh nặng “di sản” và sự thách thức trên hành trình hội nhập, cùng quốc nạn tham nhũng đang làm tổn thương rất nặng niềm tin người dân, tại cuộc họp báo thường kỳ CP ngày 05/5 mới đây, CP mới khẳng định và cam kết 06 điểm lớn. Nhưng trong đó, đáng chú ý nhất là điểm đầu tiên, xây dựng một CP trong sạch, liêm chính, hiệu quả, nói không với tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, một CP làm gương cho XH về vấn đề nói đi đôi với làm(TBKTSG, ngày 05/5)
Đây cũng chính là phẩm chất một CP mà người dân VN trông đợi từ rất lâu.
Tư duy, 'thời xa vắng', Ấn tượng trong tuần, Kỳ Duyên, nhà báo Kim Dung, Chính phủ mới
Sứ mệnh nặng nề và sự trong sạch, liêm chính. Ảnh: Dân trí

Dù vậy, các giải pháp khoa học, đáng tin cậy không phải quá khó, hay cầu kỳ, đòi hỏi các điều kiện cao xa mà một quốc gia đang phát triển phải mầy mò. Ngược lại, những giải pháp đó đã được rất nhiều quốc gia văn minh, tiên tiến áp dụng. Tựu trung có 03 giải pháp lớn.Chỉ có gần 40 chữ, nhưng chắc chắn, đó là cả một “gánh nặng” ngàn cân, mà muốn tròn vai bổn phận, như cụ Tiên Điền xưa đã mượn điển tích để đúc kết:Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo, CP mới phải có hàng loạt các giải pháp khoa học, đáng tin cậy.
Đó là 1) Một nền quản trị quốc gia công khai, minh bạch. 2) Luật pháp thượng tôn. 3) Đời sống sinh hoạt XH dân chủ
Có khó không với CP mới- về những giải pháp này?
Đó cũng là những tiêu chí lớn cho một quốc gia có khát vọng văn minh vươn tới, tuy hành trình này hẳn không thiếu cam go, nhất là XH hiện nay tồn tại khá phổ biến tệ nạn lợi ích nhóm.
Đó cũng là mục tiêu lớn và lâu dài cho một thể chế văn minh. Đòi hỏi sự vận động của tất cả các bộ, các ngành, các lĩnh vực, sự chủ động của các vị bộ trưởng đứng đầu các bộ, ngành cùng đóng góp, với bổn phận trách nhiệm- hãy đặt lợi ích quốc gia lên trên hết!
Nhưng mặt khác, sự hội nhập hiện đại, sự phát triển kinh tế- xương sống của quốc gia cũng đòi hỏi CP mới phải nhanh chóng vào cuộc, quyết liệt và quyết đoán, sửa chữa khiếm khuyết từ dư duy đến cung cách vận hành, quản lý.
Không thể nào tồn tại mãi cơ chế xin- cho nặng nề ở khối các DNNN, mảnh đất màu mỡ cho lợi ích nhóm cùng “giặc nội xâm” cộng sinh và hoành hành. Điều kiện gì, mô hình quản lý nào phù hợp, là điều các chuyên gia phải vào cuộc và chọn lựa.
Nhưng điều quyết định quan trọng không kém, là tạo môi trường kinh doanh sòng phẳng, và bình đẳng, để các DN nhỏ và vừa có khả năng nắm bắt cơ hội, chuyển động tích cực trở thành động lực của sự phát triển. Là hóa giải … 7000 điều kiện kinh doanh- thực chất là những loại “giấy phép cha, con, cháu”- những vòng kim cô khốn khổ và vô lý, chỉ nhằm để “kiếm ăn” ở các DN vốn phải chịu đựng nhiều phi lý. Mà các DN sợ nhất là những chi phí “gầm bàn”- một cụm từ đáng hổ thẹn, cho thấy… chiều cao nhân cách không ít “công bộc của dân”.
Đã qua rồi thời kỳ tăng trưởng với bất cứ điều kiện gì. Vụ việc cá chết ở Vũng Áng là bài học trả giá đau đớn. Nước Việt cần biết nói không với những dự án “lợi bất cập hại”, biến nước Việt thành nơi chứa xả đủ thứ rác rưởi công nghệ. Vì thế người dân mong chờ CP mới kiểm soát chặt chẽ các dự án loại này, mong chờ CP giám sát và kiểm tra các dự án ODA, một loại dự án vô tình tạo cho tâm lý các tỉnh là thứ “tiền chùa quốc tế” thả sức tiêu xài.
Khi mà từ tháng 07 năm 2017 này, VN sẽ không còn được vay ODA theo điều kiện nguồn vốn hỗ trợ phát triển, và sẽ chuyển sang sử dụng nguồn vay ưu đãi, theo điều kiện thị trường, thực hiện điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất từ 2-3,5%. Các dự án ODA đã vay sẽ phải rút thời hạn trả nợ 35-40 năm còn 15-20 năm, đồng thời tăng lãi suất lên 2-3,5% thay vì trước đây là dưới 1%. (TTCT, ngày 02/4)
Đó là tiến hành quyết liệt và hiệu quả cải cách hành chính, làm tinh gọn bộ máy hành chính, công sở rất cồng kềnh- di lụy nhiều năm tích cóp của sự “tách nhập- nhập tách” từ vĩ mô đến vi mô, của những hiện trạng tiêu cực “người tìm ghế”, không phải “ghế tìm người”, của tệ nạn con ông cháu cha, một người làm quan cả họ được nhờ. Bởi sự phát triển của nền kinh tế, chắc chắn không thểxuôi chèo mát mái, nếu như không có CCHC song hành. Bởi cho dù, có thay đổi tư duy xin- cho ở các DNNN, nhưng nếu không gắn với CCHC, thì rút cục, vẫn tồn tại các dạng, các hình thái lợi ích nhóm- làm …biến thái lợi ích chung của XH.
Sự trong sạch, liêm chính của một Chính phủ, là điều người dân mong chờ từ rất lâu nay. Nhưng còn mong chờ hơn, ấy là lời nói gắn liền với quyết liệt hành động?
Liệu đó có phải là đòi hỏi quá cao?
Kỳ Duyên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét