ĐIỂM BÁO MẠNG
- Quốc tế: Nga “về hùa” Trung Quốc, đòi không quốc tế hóa Biển Đông (VietTimes 30-4-16) -Trung Quốc từ chối tàu sân bay Mỹ (VNN 1/5/2016)-
- Trong nước: Những ngày tháng Tư (NĐT 30-4-16) -- Bài Nguyễn Thị Hậu -- Sài Gòn thay đổi đời tôi (NĐT 30-4-16) -- Bài Nguyễn Quang Lập-- KTS Nguyễn Hữu Thái kể lại giây phút lịch sử tại Dinh Độc Lập (PetroTimes 30-4-16)-TS Nguyễn Sĩ Dũng: Về hưu vẫn hành xử như thế (ĐĐK 30-4-16)-TP.HCM không thể dàn hàng ngang như các tỉnh, thành khác (TVN 1/5/2016)-Đại tướng Lê Đức Anh và cú chết hụt không thể nào quên (VNN 30/4/2016)-Rộ nghi vấn ‘tàu lạ’ trong vụ cá chết hàng loạt (BVB 1/5/2016)-
- Kinh tế: GDP bẩn: Tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá (RFA 30-4-16)-Bộ trưởng Trương Minh Tuấn: 'Không tẩy chay hải sản có nguồn gốc rõ ràng' (VnEx 30-4-16) -Chiếc ghế ngồi đặc biệt của Thủ tướng khi đối thoại với công nhân (VNN 30-4-16) -- WTF? Đối thoại với Thủ tướng: Chỉ 42% làm ăn có lãi là điều không bình thường (infonet 30-4-16)-Bí thư Đinh La Thăng: Hạn chế tình trạng cán bộ tiếp xúc với doanh nghiệp (TN 29-4-16)-Sai lầm sử dụng điều hòa khiến tiền điện tăng vùn vụt (VNN 1/5/2016)-Chung cư cao cấp: Mất giá 100 triệu/năm, bán chẳng ai mua (VNN 1/5/2016)-
- Giáo dục: GS Trần Văn Nhung: 'Nói Việt Nam lạm phát giáo sư là vô lý' (NLĐ/VTC 30-4-16) - Thủ tướng: “Không thể để con công nhân thất học” (VnE 30-4-16)- Nghịch lý tiến sĩ đúng quy trình (GD 30-4-16)-Đào tạo Tiến sỹ ở nước ta: Tấm áo không làm nên thầy tu (CAND 29-4-16)-GS. Phạm Tất Dong: Nhiều lỗ hổng trong đào tạo tiến sỹ (TP 27-4-16)-Tiến sĩ thể thao - luận án cất vào hộc tủ! (TT 27-4-16)-Bộ Giáo dục thừa nhận chất lượng đào tạo tiến sĩ ở ta chưa được như các nước (GD 27-4-16) -Quan chức đua nhau đi học tiến sĩ (TP 26-4-16)
- Phản biện: Đừng để hiểm họa chết cá biển miền Trung biến thành sóng thần của nhân dân lật nhào chế độ! (viet-studies 30-4-16)-Nguyễn Trung-Hãy chung sức cứu lấy đất nước khỏi thảm họa cá chết miền Trung (BVN 1/5/2016)-Nguyễn Thế Hùng-Tìm ở đâu? Tìm trong đầu ấy! (Mênh mông thế sự 35)(BVN 1/5/2016)-Tương Lai-TỪ HIỂM HỌA ĐẾN VỰC THẲM (BVN 1/5/2016)-Tô Văn Trường/NLĐ-Bảo vệ môi trường biển là bảo vệ chủ quyền (BVN 1/5/2016)-Đoàn Nhã An-CÁM ƠN ÔNG CHU XUÂN PHÀM (BVN 1/5/2016)-Diệu Lan-GIAI CẤP TƯ SẢN, CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TƯ TƯỞNG CỦA ÔNG VŨ NGỌC HOÀNG (BVB 1/5/2016)-Nguyễn Huy Canh-UNG NHỌT BỊ VỠ (BVB 30/4/2016)-Nguyễn Đình Cống-
- Thư giãn: Rắn độc không chiến cướp mồi của 'chúa tể bầu trời' (VNN 1/5/2016)-11 bức ảnh bằng tỷ lời nói.(BVB 1/5/2016)-
GS PHẠM TẤT DONG: NHIỀU LỖ HỔNG TRONG ĐÀO TẠO TIẾN SĨ
PV /TP 27-4-2016
GS Phạm Tất Dong.
TP - Bộ GD&ĐT cho biết việc quản lý đào tạo tiến sĩ hiện nay dựa vào Thông tư 57 và Thông tư 32 mới được ban hành. Tuy nhiên, GS.TS khoa học Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội khuyến học Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương lại cho rằng quy chế đó còn nhiều lỗ hổng.
Ông Dong cho biết, sở dĩ đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam thời gian qua bị dư luận cho rằng đang “lạm phát” là do những nguyên nhân: Không có kế hoạch dài hạn về đào tạo. Ví dụ, chúng ta không thống kê từ nay đến năm 2020 mỗi ngành cần bao nhiêu tiến sĩ, bao nhiêu thạc sĩ. Cho nên đào tạo có thể thừa, có thể thiếu.
Thứ hai, nếu đào tạo đều “chuẩn” thì có lẽ không ai kêu. Nhưng vì đào tạo dở nhiều nên dư luận bức xúc. Nhiều tiến sĩ nhưng trình độ không đúng tiến sĩ, không đúng tầm của một tiến sĩ nên dư luận kêu. Có nghĩa là đào tạo nhưng không dùng được.
Vậy tại sao không đúng tầm? Thứ nhất tại học viên. Tốt nghiệp ĐH, trình độ kém, không có việc làm, làm luôn thạc sĩ, làm thạc sĩ xong lại làm tiến sĩ. Một số có việc làm nhưng muốn lên cương vị nào đó thì làm tiến sĩ. Như vậy, nó trở thành một thị trường lớn, và với các cơ sở đào tạo, còn chỉ tiêu thì cứ tuyển.
Thực ra có nhiều đề cương không đạt cũng đã bị loại từ đầu. Nhưng trong số này vẫn có những đề cương lọt, do hội đồng dễ dãi hoặc không đủ năng lực để xét. Thứ hai là ông thầy kém. Đội ngũ này theo tôi không phải hiếm.
Do đó, xã hội bức xúc là đúng. Vì người ta kỳ vọng có nhiều tiến sĩ thì phải xoay chuyển được cái gì đó trong xã hội. Còn thực tế đã không xoay chuyển được nhưng nhiều khi không có tác dụng gì.
Ông nói lỗi ở ông thầy nhiều, nhưng liệu có phải công cụ quản lý của Bộ có lỗ hổng gì không?
“Bộ GD&ĐT quy định cụ thể 1 GS được hướng dẫn bằng này, nhưng Bộ không kiểm tra được thực tế họ hướng dẫn bao nhiêu. Bộ nắm con số tổng chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ nhưng những ai là người đào tạo ra số này thì Bộ không thể nắm được. Đây là một lỗ hổng”.GS Phạm Tất Dong
Chắc chắn là có. Vì Bộ GD&ĐT không nắm được hoạt động của các viện, các trường. Bộ quy định cụ thể 1 GS được hướng dẫn bằng này, nhưng Bộ không kiểm tra được thực tế họ hướng dẫn bao nhiêu! Bộ nắm con số tổng chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ nhưng những ai là người đào tạo ra số này thì Bộ không thể nắm được. Đây là một lỗ hổng. Chính vì vậy, có những ông trong vòng mấy năm đào tạo, hướng dẫn mấy chục thạc sĩ, tiến sĩ.
Mặt khác, lỗ hổng đáng sợ nhất là các hội đồng chấm luận án tiến sỹ Bộ cũng không nắm chắc. Vì nhiều nơi đào tạo nhưng không đủ người đúng chuyên môn để chấm luận án nên các thành viên không “thuần chủng”.
Tức là người chấm có thể khác ngành với luận án được bảo vệ, có khi trong một hội đồng có tới 3, 4 chuyên môn khác nhau. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố liên quan đến đảm bảo chất lượng một luận án. Tôi cho rằng ngay chế độ cho người hướng dẫn, người chấm còn quá rẻ mạt nên người ta cũng chỉ làm cho xong.
Quy định thẩm định lại 10% luận án, có đủ sức để đảm bảo được chất lượng không?
Trong ngành của tôi, tôi chưa thấy luận án nào bị trả lại. Nhưng tôi nghĩ, đã thẩm định thì thẩm định hết, sao lại 10%. Nếu vậy sẽ có “lọt lưới”. Vì trong số 90% còn lại giả sử có khoảng 20% chất lượng tồi thì sao. Như thế quá hình thức. Ở nước ngoài, tôi nghĩ không làm thế. Tất cả phải được thẩm định. Tôi nghĩ những quy định này chỉ mang tính định lượng mà không đi vào được nội dung của vấn đề.
Bây giờ làm luận án tiến sĩ “tốn” lắm. Tốn tiền vào những thứ ngoài luận văn. Tôi có hỏi một học trò của mình, cô ấy cho biết, ra hội đồng cơ sở thôi cũng phải chuẩn bị 50 triệu đồng.
Tôi không biết thực hư thế nào, nhưng thực tế, tôi thấy tốn ở chỗ này: nhà nước lẽ ra phải trả tiền cho những người làm phản biện. Nhưng nhà nước trả nhỏ giọt, không đáng bao nhiêu. Nên nghiên cứu sinh rất sợ điều này. Bởi vậy khi mang luận văn đến người chấm phải nhét phong bì vào. Thầy mà trả lại, có khi nghiên cứu sinh lại hoảng, lại nghĩ chắc đưa ít quá, phải đưa nhiều hơn.
Trong quy định của Bộ GD&ĐT cũng có nêu quy định tiến sĩ sau khi bảo vệ được 3 năm sẽ được hướng dẫn nghiên cứu sinh. Ông nghĩ quy định này có thực sự ổn?
Quy định thế này thì chết. Tôi không đồng ý với kiểu đào tạo “cơm chấm cơm” này. Nói thật, 20 năm làm việc tại Viện khoa học giáo dục, tôi thấy thường thường những ông tiến sĩ 2 - 3 năm đầu còn chưa viết được gì ra hồn.
Viện nhận những người giỏi tốt nghiệp ĐH thì chỉ coi đó là hạt giống và viện cũng tạm thời “quên” đi khoảng 7 - 8 năm để họ trưởng thành. Còn nhận tiến sĩ thì 3-4 năm đầu họ chưa làm được “trò trống” gì cả. Tôi nghĩ không đơn giản như Bộ GD&ĐT nghĩ.
Đề xuất của ông là gì?
Tôi nghĩ tất cả các cơ sở đào tạo tiến sĩ nên tính lại và tổng điều tra số lượng mình đã đào tạo chất lượng đến đâu. Cái này rất cần cho các cơ sở đào tạo. Thứ hai là đánh giá lại năng lực đào tạo của các bộ môn. Thứ ba là không chạy theo số lượng. Bộ GD&ĐT cũng cần tính toán lại quy chế của mình.
Cảm ơn ông.
ĐÀO TẠO TIẾN SĨ Ở NƯỚC TA: TẤM ÁO KHÔNG LÀM NÊN THÀY TU
NGUYỄN CÔNG THẢO/ TP 29-4-2016
Nên có những quy định mới trong đào tạo Tiến sĩ - Phó Giáo sư, Giáo sư.
BỘ GIÁO DỤC THỪA NHẬN CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TIẾN SĨ Ở TA CHƯA ĐƯỢC NHƯ CÁC NƯỚC
XUÂN TRUNG/ GDVN 27-4-2016
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học- Bộ GD&ĐT. Ảnh Phụ nữ
(GDVN) - “Đánh giá chất lượng không thể căn cứ vào số luận án được tổ chức bảo vệ trong một thời gian mà phải trên cơ sở các điều kiện đảm bảo chất lượng…”
Năm nay, "Lò sản xuất tiến sĩ" muốn đào tạo 1.600 thạc sĩGiáo sư Nguyễn Minh Thuyết và 5 thách thức cho Bộ trưởng NhạCách “sản xuất” nhiều tiến sĩ trong một thời gian ngắn?Sự thật bất ngờ bên trong Học viện "mỗi ngày 1 tiến sĩ"
LTS: Dư luận đang quan tâm tới chuyện đào tạo tiến sĩ tại Học viện Khoa học Xã hội, nhân câu chuyện này, Phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu tới bạn đọc.
Đánh giá về sự việc như báo chí phản ánh vừa qua, bà Phụng cho biết, thực ra, quản lý đào tạo đối với tất cả các cơ sở đào tạo tiến sĩ đều phải theo quy chế chung.
Bên cạnh đánh giá chuyên môn, có thể còn có “đánh giá của xã hội” theo một khía cạnh khác. Tuy nhiên, không phải cứ đề tài nào bị xã hội phản đối thì không nghiên cứu hoặc không cho bảo vệ luận án nữa.
Theo bà Phụng, Nếu đề tài cần thiết thì vẫn phải nghiên cứu, nhưng ngược lại phải làm cho xã hội hiểu nó cần thiết như thế nào. Vì vậy, khi cơ sở đào tạo đưa thông tin lên mạng phải phân tích kĩ sự cần thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu đề tài.
Nếu viết về lý do nghiên cứu đề tài có sức thuyết phục hơn và những người quan tâm đọc nó một cách nghiêm túc thì có thể sẽ thay đổi cảm nhận xã hội.
Trước nhiều ý kiến băn khoăn về chất lượng và tính ứng dụng của các đề tài được đặt ở đâu trong các đề tài kiểu như của Học viện Khoa học Xã hội, bà Nguyễn Thị kim Phụng cho rằng, quy chế quy định luận án tiến sĩ phải có đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu.
Hoặc giải pháp mới có giá trị trong việc phát triển, gia tăng tri thức khoa học của lĩnh vực nghiên cứu, giải quyết sáng tạo các vấn đề của ngành khoa học hay thực tiễn kinh tế - xã hội.
Trong quy chế có quy định về tiêu chí của luận án và trong bản nhận xét của những người đánh giá luận án cũng phải đề cập đến các vấn đề này.
Bà Phụng cũng cho biết thêm, sự đánh giá đối với đề tài luận án có thể chia thành đánh giá xã hội và đánh giá chuyên môn.
“Chúng ta nên tiếp nhận những đánh giá đó ở những góc độ khác nhau. Yêu cầu của Quy chế đối với luận án là yêu cầu chung cho hàng trăm ngành nên mang tính định tính, khó có thể có định lượng chung cho tất cả các ngành nên cần phải có chuyên môn của từng ngành đánh giá.
Bộ GD&ĐT là cơ quan quản lý Nhà nước về GD&ĐT, quản lý chất lượng thông qua việc quy định các điều kiện (đăng ký mở ngành; số lượng và trình độ giảng viên…), tiêu chí của luận án, quy trình tổ chức thực hiện để đảm bảo chất lượng trong suốt quá trình đào tạo tiến sĩ.
Một trong các quy định đó là cơ sở đào tạo phải công khai thông tin về việc bảo vệ luận án và toàn văn luận án chuẩn bị bảo vệ lên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo là để các nhà chuyên môn và mọi người có thể tham khảo, giám sát, phát hiện sai sót… góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo” bà Phụng cho biết.
Với số lượng đề tài được bảo vệ thành công ở Học viện Khoa học Xã hội trong thời gian qua là rất lớn, dư luận đặt ra liệu có quy định gì về khống chế để đảm bảo chất lượng theo đúng năng lực của học viện?
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng thông tin rằng, Học viện Khoa học Xã hội được thành lập năm 2010 trên cơ sở tổ chức lại 17 viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) trước đó đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép đào tạo trình độ tiến sĩ.
Chỉ tiêu của học viện hiện nay là tổng chỉ tiêu của 17 viện nghiên cứu, nếu tính bình quân cho 17 cơ sở đào tạo thì số chỉ tiêu của mỗi cơ sở đào tạo không phải là quá lớn.
Theo quy định, 1 tiến sĩ trong cùng một thời gian được hướng dẫn không quá 3 nghiên cứu sinh, 1 phó giáo sư thì không quá 4 và giáo sư không quá 5. Nếu tính trên số giảng viên hiện có thì Học viện cũng không vượt chỉ tiêu.
“Đánh giá chất lượng không thể căn cứ vào số luận án được tổ chức bảo vệ trong một thời gian mà phải trên cơ sở các điều kiện đảm bảo chất lượng (giảng viên, cơ sở vật chất…) và giá trị khoa học, tính hữu ích của đề tài luận án.
Đào tạo một tiến sĩ trung bình phải 3-4 năm tính từ lúc tuyển sinh đến khi bảo vệ luận án; đó là chưa kể trong quá trình đào tạo còn có người dừng, người chậm. Và nếu như cứ sử dụng 17 cơ sở đào tạo như trước đây để đào tạo số tiến sĩ đó thì chắc chắn cảm nhận xã hội sẽ không như thế” lãnh đạo Vụ Đại học cho biết.
Như thông tin bà Phụng cho biết thì Học viện Khoa học Xã hội không sai, nhưng tại sao vẫn tạo cho dư luận bất an về chất lượng đào tạo ở Học viện này?
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng thẳng thắn, có thể do chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ ở Việt Nam còn chưa được như ở các nước phát triển.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng thẳng thắn, có thể do chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ ở Việt Nam còn chưa được như ở các nước phát triển.
Việc nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, đặc biệt là đào tạo trình độ tiến sĩ vừa là vấn đề vừa cần thiết, vừa là vấn đề khó khăn trong điều kiện khả năng đầu tư cho đào tạo và mức học phí của nghiên cứu sinh đều còn ở mức hạn chế…
Tuy nhiên, bà Phụng cho rằng, trong điều kiện của mình, cơ quan quản lý và các cơ sở đạo tạo sẽ phải quyết tâm thực hiện nâng cao hơn nữa chất lượng trong thời gian tới để ngày càng đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.
Căn cứ nào để đánh giá một đề tài tiến sĩ tốt?
Theo quy định hiện hành, với mong muốn các nhà chuyên môn sẽ đánh giá sát thực, đúng mức từng luận án, quy trình học tập, nghiên cứu, bảo vệ luận án được quy định gồm rất nhiều bước:
Theo quy định hiện hành, với mong muốn các nhà chuyên môn sẽ đánh giá sát thực, đúng mức từng luận án, quy trình học tập, nghiên cứu, bảo vệ luận án được quy định gồm rất nhiều bước:
Đầu tiên cơ sở đào tạo phải đưa ra hướng cần thiết nghiên cứu hoặc người học quan tâm tới đề tài nào thì có thể đăng ký và được cơ sở đào tạo chấp nhận.
Như vậy, phải xác định đề tài này có cần thiết nghiên cứu hay không. Khi đề tài được chấp nhận thì nghiên cứu sinh cần phải lập đề cương nghiên cứu, đề cương này phải được thẩm định về chuyên môn.
Sau đó nghiên cứu từng chủ đề nhỏ (các chuyên đề tiến sĩ) cũng phải được duyệt và chấm thẩm định. Những điểm mới của luận án phải được công bố ở các tạp chí khoa học dưới dạng các bài báo khoa học và nó cũng phải được biên tập, duyệt đăng.
Tiếp theo, luận án phải được đánh giá ở cấp bộ môn (đơn vị chuyên môn). Cấp này có thể tổ chức đánh giá luận án nhiều lần nếu vẫn còn những nội dung cần chỉnh sửa, bổ sung.
Khi nào được đánh giá đủ điều kiện thì cơ sở đào tạo cho phép đưa luận án ra cấp trường bảo vệ. Ra cấp trường phải có hai người phản biện kín và khi đồng ý mới được thành lập hội đồng cấp trường...
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng.
NGHỊCH LÝ TIẾN SĨ ĐÚNG QUY TRÌNH
KHƯƠNG DUY/ GDVN 30-4-2016
Nghịch lý tiến sĩ “đúng quy trình” ở Việt Nam (Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn)
(GDVN) - Một thiếu sót rất lớn khiến quy trình của Việt Nam bị vô hiệu là ngoại ngữ. Thành thật mà nói ít có đội ngũ học thuật của quốc gia nào kém ngoại ngữ như ở ta.
Viện "lò tiến sĩ" muốn có quy hoạch toàn quốc về đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ"Nhiều tiến sĩ dở nên dân bức xúc là đúng"Sự thật bất ngờ bên trong Học viện "mỗi ngày 1 tiến sĩ"
LTS: Liên quan đến thông tin đào tạo tiến sĩ tại Học viện Khoa học Xã hội thời gian qua, hôm nay tác giả Khương Duy - nghiên cứu sinh ngành Luật tại Đại học Bocconi, Milan, Italia mạnh dạn nêu quan điểm của mình về vấn đề này, tác giả chỉ rõ lý do vì sao khâu đào tạo là một quy trình khắt khe nhưng lại cho ra đời những sản phẩm kém chất lượng.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Những ngày qua, một trong những đề tài nóng nhất trên mặt báo là vấn đề đào tạo tiến sĩ. Thực chất, dư luận vốn “dị ứng” với việc Việt Nam có số lượng tiến sĩ đông đảo song rất nhiều tiến sĩ không làm trong các cơ sở đào tạo và số lượng công bố quốc tế rất thấp.
Cho nên, khi một số hình ảnh ghi lại các buổi bảo vệ luận án tạiViện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Namvới các tên đề tài lạ lùng được đưa lên mạng xã hội, dư luận như bị đổ thêm dầu vào lửa.
Đã có rất nhiều ý kiến đóng góp của các nghiên cứu sinh đã và đang trải qua quá trình đào tạo cùng các giáo sư đã và đang hướng dẫn nghiên cứu sinh ở Việt Nam.
Đặc biệt, còn có luồng ý kiến từ các nhà khoa bảng nổi tiếng được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Tất cả đã phần nào chỉ ra rất nhiều vấn đề bất cập trong đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam.
Bài viết này sẽ tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh khác, đó là nghịch lý giữa quy trình đào tạo và chất lượng:
Nếu nói về quy trình đào tạo, dù có những điểm bất hợp lý (chẳng hạn, tên đề tài được cố định từ đầu, thậm chí đề cương cũng phải bảo vệ rất sớm, khi nghiên cứu sinh chưa thật sự hiểu rõ vấn đề), song phải khẳng định rằng về mặt hình thức, quy trình đào tạo tiến sỹ của Việt Nam rất khắt khe. Điều này đi ngược lại suy nghĩ của nhiều người nhưng đó là sự thật.
Chưa kể, trong quá trình đào tạo dài từ 3-4 năm thậm chí lâu hơn này, nghiên cứu sinh sẽ phải tham dự các sinh hoạt chuyên môn phục vụ nghiên cứu khác.Ngay từ khi thi tuyển, nghiên cứu sinh đã phải xác định tên đề tài và trình bày sơ bộ hướng nghiên cứu trước hội đồngtuyển sinh.
Sau khi đỗ, nghiên cứu sinh có thể phải học thêm một số môn chuyên sâu. Sau một thời gian, nghiên cứu sinh phải bảo vệ đề cương chi tiết.
Thông thường, trước khi viết luận án, nghiên cứu sinh phải viết ba chuyên đề và đưa ra lấy ý kiến trước một bộ môn chuyên môn, độc lập với hội đồng đánh giá luận án sau này.
Sau khi các chuyên đề đạt yêu cầu, nghiên cứu sinh sẽ bắt tay vào viết luận án.
Luận án được bảo vệ kín trước một hội đồng khoa học. Đây là vòng quan trọng nhất, nghiên cứu sinh phải chỉnh sửa theo góp ý của hội đồng cho đến khi đủ điều kiện bảo vệ chính thức.
Trải qua các bước này, luận án mới được đưa ra bảo vệ công khai trước một hội đồng gồm 5-7 giáo sư; chưa kể các cử tọa tham dự cũng có quyền đặt câu hỏi.Trước khi bảo vệ chính thức, nghiên cứu sinh có thể phải gửi tóm tắt luận án cho các nhà khoa học cùng ngành để xin nhận xét.
Sau khi bảo vệ công khai, nếu không có khiếu nại, tranh chấp gì về luận án, nghiên cứu sinh sẽ được công nhận học vị.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Những ngày qua, một trong những đề tài nóng nhất trên mặt báo là vấn đề đào tạo tiến sĩ. Thực chất, dư luận vốn “dị ứng” với việc Việt Nam có số lượng tiến sĩ đông đảo song rất nhiều tiến sĩ không làm trong các cơ sở đào tạo và số lượng công bố quốc tế rất thấp.
Cho nên, khi một số hình ảnh ghi lại các buổi bảo vệ luận án tạiViện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Namvới các tên đề tài lạ lùng được đưa lên mạng xã hội, dư luận như bị đổ thêm dầu vào lửa.
Đã có rất nhiều ý kiến đóng góp của các nghiên cứu sinh đã và đang trải qua quá trình đào tạo cùng các giáo sư đã và đang hướng dẫn nghiên cứu sinh ở Việt Nam.
Đặc biệt, còn có luồng ý kiến từ các nhà khoa bảng nổi tiếng được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Tất cả đã phần nào chỉ ra rất nhiều vấn đề bất cập trong đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam.
Bài viết này sẽ tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh khác, đó là nghịch lý giữa quy trình đào tạo và chất lượng:
Nếu nói về quy trình đào tạo, dù có những điểm bất hợp lý (chẳng hạn, tên đề tài được cố định từ đầu, thậm chí đề cương cũng phải bảo vệ rất sớm, khi nghiên cứu sinh chưa thật sự hiểu rõ vấn đề), song phải khẳng định rằng về mặt hình thức, quy trình đào tạo tiến sỹ của Việt Nam rất khắt khe. Điều này đi ngược lại suy nghĩ của nhiều người nhưng đó là sự thật.
Chưa kể, trong quá trình đào tạo dài từ 3-4 năm thậm chí lâu hơn này, nghiên cứu sinh sẽ phải tham dự các sinh hoạt chuyên môn phục vụ nghiên cứu khác.Ngay từ khi thi tuyển, nghiên cứu sinh đã phải xác định tên đề tài và trình bày sơ bộ hướng nghiên cứu trước hội đồngtuyển sinh.
Sau khi đỗ, nghiên cứu sinh có thể phải học thêm một số môn chuyên sâu. Sau một thời gian, nghiên cứu sinh phải bảo vệ đề cương chi tiết.
Thông thường, trước khi viết luận án, nghiên cứu sinh phải viết ba chuyên đề và đưa ra lấy ý kiến trước một bộ môn chuyên môn, độc lập với hội đồng đánh giá luận án sau này.
Sau khi các chuyên đề đạt yêu cầu, nghiên cứu sinh sẽ bắt tay vào viết luận án.
Luận án được bảo vệ kín trước một hội đồng khoa học. Đây là vòng quan trọng nhất, nghiên cứu sinh phải chỉnh sửa theo góp ý của hội đồng cho đến khi đủ điều kiện bảo vệ chính thức.
Trải qua các bước này, luận án mới được đưa ra bảo vệ công khai trước một hội đồng gồm 5-7 giáo sư; chưa kể các cử tọa tham dự cũng có quyền đặt câu hỏi.Trước khi bảo vệ chính thức, nghiên cứu sinh có thể phải gửi tóm tắt luận án cho các nhà khoa học cùng ngành để xin nhận xét.
Sau khi bảo vệ công khai, nếu không có khiếu nại, tranh chấp gì về luận án, nghiên cứu sinh sẽ được công nhận học vị.
Trong khi đó, ở nhiều nước tiên tiến, quy trình không có nhiều ban bệ, hội đồng đến vậy. Về cơ bản, giáo sư hướng dẫn là người quyết định gần như toàn bộ việc nghiên cứu sinh có đạt học vị không.
Các hội đồng chấm luận án thường chỉ gồm 3-5 giáo sư, có thể gồm cả giáo sư hướng dẫn, điều trái ngược với Việt Nam.
Tại Úc, việc bảo vệ trước hội đồng gần như không còn được tổ chức, luận án được chấm và nhận xét được gửi lại cho cơ sở đào tạo.
Một số cơ sở đào tạo tuyển nghiên cứu sinh tham gia một dự án nghiên cứu của giáo sư và sẽ được cấp bằng. Xu hướng thay việc viết luận án bằng 2-3 bài báo quốc tế cũng đang được áp dụng. Nói không quá, nếu so sánh về hình thức thì quy trình đào tạo tiến sỹ của Việt Nam thuộc hàng khắt khe nhất nhì thế giới.
Công bằng mà nói, không phải tất cả tiến sĩ đào tạo trong nước đều kém và ngược lại. Song, mặt bằng chung chất lượng đào tạo trong nước thua xa đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là ở lĩnh vực khoa học xã hội. Vậy vì sao một quy trình khắt khe như thế lại cho ra đời những sản phẩm kém chất lượng?
Chỉ có thể lý giải rằng quy trình ấy chính là một con dao hai lưỡi. Một quy trình có nhiều hội đồng, nhiều vòng bảo vệ dường như không còn là vấn đề thủ tục nữa mà đã trở thành một tiêu chuẩn đo lường chất lượng.
Việc vượt qua quy trình đó trở thành bằng chứng của việc đạt chất lượng. Song vì chỉ có quy trình khắt khe mà thiếu nhiều yếu tố khác nên sản phẩm cuối cùng chỉ là các tiến sỹ “đúng quy trình”.
Các yếu tố còn thiếu đó, đáng tiếc lại là linh hồn của quá trình đào tạo tiến sĩ. Đơn cử như việc nghiên cứu sinh ở Việt Nam được đào tạo theo hình thức vừa học vừa làm trong khi tại đa số các nước tiên tiến, nghiên cứu sinh phải làm việc toàn thời gian.
Một số cơ sở đào tạo buộc nghiên cứu sinh phải có mặt tại phòng thí nghiệm và văn phòng theo giờ hành chính để làm việc.
Ngoài ra, tuy quy trình của Việt Nam có nhiều ban bệ, hội đồng, song nhiều giáo sư đã thừa nhận rằng không phải giáo sư hướng dẫn và thành viên hội đồng nào cũng có chuyên môn về đề tài.
Hơn nữa, hội đồng thường cả nể, duy tình, có thể góp ý gay gắt nhưng rồi vẫn qua. Do đó, quy trình tuy trùng trùng điệp điệp nhưng lại không đảm bảo chất lượng. Trái lại, ở các nước tiên tiến, người ta không có quy trình khắt khe nhưng yêu cầu trong quá trình làm nghiên cứu sinh rất cao và việc đánh giá luận án rất công tâm.
Có thể nói, khi không thể dựa dẫm vào quy trình, người ta chỉ có thể dựa vào năng lực và thành quả.
Đơn cử, việc một số cơ sở đào tạo không yêu cầu viết luận án mà chỉ đòi hỏi bài báo quốc tế thoạt nghe thì dễ dàng song thực tế đây là nhiệm vụ cực kỳ khó, thậm chí còn khó hơn cả luận án.
Để có thể đăng bài trên tạp chí uy tín, người hướng dẫn và nghiên cứu sinh phải nỗ lực và sáng tạo thật sự bởi lẽ các bài viết này có mức độ công khai hơn nhiều so với luận án.
Một thiếu sót rất lớn khiến quy trình của Việt Nam bị vô hiệu là ngoại ngữ. Thành thật mà nói ít có đội ngũ học thuật của quốc gia nào kém ngoại ngữ như Việt Nam.
Các yếu tố còn thiếu đó, đáng tiếc lại là linh hồn của quá trình đào tạo tiến sĩ. Đơn cử như việc nghiên cứu sinh ở Việt Nam được đào tạo theo hình thức vừa học vừa làm trong khi tại đa số các nước tiên tiến, nghiên cứu sinh phải làm việc toàn thời gian.
Một số cơ sở đào tạo buộc nghiên cứu sinh phải có mặt tại phòng thí nghiệm và văn phòng theo giờ hành chính để làm việc.
Ngoài ra, tuy quy trình của Việt Nam có nhiều ban bệ, hội đồng, song nhiều giáo sư đã thừa nhận rằng không phải giáo sư hướng dẫn và thành viên hội đồng nào cũng có chuyên môn về đề tài.
Hơn nữa, hội đồng thường cả nể, duy tình, có thể góp ý gay gắt nhưng rồi vẫn qua. Do đó, quy trình tuy trùng trùng điệp điệp nhưng lại không đảm bảo chất lượng. Trái lại, ở các nước tiên tiến, người ta không có quy trình khắt khe nhưng yêu cầu trong quá trình làm nghiên cứu sinh rất cao và việc đánh giá luận án rất công tâm.
Có thể nói, khi không thể dựa dẫm vào quy trình, người ta chỉ có thể dựa vào năng lực và thành quả.
Đơn cử, việc một số cơ sở đào tạo không yêu cầu viết luận án mà chỉ đòi hỏi bài báo quốc tế thoạt nghe thì dễ dàng song thực tế đây là nhiệm vụ cực kỳ khó, thậm chí còn khó hơn cả luận án.
Để có thể đăng bài trên tạp chí uy tín, người hướng dẫn và nghiên cứu sinh phải nỗ lực và sáng tạo thật sự bởi lẽ các bài viết này có mức độ công khai hơn nhiều so với luận án.
Một thiếu sót rất lớn khiến quy trình của Việt Nam bị vô hiệu là ngoại ngữ. Thành thật mà nói ít có đội ngũ học thuật của quốc gia nào kém ngoại ngữ như Việt Nam.
Trước kia các giáo sư của chúng ta thông thạo tiếng Pháp và sau này là tiếng Nga. Nhưng sự chuyển đổi sang tiếng Anh khiến chúng ta bị lỡ một nhịp dài bởi nhiều giáo sư, đầu ngành không sử dụng được ngôn ngữ quốc tế này.
Làm sao để một giáo sư không biết tiếng Anh hướng dẫn và đánh giá các luận án về kinh tế, thương mại trong một bối cảnh toàn cầu hóa?
Làm sao để một giáo sư không biết tiếng Anh hướng dẫn và đánh giá các luận án về kinh tế, thương mại trong một bối cảnh toàn cầu hóa?
Hay đáng ngại hơn là câu chuyện mới đây về một giáo sư chỉ có bằng C tiếng Anh nhưng lại hướng dẫn nghiên cứu sinh về ngôn ngữ học đối chiếu, và đề tài bàn về cách dịch thuật câu bị động sang tiếng Việt.
Khoa học tự nhiên của Việt Nam gần với thế giới hơn so với khoa học xã hội bởi lẽ ngôn ngữ không phải vấn đề quá lớn. Rào cản ngôn ngữ khiến khoa học xã hội của Việt Nam rất lạc hậu cả về nội dung và phương pháp.
Ở Việt Nam nhiều khi hội đồng và nghiên cứu sinh tưởng rằng đề tài rất mới mẻ nhưng thật ra không có gì mới. Cảm giác chung của các nghiên cứu sinh ở lĩnh vực khoa học xã hội khi ra môi trường quốc tế là nỗi hoang mang vì lĩnh vực nào cũng đã có người khai phá rồi, khoảng trống nghiên cứu rất ít.
Việc cập nhật tình hình nghiên cứu thật sự quá sức ngay cả với nhiều giáo sư hướng dẫn, nhất là khi ngoại ngữ hạn chế. Yếu ngoại ngữ khiến luận án không đạt chất lượng, nghiên cứu sinh không có công bố quốc tế khi làm nghiên cứu sinh và sau này khi đã thành tiến sỹ, việc tiếp tục phát triển nghiên cứu cũng rất hạn chế. Việc cho rằng Việt Nam có chuẩn mực riêng chỉ là sự bao biện.
Tóm lại, trước đây khi truyền thông chưa phát triển, việc đào tạo ở trình độ bậc cao nhất giống như một ngôi đền thiêng mà người thường chỉ dám đứng từ xa nhìn vào và ngưỡng mộ.
Khoa học tự nhiên của Việt Nam gần với thế giới hơn so với khoa học xã hội bởi lẽ ngôn ngữ không phải vấn đề quá lớn. Rào cản ngôn ngữ khiến khoa học xã hội của Việt Nam rất lạc hậu cả về nội dung và phương pháp.
Ở Việt Nam nhiều khi hội đồng và nghiên cứu sinh tưởng rằng đề tài rất mới mẻ nhưng thật ra không có gì mới. Cảm giác chung của các nghiên cứu sinh ở lĩnh vực khoa học xã hội khi ra môi trường quốc tế là nỗi hoang mang vì lĩnh vực nào cũng đã có người khai phá rồi, khoảng trống nghiên cứu rất ít.
Việc cập nhật tình hình nghiên cứu thật sự quá sức ngay cả với nhiều giáo sư hướng dẫn, nhất là khi ngoại ngữ hạn chế. Yếu ngoại ngữ khiến luận án không đạt chất lượng, nghiên cứu sinh không có công bố quốc tế khi làm nghiên cứu sinh và sau này khi đã thành tiến sỹ, việc tiếp tục phát triển nghiên cứu cũng rất hạn chế. Việc cho rằng Việt Nam có chuẩn mực riêng chỉ là sự bao biện.
Tóm lại, trước đây khi truyền thông chưa phát triển, việc đào tạo ở trình độ bậc cao nhất giống như một ngôi đền thiêng mà người thường chỉ dám đứng từ xa nhìn vào và ngưỡng mộ.
Nhưng hiện nay ngôi đền ấy đang dần được giải thiêng. Sự giải thiêng đó là cần thiết để việc đào tạo tiến sỹ thật sự chuyển mình, hòa nhập với dòng chảy chung của quốc tế.
Khương Duy
TIẾN SĨ THỂ THAO: LUẬN ÁN CẤT VÀO TỦ
HUY THỌ/TTO 27-4-2016
Gương mặt thiểu não của các tuyển thủ Việt Nam khi thua Thái Lan ở vòng loại World Cup. Một nền bóng đá có nhiều tiến sĩ bóng đá, nhưng cứ mãi thua một nước không có tiến sĩ bóng đá! - Ảnh: N.K.
TTO - “Mấy hôm nay dư luận sốt xình xịch về chuyện tiến sĩ dỏm tràn lan ở nước ta. Tuy nhiên mọi người chỉ mới tập trung vào lĩnh vực khoa học xã hội, trong khi đó thể thao cũng lắm chuyện” - một HLV bóng chuyền đã nói với tôi như thế.
Vâng, lời nhắc nhở của vị HLV bóng chuyền làm tôi chợt nhớ đến hai câu chuyện. Thứ nhất, đó là tuyên bố xanh rờn của một quan chức thể thao trong lĩnh vực bóng đá.
Ông này nói trước đông đảo nhà báo rằng: “Các cậu thử tìm hiểu xem trong khu vực Đông Nam Á có nước nào có tiến sĩ bóng đá không? Xin lỗi, chỉ có Việt Nam mình có thôi và tớ là một trong số các tiến sĩ bóng đá tốt nghiệp ở Liên Xô (cũ) đấy!”.
Cũng liên quan đến chuyện tiến sĩ bóng đá, cả làng bóng Việt Nam ai cũng biết câu chuyện một vị quan chức thể thao có bằng này, nhưng hồi trẻ ông đi du học Liên Xô (cũ) ở lĩnh vực thể dục.
Tuy nhiên qua bên ấy mới thấy học thể dục buồn quá vì chẳng có mấy bạn bè người Việt. Thế là ông bèn năn nỉ các đồng hương đang học lớp bóng đá bố trí xin chuyển lớp.
Các thầy hồi ấy thương sinh viên người Việt lắm nên cũng đồng ý, miễn là người chuyển lớp phải biết đá bóng.
Người kể câu chuyện này cho tôi nghe là một cựu danh thủ bóng đá miền Bắc đã cười ngặt nghẽo nhớ lại: “Trời ơi, cậu ấy chẳng biết đá bóng một chút nào cả. Thế là bọn tôi phải tả xung hữu đột dàn xếp để chuyền cho cậu ấy và chỉ cần chạm chân vào bóng là ghi bàn. Phải làm đến mấy lần như vậy thì cậu ấy mới có được một lần đá trúng bóng để ghi bàn! Thế là vào lớp bóng đá, học dần lên rồi lấy tiến sĩ chuyên ngành bóng đá và sau này trở thành một trong những nhà vạch kế hoạch cho bóng đá Việt. Tai hại như thế đấy...”.
Chuyện thứ hai là một ông tiến sĩ chuyên ngành bóng ném ở một thành phố lớn. Dân chơi bóng ném vẫn cười đùa và lan truyền câu chuyện thế này: Khi thành phố chưa có tiến sĩ bóng ném, môn này dẫn đầu quốc gia. Nhưng từ sau khi có tiến sĩ bóng ném thì phong trào ngày càng đi xuống và đội tuyển từ thua đến thua!
Theo lời khuyên của mọi người, tôi vào trang web của Viện Nghiên cứu khoa học TDTT tìm hiểu về chuyện tiến sĩ thể thao thì mới giật mình. Đề tài làm luận án tiến sĩ nhiều nhất là lĩnh vực giáo dục thể chất.
Có đề tài thì khảo sát một địa phương (như “Nghiên cứu sự phát triển thể chất của học sinh nữ tiểu học từ 7-11 tuổi ở TP.HCM", “Nghiên cứu đặc điểm phát triển thể chất và nhu cầu hoạt động TDTT của học sinh các dân tộc lứa tuổi 11-14 ở An Giang”), có đề tài chỉ khảo sát ở một trường (“Nghiên cứu xây dựng chuẩn mực đánh giá trình độ chuẩn bị thể lực của sinh viên Đại học Huế” ), có đề tài mang tính toàn quốc (“Nghiên cứu nâng cao năng lực thể chất của học sinh trung học cơ sở 12-15 tuổi”)...
Nói chung là rất phong phú. Nhưng nhìn lại thực tế thì chuyện giáo dục thể chất vẫn là một vấn đề gây nhức nhối, nhiều yếu kém, dẫn đến việc học sinh - sinh viên Việt Nam ngày càng yếu về thể lực.
Ở môn bóng chuyền cũng có nhiều đề tài được chọn làm luận án tiến sĩ. Ví dụ như đề tài phân tích cú nhảy phát bóng - nhảy chuyền bóng, hay như chuyện huấn luyện VĐV bóng chuyền từ tuổi 12-13...
Nhưng nhìn vào thực tế thì Thái Lan chẳng có tiến sĩ bóng chuyền nào, nhưng đội tuyển nữ của họ xếp hạng 12 thế giới, còn ta có rất nhiều tiến sĩ thì tít ở phía sau.
Ở môn bơi lội cũng có nhiều tiến sĩ, nhưng tay bơi thành công nhất từ xưa đến nay Nguyễn Thị Ánh Viên thì phải đưa qua Mỹ mới phát triển được tài năng!
Chưa hết, một chuyên gia bóng đá còn chỉ cho tôi xem một luận án tiến sĩ mang tên “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp xoa bóp kết hợp điện từ trường để hồi phục cho vận động viên bóng đá”. Trong khi đó, vấn đề hồi phục thể lực là chuyện yếu kém nhất của các cầu thủ Việt Nam từ cấp CLB đến đội tuyển!
Xin đừng nghĩ câu chuyện lạm phát tiến sĩ trong thể thao là vô hại. Trước hết, nó cũng là một sự lãng phí khi sẽ phải trả lương cho tiến sĩ cao hơn cử nhân, cao hơn chuyên gia giỏi nhưng không có bằng cấp.
Chưa kể sự lãng phí còn nằm ở chỗ các trường đại học TDTT cũng phải tiêu tốn thời gian, vật chất cho việc đào tạo những tiến sĩ không có giá trị gì cho phát triển thành tích (với thể thao đỉnh cao), sức khỏe con người (giáo dục thể chất) và cả khoa học thể thao. Để rồi những luận án tiến sĩ ấy được cất vào hộc tủ.
Thứ hai, nó tạo nên một sự ảo tưởng phù phiếm, kiểu “Đông Nam Á chẳng có nước nào có tiến sĩ bóng đá”, gây mất niềm tin cho người hâm mộ, VĐV, HLV...
HUY THỌ (huytho@tuoitre.com.vn)
QUAN CHỨC ĐUA NHAU ĐI HỌC TIẾN SĨ
PV /TP 26-4-2016
Các học viên cao học và nghiên cứu sinh làm thủ tục nhập học.
TP - Trao đổi với PV Tiền Phong về tình trạng “lạm phát” đào tạo tiến sĩ ở nước ta hiện nay, các chuyên gia cho rằng có nguyên nhân từ việc một bộ phận không nhỏ quan chức đua nhau đi học tiến sĩ, do đó có cầu thì ắt có cung.
TS Nguyễn Đức Hoạt, nguyên chủ nhiệm khoa tiếng Anh, ĐH Ngoại thương:
Ở Việt Nam, tiến sĩ chủ yếu công tác trong ngành sư phạm, giảng dạy tại các trường ĐH, CĐ hoặc làm việc tại các viện nghiên cứu. Nhưng cũng có một phần không nhỏ quan chức đua nhau đi học tiến sĩ. Vì quan phải tiến sĩ thì mới xịn. Quan chức đúng là cần chuyên môn nhưng không đến mức phải tiến sĩ. Ở Việt Nam, chúng ta đang nhầm khoa học với công nghệ. Tiến sĩ ở nước ngoài là làm khoa học, còn công nghệ là ứng dụng khoa học vào thực tế.
Điều này có nghĩa là chúng ta đang sính bằng cấp, thưa ông?
Khi nào có cầu ắt sẽ có cung, khi cầu sai thì người ta sẽ làm sai. Vừa qua, tôi được tới 4-5 trường ĐH mời ra đứng tên để thành lập khoa. Hóa ra ta đang rất thiếu cái danh này. Ở nước ngoài làm tiến sĩ phải mất 6 năm, bỏ nhà bỏ cửa để đi làm nhưng Việt Nam chỉ có 3 năm mà lại được ngồi ở nhà, không phải tập trung tại trường. Bài báo không phải đi qua seminar nào. Đội ngũ hướng dẫn cũng chủ yếu chỉ “cơm chấm cơm”. Thầy vừa làm nghiên cứu xong, mấy năm sau lại quay lại hướng dẫn.
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường:
Không nhất thiết làm quản lý phải có học vấn cao
Ở khá nhiều cơ sở, đánh giá chung của tôi là chất lượng chưa cao. Nhất là khi chúng ta mở ra đào tạo thạc sĩ nhiều, chất lượng cũng chỉ nhỉnh hơn so với ĐH. Từ “đà” thạc sĩ, nhiều người có nhu cầu làm tiến sĩ. Trong khi đó, chúng ta thường dễ dãi với nhau về đề tài luận án tiến sĩ. Tôi quan niệm, luận án tiến sĩ phải có cái mới đáng giá ở mức độ nhất định, tất nhiên không đòi hỏi sáng tạo quá nhiều. Tri thức càng lên cao phải càng khó thì mới đảm bảo được chất lượng. Còn hiện nay, chúng ta đào tạo tiến sĩ phần chạy theo thành tích, phần chạy theo thị trường có cầu thì có cung. Quan điểm đào tạo trong giáo dục mà đơn giản như kinh tế trong cơ chế thị trường thì không ổn. Tôi cho rằng phải có cái khác để nâng cao chất lượng.
Như ông nói, đào tạo tiến sĩ hiện nay quá dễ dãi với đề tài luận án, nguyên nhân xuất phát từ đâu, thưa ông?
Thứ nhất là tư duy của người Việt Nam từ xưa đến nay đều coi trọng việc học và đó là cách duy nhất để làm quan. Thứ hai là yếu tố thị trường, nếu đảm bảo cung cầu dễ dàng thì nó tồn tại nhất là khi pháp luật không có quy định cụ thể. Thứ ba là vì cách cất nhắc cán bộ. Do chúng ta không dám nhìn thẳng, không đánh giá thẳng vào năng lực của từng người nên mới phải đưa ra tiêu chí mang tính hình thức. Ví dụ: bằng cấp cao hơn thì ưu tiên hơn... Khi đã đưa ra những tiêu chí này thì những danh hiệu, những chức danh đi theo tiêu chí đó cũng trở nên giả tạo.“Không nhất thiết mọi người quản lý phải có học vấn cao. Bởi vì kỹ thuật quản lý, chuyên môn quản lý đòi hỏi con người những bản lĩnh khác với bản lĩnh học hành như biết nhìn xa, trông rộng, bản lĩnh quyết định trước những việc khó khăn...”GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Vậy theo ông, ở cấp độ quản lý nhà nước thì có cần người có trình độ học vấn cao như thế không?
Tôi cho rằng 2 chuyện này khác nhau. Không nhất thiết mọi người quản lý phải có học vấn cao. Bởi vì kỹ thuật quản lý, chuyên môn quản lý đòi hỏi con người những bản lĩnh khác với bản lĩnh học hành như biết nhìn xa, trông rộng, bản lĩnh quyết định trước những việc khó khăn... Người đi theo con đường học vấn lại đòi hỏi bản lĩnh khác như sáng tạo. Nhưng khi chúng ta dính hai chuyện này với nhau thì nó sẽ tác động tới đào tạo.
Ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng đào tạo tiến sĩ khoa học xã hội của Việt Nam hiện nay có vấn đề nhất?
Tôi cho rằng xã hội hay kỹ thuật thì cách tiếp cận bằng cấp ngang nhau. Có nhiều người kêu rằng một số đề tài khoa học xã hội hiện nay không có ý nghĩa. Điều này là đúng, nhưng do mọi người không thông thạo các đề tài kỹ thuật, kinh tế, công nghệ. Các đề tài này cũng như thế thôi, là vấn nạn chung của nước ta. Có lẽ chỉ khoa học cơ bản ít hơn vì nó nằm ở không gian hoàn toàn khác, không sát “mặt đất”. Vì nó có tiêu chí đánh giá về mặt khoa học rõ ràng. Còn tất cả thứ khoa học gắn với “mặt đất” thì đều vướng phải vấn đề: đề tài không ra làm sao cả.
Do chúng ta hư danh hay còn do trình độ của người thầy, thưa ông?
Chắc chắn do trình độ của thầy cô. Các nước rất tôn trọng trình độ thật của con người thông qua các công trình thực của người đó. Nhưng ở Việt Nam, chúng ta vẫn cứ líu ríu mấy chuyện không dám nhìn thẳng vào sự thật khi đánh giá người này kém, người kia giỏi. Trong khi Việt Nam quy định sau khi bảo vệ 3 năm, tiến sĩ sẽ được quay lại hướng dẫn nghiên cứu sinh thì các nước không ấn định về mặt thời gian, họ chỉ quan tâm người đó có nổi tiếng hay không. Vì thực tế, có nhiều người còn nổi tiếng trước khi làm tiến sĩ. Họ đánh giá con người đó có thực sự được các nhà khoa học trọng vọng không, có thực sự có tài không. Còn chúng ta không dám làm việc đó, chúng ta đành đưa ra các tiêu chí hình thức. Chúng ta không dám nhìn vào nội dung xem người đó có bao nhiêu công trình khoa học được công bố ở nước ngoài, trong nước, bao nhiêu công trình được trích dẫn ở các đề tài khoa học khác. Chúng ta không dám đưa ra những tiêu chí mang tính nội dung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét