Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

20160515. NGHĨ VỀ NHÀ VĂN DƯƠNG THU HƯƠNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
DƯƠNG THU HƯƠNG VỚI "NGHỀ NGHIỆP": CHỐNG ĐẢNG
LÊ PHÚ KHẢI/ 12-5-2016
Nhà văn Dương Thu Hương và tác giả tại nhà riêng của bàở nhà tập thể A8 phòng 308 Khương Thượng (24/02/2002)Hình tư liệu: LPK
                                                                  

Cuối tháng 3 năm ấy (1991), khi tôi ở Mátxcơva về, Irina có nhờ tôi chuyển một bức thư (dán kín) cho Dương Thu Hương, lúc đó chị ở đường Ngô Thời Nhiệm, Hà Nội. Cũng dịp ấy tôi gặp bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, ông cũng đang trong tâm trạngchờ đến lượt mình “lên đường” vì ông mới gửi thư cho Trung ương trước Đại hội 7. Bác Viện bảo tôi: “Ở Pháp, một nhà văn như Dương Thu Hương thì không có gì đáng nói, nhưng nếu bắt Dương Thu Hương như thế thì người ta xuống đường ngay, phản đối ầm ầm ngay. Còn ở ta thì đến giới trí thức cũng im re”! Dương Thu Hương bị bắt ngày 14/4/1991và được trả tự do ngày 20/11/1991 vì “lý do nhân đạo”. Từ nước Nga xa xôi, đài phát thanh tư nhân Irina phát bài Dương Thu Hương, một bài học, một câu hỏi do chính Irina viết, với đoạn mở đầu: “Ai tin được lòng nhân đạo của một chính quyền muốn bỏ tù ai thì bắt, muốn thả thì buông, chẳng cần xét xử trước công chúng. Nhân đạo ở đây là bệnh tâm thần của một số người có quyền lực, đinh ninh mọi người khác đều có tội”.
Phân tích về tình trạng ấy của giới trí thức VN, Irina lý giải trong bài viết kể trên: “Sau cơn ác mộng (chiến tranh – LPK) được chút tự do kiếm cơm, kiếm áo, hưởng chút không gian và thời gian của trời đất cũng là đủ mãn nguyện!”.
Nhà báo Lê Phú Khải

Nhưng khi DTH nói chuyện thì bất cứ người đàn ông đanh thép nào trên thế giới cũng phải thừa nhận mình đang ngồi trước một người phụ nữ đáng kính nể.Năm 2002, tôi ra Hà Nội, lúc đó đã là 10 năm sau khi Dương Thu Hương bị giam giữ 7 tháng 6 ngày, chị đã trở thành một nhà bất đồng chính kiến gay gắt nhất, có những phát biểu, những bài viết đanh thép lên án chế độ độc tài đương thời, nhiều nhà văn đã bị chị chửi thẳng vào mặt trước mọi người vì khi chị đi tù đã lên tiếng phê phán, bịa đặt về chị. Tôi ngỏ ý đến thăm Dương Thu Hương thì nhiều bạn văn nghệ sĩ khuyên tôi “dại gì” mà đến, có khi bị chửi vỗ mặt, bị đuổi ngay từ cửa. Tôi bình tĩnh trả lời: Nếu tôi có bị DTH nhổ vào mặt thì tôi thấy mình cũng xứng đáng nhận sự khinh bỉ đó. Vì, đường đường một đấng nam nhi mà không bao giờ tôi dám ho he phát biểu một điều gì, dù biết người ta làm sai hoàntoàn, vô lý, vô đạo đức, vô Pháp luật mà một “nhi nữ thường tình” như DTH lại dám dõng dạc lên tiếng. Thấy tôi nói thế, không ai khuyên tôi “lùi bước” nữa. Cuối cùng thì nhà thơ nổi tiếng Trúc Thông dẫn tôi đến thăm DTH tại một khu nhà tập thể ở quận Đống Đa. Cái tờ giấy viết tay Hương đưa cho tôi ghi địa chỉ của chị: “Dương Thu Hương – 8525818. P- 308 Nhà A8 Khu Đống Đa Hà Nội” tôi còn giữ đến bây giờ. Năm 2002 Hương vẫn đẹp như xưa. Chị có nước da đen ròn, nói chuyện rất có duyên. Hôm đó là sau Tết, nhà còn rượu vang Bordeaux, hạt dưa, bánh kẹo để tiếp khách. Bức ảnh tôi chụp DTH đang cắn hạt dưa duyên dáng vô cùng. Tất cả những người đàn bà trên trái đất này khi ngồi bệt, xếp bằng trên chiếu cắn hạt dưa đều rất hiền dịu, rất mong manhdù người đó là DTH. Tôi vẫn giữ tấm hình DTH ngồi trên nền nhà trải chiếu hoa, đề ngày 24/2/2002 đó và đôi lúc còn đem ra hỏi bạn bè: Người thế này mà bắt bỏ tù à? Người thế này mà bảo là dữ dội, “đanh thép” à?
Chị bảo với chúng tôi: “Em thấy tình thương đôi khi cũng là tội ác các anh ạ!”.
Thấy câu nói lạ tai quá, tôi hỏi vì sao. Hương kể: Khi chị ở tù, cậu công an còn trẻ coi sóc chị, mỗi lần đưa cơm cho chị đều lót một tờ báo Tuổi Trẻ mới ở đít nồi để chị đọc. Chị biết là báo do cậu ta mua với đầy thiện chí. Khi trên có lệnh thả chị, cậu ta vui vẻ vào báo tin. Chị đã bảo với cậu ta: “Về nói với cấp trên rằng, bà Hương bảo, bắt bà có lý do thì thả bà cũng phải nói lý do, nếu không bà không về”.
Thế là DTH không chịu ra tù. Cậu công an vận động mãi, chị vẫn một điều như thế. Cuối cùng cậu ta buồn quákhóc! Hương hỏi vì sao, cậu ta nói: Nếu không vận động được chị ra tù thì cậu bị đuổi việc, và nếu bị sa thải thì bên nhà gái không cho làm đám cưới. Nói rồi cậu ta lại xụt xịt. Thương cậu ta quá nên Hương phải rời nhà tù!
Kể đến đây Hương bảo tôi và Trúc Thông: Vậy tình thương như thế các anh thấy có phải là tội ác không?
Trúc Thông thân với DTH nên anh yên lặng, có lẽ vì quen với cách nói năng, quen với logic của Hương rồi. Còn tôi thì chóang! Tôi chưa gặp ai dữ dội như Hương. Chị còn kể tiếp, khi thằng con chị nộp đơn thi đại học, trong lý lịch, phần nghề nghiệp của mẹ, chị ghi: Nghề nghiệp: chống Đảng. Khi chị ra đồn công an chứng lý lịch, chị thấy tất cả mọi người trong đồn đều giả vờ đi rađể coi mặt chị! Trưởng đồn nói: Chị Hương nên bỏ cái nghề nghiệp như thế này đi, nếu để thì nhất định cháu nó không được vào đại học đâu! Hương bảo với tôi: Nghĩ thương thằng con quánên em đành phải gạch cái nghề nghiệp chống Đảng ấy đi. Như thế có phải tình thương cũng là tội ác không hai anh?
Chưa hết, Hương còn kể: lúc ở tù, “làm việc” với viên sĩ quan công an, chị nhìn vào mặt anh ta quát to: Anh đang thiếu chất, mặt mũi xanh xao thế này là thiếu chất. Lương anh không đủ nuôi vợ nuôi con, bọn ăn cắp ở trên nó ăn hết phần anh rồi, chúng nó đều trở thành tư bản đỏ rồi, anh phải dối lòng mà làm việc, tôi thương anh lắm, anh cũng nghĩ như tôi mà thôi!
Kể một thôi, rồi Hương nói với tôi và Trúc Thông: Em nói xong, viên sĩ quan run bần bật, vì anh ta thấy em nói trúng tim đen anh ta.
Văn sĩ DTH đã để lại cho văn học nước nhà nhiều tác phẩm giá trị, Nói cho công bằng thì sự nghiệp văn chương của chị thật đồ xộ. Tiểu thuyết có: Bên kia bờ ảo vọng, Hành trình ngày thơ ấu, Những thiên đường mù, Tiểu thuyết vô đề, Chốn vắng, Đỉnh cao chói lọi… Tập truyện ngắn có: Bông bần ly, Một bờ cây đỏ thắm, Ban mai yên ả, Đối thoại sau bức tường, Chân dung người hàng xóm, Truyện tình kể trước lúc rạng đông, Vĩ nhân tỉnh lẻ… Chị là tác giả VN được dịch ra tiếng nước ngoài vào loại nhiều nhất. Có đến 6 tác phẩm được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức… Bộ Văn hóaPháp đã trao Huân chương Văn chương Nghệ thuật (Chevalier des Arts et des Lettres) cho DTH. Tiểu thuyết Chốn vắng được đề cử giải Femina và nhận Giải thưởng Lớn của tạp chí Elle (Grand Prix de Elle) 2007. Năm 2009 giáo sư tiến sĩ Joseph Pivado về văn chương Anh ngữ của Đại học Athabasca ở Alberta Canada đề cử chị ứng cử Giải Nobel năm ấy. Theo ông, với Đông Nam Á và Trung Quốc thì nữ văn sĩ như DTH rất hiếm có.
Ngòi bút của DTH là ngòi bút dự báo, dẫn đường. Ngay những tác phẩm đầu tay của chị như Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù… đã khác hẳn thứ văn chương “phải đạo” đương thời. DTH đã báo trước những “thiên đường vỡ chợ” mà nhà thơ Trần Mạnh Hảo vừa nhắc đến, vừa viết hôm nay (2013).
Là độc giả của hầu hết các tác phẩm của DTH từ rất sớm, tôi thấy chị đã làm đúng chức năng của một nhà văn là nhìn thấy những gì người ta không nhìn thấy. Đúng như nữ nhà báo Nga Irina viết: “Có những lúc một con người, một hành động, một tác phẩm hoàntoàn ăn khớp với một hoàn cảnh lịch sử, với hoài bão của đông người trong hoàn cảnh ấy. Lúc đó, con người đó biến thành một bài học sống, bài học kết thúc một thời đại, mở màn cho một thời đại khác.”DTH là một con người của một thời đại cũ, nhưng “chẳng thèm xin phép ai, chị ngang nhiên bước vào thời đại mới.” (Irina)
Tôi có cái “duyên” với Dương Thu Hương về sự đồng điệu trong tư duy chính trị. Đó là vào năm 1992, một đoàn nhà báo, gồm toàn những nhà báo có “máu mặt”, tổ chức lên Đà Lạt nhằm bênh vực chị Đặng Việt Nga, kiến trúc sư và anh Phương cũng kiến trúc sư, hai chủ nhân của “Ngôi nhà trăm mái” đang bị địa phương bắt tháo dỡ vì nhiều lý do không chính đáng. Đường xa, hết chuyện bàn, tôi nêu câu hỏi: Nếu bây giờ phải chọn hai gương mặt tiêu biểu cho VN thế kỷ qua thì các vị chọn ai? Mọi người đều chọn nhân vật số 1 là Hồ Chí Minh. Vậy còn người thứ hai? Cả xe im lặng. Có vị nói: Võ Nguyên Giáp! Tôi phản đối và đưa ra nhân vật thứ hai là Dương Thu Hương! Cả xe nhao nhao phản đối. Có người hỏi: DTH là cái quái gì mà ông lại cho là nhân vật thứ hai sau HCM? Tôi trả lời: "Chẳng là cái quái gì mà tự cho mình có quyền đứng ngang hàng và dám vỗ vai nhắc nhở các vị đang cai trị dân chúng, thì đó là dân chủ, là xã hội công dân chứ còn gì nữa! Độc lập và Dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì HCM là hình tượng, còn Dân chủ thì đến Đại tướng cũng không dám đối thoại với Tổng Bí thư Lê Duẩn, DTH là thảo dân mà lại tự cho mình quyền ăn nói ngang hàng với các vị đang đứng trên đầu dân, thì đó là hình tượng của Dân chủ. Sau hình tượng của Dân tộc phải là hình tượng của Dân chủ"… Chẳng thấy ai trên xe nói gì nữa!
Tôi nói tiếp: Lúc bị tù không án, DTH tuyên bố: Đảng hãy thử “chơi sang một lần” đem tôi ra tòa xét xử công khai trước dân chúng và để tôi tự bào chữa xem sao? Một đảng cầm quyền, có đủ nhà tù và quân đội trong tay mà không dám “chơi sang” đem xử công khai một người đàn bà trước công chúng thì đảng ấy mạnh hay yếu? Và người đàn bà ấy yếu hay mạnh thưa các vị? Vẫn không thấy ai nói gì! Tôi lại nói: DTH chính là Dân chủ, sức mạnh của thời đại mà chúng ta cần phải có…
Ba năm trước, nhà thơ Hoàng Hưng ở Pháp về có đưa cho tôi cuốn tiểu thuyết Chốn vắng bản tiếng Việt, khổ to, dày cộp. Đây là một trong các tiểu thuyết của DTH được dịch sang tiếng Pháp từ khi chị định cư ở Paris năm 2006. Nghe nói Chốn vắng này bản tiếng Việt rất khó kiếm sau khi nó được dịch ra tiếng Pháp với tựa đề Terre des oublis. Đưa cho tôi, anh Hưng nói: Ông đọc trước đi, xem thế nào? Tôi đọc nó cần mẫn trong năm ngày và thấy đề tài này ở VN thì bình thường, nhưng với dân châu Âu thì rất hấp dẫn, và dưới ngòi bút của DTH thì lôi cuốn độc giả. Câu chuyện nói về chiến tranh. Một chị phụ nữ đã có chồng và chồng chị đi bộ đội thời chống Mỹ. Đã chết, có báo tử. Ở nhà vợ đi lấy chồng khác. Bỗng dưng sau chiến tranh người chồng cũ trở về. Ông chủ tịch xã dẫn anh ta đến nhà vợ cũ và nói với cả ba người (một đàn bà, hai đàn ông): Không ai có lỗi cả… lỗi là chiến tranh.
Là độc giả của hầu hết tác phẩm của DTH, tôi thích nhất tập truyện Chuyện tình kể trước lúc rạng đông. Nếu gặp tác giả tôi phải xin lại cuốn đó, vì cuốn của tôi thất lạc mất rồi. Tôi nghĩ rằng nếu DTH cho tái bản cuốn này thì hay biết mấy. Chắc chắn có nhiều độc giả.
Lúc chia tay Trúc Thông và tôi trong cái buổi sáng mùa xuân năm 2002 đáng nhớ đó, Hương tiễn chúng tôi xuống tận đường, chị không quên nhắc lại lần gặp tôi tại Sài Gòn ở cơ quan đại diện NXB Hội Nhà văn. Lần đó, vô Sài Gòn, chị kể, hễ đến cơ quan nào, biết chị là DTH thì người đang nói chuyện với chị đều bỏ chạy!
Câu cuối cùng DTH nói với chúng tôi trong cái buổi sáng đẹp trời đầu năm 2002 đó, là: Chúng nó mới cắt điện thoại của em. Em đã gọi điện cho công an nói rằng: bảo thằng Phan Văn Khải mắc ngay điện thoại lại cho bà, không thì bà không để yên cho đâu! Em nói rất to cốt để cho cả khu phố nghe.
DTH là người như thế. Nhiều người bảo chị đanh đá! Nhưng không thấy ai bảo thằng vô cớ cắt điện thoại là thằng lưu manh. Dân tộc ta “không có truyền thống dân chủ” như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nói là hoàn toàn đúng.
LPK (Uyên Nguyên’s Blog)/TTHN
TƯỞNG NHỚ NHÀ BÁO, NHÀ HOẠT ĐÔNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN MINH CẦN
NGÔ NHÂN DỤNG/BVN 15-4-2016
Nhà báo, nhà hoạt động chính trị Nguyễn Minh Cần đã từ thế tại Moskva vào hồi 5 giờ sáng (giờ địa phương) thứ Sáu, ngày 13 tháng 5 năm 2016.
Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế; tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945; gia nhập ĐCS Đông Dương năm 1946 và đảm nhiệm nhiều chức vụ trong chính quyền. Năm 1962 ông sang Moskva theo học Trường Đảng cao cấp. Trong bầu không khí hậu Đại hội 20 của ĐCS Liên Xô những năm tháng này, ông tán thành chủ trương của Nikita Khrushchev, điều đã khiến ông, cùng hàng trăm người khác cùng chí hướng, sau đó bị khép tội “xét lại chống Đảng” khi ĐCS Việt Nam thanh trừng nội bộ. Nguyễn Minh Cần xin ly khai ĐCS và cư trú chính trị tại Moskva từ đó, hành nghề dịch sách, viết báo, thông tín viên, dạy học; đồng thời khi lặng lẽ khi tích cực, trọn nửa thế kỷ tận hiến cho lý tưởng tự do, dân chủ của người Việt bằng nhiều hoạt động khác nhau.
Nguyễn Minh Cần thuộc thế hệ đi trước mà những người đang đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hôm nay hằng kính trọng, biết ơn. Thành kính cầu mong hương hồn ông an nghỉ trong niềm tin vững chắc rằng thế hệ tiếp bước sẽ không phụ ý chí của ông, quyết làm cho tâm nguyện của ông sớm thành sự thật!
Bauxite Việt Nam

 

Nguyễn Minh Cần sống mãi

NNguyễn Minh Cần sống mãigột dòng suối trong veo. Anh theo mẫu người nhà nho tráng sĩ những thế kỷ trước. Như Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân hai lần khởi nghĩa, hai lần bị quân Pháp bắt, thong dong dặn dò vợ con trước khi chịu tử hình. Như Giải nguyên Nguyễn Cao khi bị bắt và được dụ hàng, đã khẳng khái từ chối rồi tự mổ bụng ném vào mặt quân giặc, nói: “Ruột gan tôi như thế này, ai cũng biết cả rồi!”
Năm 17 tuổi, Nguyễn Minh Cần đã tham dự cuộc Cách mạng tháng Tám giành độc lập ở Huế, quê hương ông. Năm sau ông đã vào Đảng Cộng sản vì tưởng đây là con đường duy nhất để cứu nước, làm tới Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên. Rồi ra Bắc hoạt động ở ngoại thành Hà Nội, sau năm 1954 làm Ủy viên thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố. Trong khi ông đang học Trường Ðảng cao cấp ở Moskva, Cộng sản Việt Nam thanh trừng nội bộ bằng chiến dịch Chống Chủ nghĩa Xét lại. Năm 1964 Nguyễn Minh Cần ra khỏi Đảng, xin tị nạn chính trị ở Liên Xô, làm nghề dạy học, phiên dịch và viết sách, có khi ký tên là Alikanov để qua mắt công an Việt Cộng. Ông và vợ là bà Inna Malkhanova đã tham dự các cuộc biểu tình vào tháng Tám năm 1990, khi chế độ Cộng sản Liên Xô đang sụp đổ. Ông thường kể trong đời mình đã dự hai lần “Cách mạng tháng Tám!” Từ năm 1990, ông tham gia tích cực vào cuộc vận động tự do dân chủ của người Việt Nam khắp thế giới. Ông tham dự các tập họp chính trị, viết sách viết báo cho đồng bào trong nước và hải ngoại đọc, lúc nào cũng lo gây dựng tình đoàn kết giữa những người cùng lý tưởng dân chủ tự do.
Nếu được gặp anh Nguyễn Minh Cần thì mình sẽ làm gì? Tôi mới tự hỏi. Mấy năm rồi tôi vẫn tính đi Nga thêm một chuyến; để có cơ hội được gặp anh Nguyễn Minh Cần. Gặp một lần nữa trước khi anh ra đi. Khi cùng đi với Lan Hương đến thăm anh ở Moskva lần chót, đã thấy anh rất yếu, sau đó lại có tin anh phải vào bệnh viện mấy lần. Mỗi lần ở nhà thương ra, anh lại viết thư ngay, báo tin anh vẫn khỏe để giúp mọi người bình tĩnh! Và anh bàn bạc ngay những vấn đề đất nước, xin mọi người phải chú ý theo dõi, loan báo tin tức và bày tỏ ý kiến công khai.
Con người Nguyễn Minh Cần chứa một tấm lòng nhiệt thành, tận tụy vì lý tưởng; một tâm hồn ngay thẳng, đĩnh đạc, bộc trực gần như nóng nảy. Anh giản dị, chân thành, lo lắng cho công việc chung, cho tất cả bạn bè anh em. Hỏi tới chuyện nào anh cũng sẵn sàng nói và anh biết rất nhiều; không thấy anh ngần ngại hay tỏ ra muốn giữ kín một điều gì bao giờ. Anh và chị Inna là những con người trong suốt.
Tôi chưa thấy anh chị nói nặng lời về một ai bao giờ, trừ hai nhân vật, với chị Inna là Stalin, với anh Cần là Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra họ cũng không nói nặng lời. Họ chỉ kể lại những tội ác của các lãnh tụ cộng sản bằng giọng nói bình thản, khách quan, với những câu chuyện cụ thể, các con số, mà hai người đã để tâm nghiên cứu. Khi Vladimir lên cầm quyền được hai, ba năm anh Cần đã báo động với tôi rằng chế độ độc tài đang được tái lập, Putin sẽ là một “đại đế” mới! Khi tôi đề nghị anh viết một bài cho báo Người Việt về tình trạng này, anh đồng ý. Nhưng khi tôi ngỏ ý đưa trả tiền trước nhuận bút, anh gạt tay tôi rất mạnh, từ chối. Anh bảo khi nào viết, đăng rồi hãy trả tiền!
Lần đầu Lan Hương đưa bố con chúng tôi tới ở nhà anh chị tại Moskva trước đây hơn 20 năm, anh chị đã đưa tôi và Bão Phác đi thăm trang trại cũ của nhà văn Tolstoi, một thần tượng của chị. Anh dạy tôi trong tiếng Nga cái tên Tolstoi phải đọc chữ “o” vần đầu như chữ “a.” Cũng như Moskva vần đầu đọc “Mo” là “Ma” tên cháu Lan Hương là Tonia cũng vậy. Anh chị cho biết vào cuối đời nhà văn đã khám phá ra giáo lý “hiện pháp lạc trú” (an trú trong hiện tại) của Phật Thích Ca; nhưng chắc không có duyên thực tập. Trên con đường hơn 300 cây số, đi mất 6, 7 giờ, xe taxi lâu lâu dừng lại. Có lúc tôi hỏi lý do, anh Cần lắc đầu, vừa cười vừa nhăn mặt: Bà ấy thấy mấy con chó hoang là phải cho chúng ăn. Ði đâu cũng mang theo bọc thức ăn cho chó! Nhìn ra, quả nhiên thấy chị Inna đang đứng giữa một bầy chó nhẩy nhót chờ đón quà! Chị Inna lập ra hội những người bảo vệ chó, đi đâu thấy chó hoang là chị đưa về nhà nuôi.
Sau khi tham ngôi nhà cũ, khu vườn mà hai ngôi mộ của Lev và Sophia Tolstoi, chúng tôi bước ra về trên con đường ra cổng trang trại, hai bên cây xanh che phủ. Anh Cần đi trước, chị Inna và tôi đi sau. Ðang bước đi tôi trông thấy một con sâu róm đang bò ngang đường, lủi thủi một mình. Tôi đi chậm lại, chú ý bước qua không để vô tình giẫm chân lên con sâu. Nhưng bỗng chị Inna dừng lại. Chị cúi xuống, đưa hai ngón tay phải nhắc con sâu lên, để nó trên bàn tay trái. Rồi chị bưng con sâu đi chậm chậm sang một bên đường, cẩn thận đặt con sâu đi lạc trên một cành lá xanh. Xong, chị lại tiếp tục bước đi, nói tiếp câu chuyện đang nói dở.
Ðó là cung cách trong cuộc sống của anh chị Inna Malkhanova và Nguyễn Minh Cần. Sau nửa thế kỷ sống bên nhau, hai người giống nhau trong tư tưởng, trong cách nói năng bằng tiếng Nga và tiếng Việt, trong cách cư xử với mọi người. Cách đây sáu, bảy năm, tôi tới Moskva muốn đến thăm anh chị, anh nhất định tới đón tôi tận khách sạn. Năm đó đã thấy anh phải chống gậy. Anh và chị đã quy y với Thầy Như Ðiển ở Ðức, nhận pháp danh Thiện Mẫn và Thiện Xuân. Anh chị đã lập một thiền đường và một hội Phật học ở Moskva.
Tuổi già giọt lệ như sương. Nhưng sáng nay mở email ra đọc tin anh Nguyễn Minh Cần qua đời, bao nhiêu bạn bè và các em của anh không thể cầm được giọt lệ. Chị Quản Mỹ Lan ở Pháp viết: “Nay anh Nguyễn Minh Cần ra đi là một sự hụt hẫng, là nỗi mất mát kinh khủng nhất!” Linh mục Nguyễn Hữu Lễ ở New Zealand viết: “Nguyện cầu vong linh anh Nguyễn Minh Cần được an nhàn nơi cõi phước.”
Tôi đọc mấy thư anh chị em trao đổi tỏ lòng thương tiếc anh Nguyễn Minh Cần, nghẹn ngào đứng dậy đi ra ngoài đường, vừa đi vừa tự hỏi: Nếu năm ngoái, năm kia, được đến thăm anh Nguyễn Minh Cần và chị Inna thì mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc cũng không làm một điều gì quan trọng. Chắc tôi chỉ ngồi uống trà với anh và chị Inna, nhìn nhau cảm thông trong hơi thở và nụ cười. Gặp anh chị, trò chuyện với anh chị, giống như được tắm gội trong một dòng suối ấm áp trong trẻo của hai con người đáng yêu và đáng kính trọng.
Tôi chợt nhớ câu thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Rồi đọc lại bài thơ Thanh Tâm Tuyền viết cho Quách Thoại: “Còn người thi sĩ đi vào miền đất lạ - không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.”
Chắc giờ này anh Nguyễn Minh Cần đang “được an nhàn nơi cõi phước” như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ cầu nguyện. Anh sẽ được quên những chuyện trần gian, “không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.” Anh đã chứng kiến bao nhiêu cảnh khổ đau của đồng bào, của đất nước. Một lần cùng đi xe qua Ðại lộ Arbat ở Moscow, anh Nguyễn Minh Cần chợt chỉ tay lên, nói với tôi: “Anh Văn Doãn đã tự tử từ lầu sáu ngôi nhà này.” Sau gần 40 năm, anh Cần vẫn chưa quên người đồng chí đã từng làm Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, từng quyết định tị nạn ở Nga với anh, và đã tuyệt vọng khi mất cả quê hương lẫn lý tưởng. Riêng anh vẫn còn nghị lực sống thêm gần nửa thế kỷ, tiếp tục theo đuổi lý tưởng cuộc đời mình. Anh đã hiến dâng cả cuộc đời chỉ mong quê hương được độc lập, tự do, dân chủ.
Bây giờ mong hương hồn anh Nguyễn Minh Cần không còn bị trói buộc trong “biển gió cát muôn trùng” này nữa. Những người còn ở lại sẽ tiếp tục con đường anh đã cùng đi qua, mỗi người mang trong mình bầu máu nóng, đức trong sáng của Nguyễn Minh Cần. Anh sẽ sống mãi trong lòng đồng bào, trong phong trào phục hưng tổ quốc. Cầu nguyện anh “an nhàn nơi cõi phước.”

Ông Nguyễn Minh Cần, một nhân cách trong sáng

Đinh Quang Anh Thái
Tờ mờ sáng thứ sáu 13 tháng Năm, Nguyễn Văn Khanh đài RFA và Blogger Uyên Nguyên text: Anh Nguyễn Minh Cần mất rồi, lúc 5 giờ sáng giờ Moscow. Bật máy xem tin, RFI đã loan tin ông Cần mất.
Vẫn biết, trời đất mênh mang, ai rồi cũng chết, vậy mà vẫn buồn!
Năm 1997, trong chuyến công tác lúc còn làm choRFA, từ California về lại Washington D.C, tôi đi cùng chuyến bay với ông Nguyễn Minh Cần. Lúc rời tòa soạn Người Việt, nhà báo Lê Đình Điểu, nay cũng không còn nữa, dặn dò, “anh Cần quốc tịch Nga, tên trên giấy thông hành là tên Nga và không nói được tiếng Anh, cậu giúp anh Cần thủ tục tại phi trường nhé.”
Trước đó, tôi đã có dịp trò chuyện và tìm hiểu về nhân vật từng một thời hy hiến tuổi trẻ cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc này.
Ông Nguyễn Minh Cần chào đời năm 1928 tại Huế, tham gia Cách mạng tháng Tám, tổ chức và lãnh đạo khởi nghĩa ở Huế và các vùng phụ cận Huế, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1946. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng như Uỷ viên Thường vụ Thành ủy Huế, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên, Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội.
Năm 1962, ông đi Mạc Tư Khoa để theo học ở Trường Đảng Cao cấp của Liên Xô. Ông có mặt tại “cái nôi” của Cộng sản Quốc tế trong bối cảnh lãnh tụ Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev chủ trương “xét lại” sau khi hạ bệ Stalin trong bài diễn văn đọc tại Đại hội 20 của Cộng sản Liên Xô năm 1956. Khrushchev cho rằng, không nhất thiết phải dùng bạo lực vũ trang mà vẫn có thể thắng “Đế quốc Mỹ” bằng con đường cạnh tranh kinh tế, khoa học và hòa bình.
Chủ trương của Khrushchev được ông Nguyễn Minh Cần và nhiều người nữa trong Đảng Cộng sản Việt Nam tán đồng, trong số đó, có ông Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện nghiên cứu Mác-Lê; ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh; nhà văn Vũ Thư Hiên; thiếu tướng Đặng Kim Giang và nhiều nhân vật cao cấp khác của Đảng…
Tất cả những người ủng hộ chủ trương của Khrushchev như vậy là đã đương nhiên chống lại Nghị quyết 9 của Lê Duẩn: Dùng tổng lực quân sự đánh miền Nam. Mà chống Lê Duẩn vào thời điểm đó là “đụng cái vẩy ngược của con rồng” vì họ Lê nắm toàn quyền sinh sát trong Đảng.
Hậu quả, những ông Nguyễn Minh Cần, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Thư Hiên, Đặng Kim Giang và hàng trăm người nữa bị khép vào tội “xét lại chống Đảng”. Tất cả đều bị bắt tù nhiều năm. Chỉ có một số ít lúc đó đang sống ngoài nước thì bị khai trừ khỏi Đảng.
Ông Nguyễn Minh Cần không cần đợi bị khai trừ, chính ông tự quyết định ly khai cái Đảng mà ông từng hết mực gắn bó với nó. Ông ở lại nước Nga, sống cuộc đời lưu vong.
Trong chuyến đi chung với ông Cần từ Quận Cam về D.C. Hơn 5 giờ bay ngồi cạnh nghe ông nói chuyện, tôi biết thêm và cảm được tấm lòng nhiệt huyết, chân thật, tử tế của ông.
Sống lưu vong ở nước Nga hơn nửa đời người, lấy vợ Nga, viết và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ, ông làm tự điển Nga-Việt, dịch nhiều tác phẩm văn học của hai dân tộc và viết sách. Cả hai ông bà ăn chay, tu tại gia và có công góp phần xây một Thiền đường Phật Giáo ngay tại Moscow. Những người từng đến thăm hai ông bà đều thích thú khi nhìn mấy chục con mèo hoang vô chủ được bà nhặt ngoài đường đem về nuôi nấng trong nhà. Ông Cần thường nói đùa, vợ ông quý đàn mèo hơn ông.
Bà Nguyễn Minh Cần sinh ra, lớn lên và trải nghiệm những năm tháng kinh khủng của xã hội trại lính dưới bàn tay cai trị tàn bạo của Stalin. Bà cũng là nhân chứng sự sụp đổ của Liên Xô và nhận rõ bộ mặt độc tài mới của Putin. Chính bà đã sát cánh bên người chồng Việt Nam trong suốt những năm tháng ông chịu cảnh lưu vong nghiệt ngã sau khi từ bỏ chế độ Hà Nội. Và cho tới lúc ông ra đi, bà lúc nào cũng là người để ông tựa vào đứng dậy.
Gần một tháng sống với ông trong căn phòng nhỏ ở Virginia gần D.C, nhiều người nghe tiếng ông tìm đến thăm nghe ông trò chuyện. Một buổi tối, anh Nguyễn Mạnh Hùng mang thức ăn đến, ba anh em nói chuyện đến quá khuya. Những chi tiết ông Cần kể hôm đó rất hữu ích đối với một việc nghiên cứu và giảng dạy môn Chính trị và Bang giao Quốc tế như anh Hùng.
Anh Hùng về lúc nửa đêm. Khoảng 3 giờ sáng, tôi thức giấc vì nghe tiếng thì thào. Nhỏm dậy, tôi thấy ông Cần ngồi quay lưng vào tường, miệng kê sát cái máy thâu âm và đang nói rất nhỏ. Tôi hỏi, anh cần em giúp gì không? Ông bảo, xin lỗi làm chú thức giấc, tôi quên vài chi tiết trong lúc nói chuyện nên thức dậy thâu ngay để sáng bổ túc cho anh Hùng.
Ông Cần là vậy đó! Ở tuổi gần 70 mà sức sống như một người trẻ.
Lần thứ nhì ông sang Mỹ cuối năm 1998 và cũng đến trọ với tôi ở Virginia. Lúc đó có cả nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Trạc tuổi nhau, người sống ở miền Nam, người lưu vong bên Nga trong lúc cuộc chiến khốc liệt diễn ra trên quê nhà thời thập niên 60, hai ông trò chuyện thâu đêm suốt sáng.
Một người bạn tôi quý mến ông Cần nhờ tôi chuyển món quà 1 ngàn Mỹ kim biếu ông. Ông thẳng thắn từ chối. Ông bảo, chú giữ lấy để giúp người nghèo hoặc những người đấu tranh tại Việt Nam. Tôi ép mãi, ông đành nhận nhưng nhờ tôi gửi thẳng cho Thiền viện Phật Giáo tại Moscow để “làm quỹ sinh hoạt cho Phật tử” .
Ông Cần là vậy đó! Đạm bạc. Trong sáng.
Có lần, tôi bị một người bạn phản ứng giận dữ khi tôi tặng anh cuốn “Vụ án Xét lại Chống Đảng” do ông Cần viết. Người bạn lớn tiếng, “hết khôn dồn đến dại” hay sao mà lại giao du với cộng sản.
Rõ ràng, cộng sản vẫn là bóng ma ám ảnh con người Việt Nam.
Anh Nguyễn Mạnh Hùng, khi tôi báo tin ông Cần mất, anh nói, anh Cần là người có nhân cách đáng quý. Anh Nguyễn Xuân Nghĩa cũng thốt lên một câu tương tự khi nghe tin ông Cần.
Với tôi, ông Cần tiêu biểu cho một lớp người trong hàng ngũ cộng sản yêu nước thật sự, họ dấn thân vì đất nước chứ chẳng vì cái gì khác, và một khi họ thấy được bề trái nhếch nhác của cộng sản thì họ tự quyết định chia tay cái đảng tôn thờ chủ nghĩa duy vật này và vẫn tận tụy mưu tìm một con đường khác hòng đem đến no ấm hạnh phúc cho con người và đất nước Việt Nam.
Và cuối cùng, tôi thật ân hận vì nhà xuất bản Người Việt chưa kịp hoàn tất việc tái bản cuốn “Ðảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản Quốc tế” (xuất bản lần đầu năm 2001) của ông thì ông đã vĩnh viễn ra đi.
Anh Cần ơi, em vốn không tin tôn giáo nào nhưng tin là anh đang thanh thản nơi cõi Phật!
Đ.Q.A.T.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét