Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

20150527. XOAY QUANH VIỆC TĂNG TỶ GIÁ CỦA NHNN

ĐIỂM BÁO MẠNG
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC: KHÔNG TĂNG TỶ GIÁ ĐẾN HẾT NĂM
Bài  ghi của THANH THANH LAN/ VNEx 26/5/2015
NgThiHong-5627-1432632021.jpg
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định giữ nguyên "room" tỷ giá 2015 là 2%. Ảnh: Quý Đoàn.
Phó thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp thị trường và tái khẳng định cam kết tỷ giá tăng không quá 2% của Ngân hàng Nhà nước, bất kể "room" đến nay đã không còn.
- Từ cuối năm 2​011 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thường công bố biên độ dự kiến tăng tỷ giá ngay từ đầu năm và 2% là mức cam kết của năm 2015. Nhưng sau chưa đầy 5 tháng, "room" này đã cạn. Vậy kế hoạch điều hành từ nay đến cuối năm như thế nào?
- Sở dĩ NHNN định hướng trước biên độ vì trước đây, tỷ giá và thị trường ngoại hối thường xuyên biến động, không chỉ gây khó khăn cho điều hành mà còn làm chính sách tiền tệ có thời điểm bị động. Hệ lụy là có lúc nền kinh tế dư cung mà NHNN vẫn phải bán ngoại tệ để can thiệp, dẫn đến dự trữ ngoại hối suy giảm nghiêm trọng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
Đến nay, qua phân tích, đánh giá nhiều khía cạnh tác động và đứng trên quan điểm tổng thể lợi ích của quốc gia, không hướng đến mục tiêu duy nhất nào, NHNN tiếp tục định hướng cả năm 2015 sẽ điều hành trong phạm vi 2% như đề ra từ đầu năm.
- Thứ nhất, việc phá giá VND ở mức cao sẽ mang lại lợi ích cho những nhà xuất khẩu nhưng với ngành sản xuất hàng xuất khẩu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài thì lại bất lợi vì giá đầu vào tính bằng đồng nội tệ gia tăng. Ví dụ, với ngành dệt may, tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu năm 2013 là 82,5%; 70% đối với sản phẩm gỗ, 65% đối với sản phẩm may mặc, 50-60% đối với sản phẩm da giày.- Nhưng Ngân hàng Nhà nước tính toán sao với nhiệm vụ hỗ trợ xuất khẩu, đặc biệt khi diễn biến đồng đôla Mỹ trên thế giới còn nhiều ẩn số?
Tương tự, phá giá để có lợi ích cho xuất khẩu nông, lâm, thủy sản nhưng lại làm đông đảo bà con nông dân phải chịu giá cao khi mua phân bón, thuốc trừ sâu, các thiết bị, công cụ sản xuất nông nghiệp… Chưa kể đến một thực tế là hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bán ở mức giá thấp hơn nhưng năng lực cạnh tranh lại ở mức thấp do giá trị sử dụng không vượt trội, chất lượng hàng hóa thấp, ít có cải tiến, nâng cao phẩm cấp, mẫu mã, chất lượng... Với thực trạng này, việc điều chỉnh tỷ giá để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá có thể hỗ trợ xuất khẩu nhưng không nhiều.
Thứ hai, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam hiện nay lên tới trên 80% GDP, phản ánh sản xuất phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu. Như vậy, rõ ràng phá giá sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
- Ngoài lý do này, còn điều gì khiến Ngân hàng Nhà nước kiên quyết không nới "room" tỷ giá, dù áp lực được cho là sẽ rất lớn?
- Việc điều chỉnh tăng tỷ giá vượt biên độ định hướng đề ra sẽ làm gia tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ, ảnh hưởng tới việc kiểm soát nợ công khi đang ở sát ngưỡng 65% GDP. Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ với các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp cũng tăng. Về lạm phát, dù mức hiện tại trong tầm kiểm soát nhưng không thể chủ quan khi giá dầu tăng trở lại. Chưa kể lạm phát còn chịu tác động trễ của chính sách tiền tệ, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, cũng như xu hướng đang tăng trở lại của tín dụng đối với nền kinh tế.
Bên cạnh đó, tỷ giá được NHNN điều chỉnh tăng liên tục trong những năm qua (ngay cả thời gian đồng USD giảm giá, thì tỷ giá của VND/USD vẫn luôn được điều chỉnh tăng), mức điều chỉnh cao nhất là năm 2011 (tăng 9,3%), sau đó mỗi năm tăng từ 1-2% một năm. Bởi vậy VND không còn bị đánh giá quá cao như trước đây. Một nghiên cứu của nhóm chuyên gia IMF trong thời gian qua cũng cho thấy tỷ giá VND/USD hiện trong vùng phù hợp (aligment), chưa có dấu hiệu bị đánh giá sai (mis-aligment).
Từ đầu năm đến nay, hệ thống vẫn mua ròng ngoại tệ. Do đó, cách thức điều hành này sẽ tiếp tục khuyến khích các tổ chức và cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống các tổ chức tín dụng. Vì vậy, NHNN sẽ điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, tiếp tục theo dõi sát thị trường, sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp để ổn định tỷ giá trong biên độ cam kết từ đầu năm.
- Bà có thể giải thích thêm về hai lần điều chỉnh tăng tỷ giá trong 5 tháng đầu năm vừa rồi của Ngân hàng Nhà nước?
- Lần điều chỉnh 1% ngày 7/1 diễn ra ngay sau khi Nghị quyết chính phủ được ban hành để giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến của thị trường tiền tệ trong và ngoài nước. Ngay sau khi điều chỉnh tỷ giá, tâm lý thị trường được giải tỏa, các tổ chức và cá nhân tăng cường bán ngoại tệ cho các ngân hàng. Nhờ vậy, Ngân hàng Nhà nước mua được một lượng khá lớn ngoại tệ, bù đắp phần đã can thiệp bán ra dịp cuối năm 2014.
Từ tháng 3, đồng USD tăng mạnh trên thị trường thế giới. Ngày 7/5, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng nốt 1%. Quyết định này được đưa ra khi đồng USD thế giới quay đầu giảm giá sau khi Fed công bố thông tin về phiên họp chính sách tiền tệ nhằm chủ động, dẫn dắt thị trường, giúp các doanh nghiệp yên tâm khi điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình đến cuối năm 2015.
Thanh Thanh Lan (ghi)
TỶ GIÁ VÀ TÍN DỤNG LÀ 2 THÁCH THỨC LỚN
Bài của TRUNG CHÁNH/ TBKTSG 26/5/2015
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình giảng dạy Fulbright trình bày tại hội thảo chiều nay - Ảnh: Trung Chánh
(TBKTSG Online) - Tốc độ tăng trưởng kinh tế dù đã có sự cải thiện rõ nét hơn thời gian gần đây, nhưng vẫn đang tồn tại hai thách thức vĩ mô lớn, đó là chuyện biến động tỉ giá trong ngắn hạn từ nay đến cuối năm, và tín dụng cho sản xuất trong trung hạn, theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Thành.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại TPHCM, đặc biệt nhấn mạnh hai thách thức này tại buổi tọa đàm “Giải pháp tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp và xây dựng tổ chức hội, phát triển phong trào doanh nhân trẻ khu vực phía Nam” được tổ chức tại Cần Thơ chiều nay (26-5).
Về chuyện tỷ giá, ông Thành cho biết, nếu tính từ thời điểm cuối năm 2012, thì so với đô la Mỹ hiện đồng yen Nhật mất giá khoảng 40%; đồng euro mất giá khoảng 20%; các loại tiền tệ khác trong khu vực ASEAN như đồng rupiah  Indonesia mất giá khoảng 35%, đồng đô la Singapore mất giá khoảng 12% và đồng baht của Thái Lan mất giá khoảng 6%. Trong khi đó, tiền đồng của Việt Nam hầu như không mất giá so với đô la Mỹ; nghĩa là đồng tiền Việt Nam "tăng giá" so với các đồng tiền kể trên.
“Trong năm 2015, Ngân hàng Nhà nước cam kết chỉ điều chỉnh tỷ giá tối đa 2% và cho đến thời điểm này đã điều chỉnh hết 2%, trong khi sức ép mất giá của các loại tiền khác so với đô la Mỹ vẫn diễn ra. Do đó, sức ép của tỷ giá sẽ vẫn còn tồn tại từ nay cho đến cuối năm,” ông Thành nói.
Còn trong trung hạn, vấn đề tín dụng cho doanh nghiệp sẽ là một thách thức, có ảnh hưởng lớn đến sự phục hồi của nền kinh tế.
Theo ông Thành, trong quá khứ tín dụng tăng ở mức 20-30% hàng năm, nhưng lạm phát cũng dao động từ 15-18%, cho nên tính theo giá trị thực, mức tăng tín dụng này không phải là mạnh. Còn trong năm 2014, tín dụng tăng 15%, nhưng lạm phát ở mức khoảng 2%, cho nên rõ ràng tín dụng cho nền kinh tế tăng cao, chứ không phải là thấp, ông Thành nhận xét.
Tuy nhiên, theo ông Thành, vấn đề đáng quan tâm hơn nằm ở đằng sau con số tăng trưởng tín dụng này.
Thứ nhất, thị phần tín dụng dành trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã giảm xuống. Cụ thể, nhiều năm trước đây, tỷ lệ tín dụng phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh chiếm khoảng 90% so với tổng mức tín dụng; đến thời điểm bùng nổ chứng khoán và bất động sản cách nay 5-6 năm, tỉ lệ này đã giảm xuống chỉ còn khoảng 65%; và thời gian gần đây, dù tín dụng tăng nhưng vốn dành trực tiếp cho sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 66%.
“Có nghĩa là cứ 100 đồng tín dụng được đưa ra thì có 34 đồng phục vụ cho các hoạt động phi sản xuất và 66 đồng trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh so với con số 90 đồng trước đây,” ông Thành cho biết.
Một vấn đề khác nằm đằng sau con số tăng trưởng tín dụng là nguồn vốn mà ngân hàng đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Theo ông Thành, trong tình hình ngân sách eo hẹp, từ năm 2012 các chương trình phát hành trái phiếu Chính phủ có quy mô rất lớn, riêng năm 2014 là trên 15 tỉ đô la Mỹ và kế hoạch trong năm 2015 này mặc dù có giảm nhưng cũng khoảng 11,5 tỉ đô la Mỹ. Một số ngân hàng thương mại lớn có mức độ đầu tư vào trái phiếu rất lớn, thậm chí cao hơn so với tín dụng cho doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh. “Đây là thách thức trong trung hạn trong vấn đề tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp sản xuất, khôi phục nền kinh tế,” ông nói.
Xem thêm:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét