CHA TÔI KHÔNG BAO GIỜ BIẾT VÌ SAO MÌNH LÀ NGƯỜI ĐƯỢC LỰA CHỌN
Bài pv của LAN HƯƠNG trên ANTG 23/4/2015
Chưa bao giờ, trong những cuộc trò chuyện, tôi hỏi Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành những câu hỏi thẳng thắn, sòng phẳng, thậm chí đôi khi có thể khá khó chịu về cha ông - cố Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn như trong buổi trò chuyện này. Và ông đã đáp lại bằng sự thẳng thắn thậm chí còn vượt cả sự chờ đợi của tôi.
40 năm sau ngày đất nước thống nhất, có lẽ đây là thời điểm hợp lý hơn bao giờ hết để hiểu thêm một phần về cố TBT Lê Duẩn và những đóng góp của ông trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...
- Phóng viên: Thời điểm năm 1957, khi Bác Hồ mời ông Lê Duẩn từ miền Nam ra miền Bắc và được Trung ương bố trí làm Tổng Bí thư, đã có rất nhiều người bất ngờ. Khi đó, ai cũng đinh ninh rằng một số đồng chí có uy tín cao ở miền Bắc và là những học trò xuất sắc của Bác sẽ được chọn vào vị trí đó. Nhưng cuối cùng, cha ông lại là người được chọn. Có bao giờ, lúc còn sống, cha ông kể cho ông nghe về lý do của quyết định ấy?
- Tiến sĩ Lê Kiên Thành: Đối với cha tôi, đó mãi mãi là một câu hỏi cho đến tận cuối đời. Cha tôi từng tâm sự với tôi rằng, thật ra cho đến trước thời điểm ông ra miền Bắc năm 1957, ông là một trong những người ít gần Bác Hồ nhất. Cha tôi hoạt động cách mạng suốt từ Bắc vào Nam. Nhưng ông chưa từng gặp Bác trước đó cho đến lần gặp đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cha tôi trở về từ nhà tù Côn Đảo. Ông ra Bắc gặp Bác Hồ ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, ông là người “cãi” lại Bác trong nhiều chuyện.
Cha tôi kể lúc đó Bác Hồ đã nhìn ông với ánh mắt đầy ngạc nhiên, bởi xung quanh hầu như mọi người đều nhất mực nghe Bác. Chính cha tôi cũng không biết, buổi gặp đầu tiên đó, ấn tượng của Bác dành cho ông là thế nào. Nhưng với tính cách của cha tôi, ông không bao giờ ngại những điều đó.
Năm 1948, Bác Hồ và Trung ương cử ông Lê Đức Thọ vào miền Nam chấn chỉnh Xứ ủy Nam Kỳ vì đã có những hoạt động khác với đường lối chung của Trung ương Đảng chỉ thị. Và có thể sẽ bố trí ông Lê Đức Thọ làm Bí thư Xứ ủy.
Suốt 5 ngày đầu tiên khi ông Lê Đức Thọ thay Trung ương phê bình Xứ ủy, nhiều người trong Xứ ủy xôn xao bàn tán, nhưng cha tôi ngồi im ghi chép tất cả ý kiến của Trung ương. Hai ngày cuối cùng, ông mới nói. Ông giải thích tất cả những việc Xứ ủy làm, tại sao làm, kết quả như thế nào. Sau hai ngày đó, ông Lê Đức Thọ đứng lên đánh giá ghi nhận việc làm của Xứ ủy Nam Kỳ và nói một câu cuối cùng trước khi kết thúc hội nghị: “Tôi sẽ xin phép Bác Hồ ở lại làm phó cho anh Ba”.
Tôi không biết bằng cách nào, cha tôi, sau hai ngày nói chuyện, đã thuyết phục được ông Sáu Búa (tên gọi thân mật của ông Lê Đức Thọ) - một người nổi tiếng cứng rắn có thể thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của mình.
Năm 1955, khi bộ đội và cán bộ cách mạng tập kết ra Bắc, cha tôi xin Bác ở lại miền Nam. Ngày chia tay, cha tôi nói với ông Lê Đức Thọ một câu: “Anh ra báo cáo với Bác, không phải hai năm, mà có thể phải hai mươi năm nữa, tôi mới được ra gặp Bác”. Ngay thời điểm mà nhiều người ở cả miền Nam và miền Bắc vui mừng về Hiệp định Genève, chúng ta đã biết, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, không bao giờ chỉ là hai năm. Cha tôi nói ông đã khóc rất nhiều khi nhìn những gia đình miền Nam trước khi ra Bắc tập kết đã giơ hai ngón tay - hẹn 2 năm sau gặp lại...
Nhưng sau khi ông Lê Đức Thọ ra, miền Bắc vướng phải sai lầm trong cải cách ruộng đất. TBT Trường Chinh xin từ chức. Lúc đó Trung ương đang tìm người thay thế ông Trường Chinh. Như lời ông Lê Đức Thọ sau này kể lại thì ông chính là người đề cử cha tôi với Bác Hồ. Ông Lê Đức Thọ nói: “Thời điểm này, với những nhiệm vụ cách mạng được đặt ra, không ai xứng đáng hơn là anh Ba”. Có lẽ, việc cha tôi là người gắn bó hơn cả, hiểu cách mạng miền Nam hơn cả, là một trong những nguyên nhân ông được Bác gọi ra Bắc.
Thế nhưng lúc đó cha tôi lại nghĩ rất khác. Ông nghĩ rằng, nếu nói ông là người hiểu miền Nam, thì tại sao không để ông ở lại? Mà ông thì vô cùng muốn ở lại sát cánh cùng đồng bào miền Nam. Cha tôi từng kể, thời điểm đó, ra miền Bắc là điều ông không muốn, vì cách mạng miền Nam còn bao việc bề bộn, số phận của cách mạng miền Nam có nguy cơ đi đến hồi chấm hết, khi mà Mỹ - Ngụy đi đến từng thôn ấp tìm diệt những cán bộ cách mạng còn ở lại, trong khi chúng ta, vì tôn trọng cam kết Hiệp định, đã không thể vũ trang chống lại. Nhưng dù ông tha thiết xin ở lại, Bác Hồ lại vô cùng cương quyết. Bác đã đánh 3 bức điện vào miền Nam yêu cầu cha tôi ra.
Sau này, cha tôi nhận ra rằng, việc ông được điều ra là đúng. Bởi vì ra là đấu tranh để đi đến thống nhất về đường lối cách mạng miền Nam.
- Liệu khi ra miền Bắc, cha ông có phải đối mặt với khó khăn?
- Thời điểm cha tôi ra, ảnh hưởng của cải cách ruộng đất đến uy tín của Đảng vẫn còn nặng nề. Bác Hồ đề nghị cha tôi là Bí thư thứ nhất, kiêm chức vụ khác. Nhưng cha tôi nói: “Thưa Bác, tôi đề nghị Bác bố trí các đồng chí khác cùng gánh vác”. Sau khi tính toán kỹ, Bác cùng Trung ương sắp xếp ông Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội, ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng.
Trong sâu thẳm, cha tôi nghĩ rằng, sẽ là không công bằng với ông Trường Chinh khi một mình ông phải chịu trách nhiệm toàn bộ cho những sai lầm cải cách ruộng đất, nhất là với những công lao, những cống hiến của ông cho cách mạng - người vào sống ra chết với cách mạng Việt Nam suốt từ những năm 1930 đến giờ.
Đề nghị đó của cha tôi cùng những quyết định sáng suốt của Bác đã khiến những nguy cơ xung đột trong lãnh đạo Đảng, như một số người lo ngại không xảy ra. Sự thay đổi lớn về vị trí lãnh đạo này đã không tạo ra những mâu thuẫn, mà ngược lại đã khiến trong những người đứng đầu của Đảng có sự đoàn kết cao, trừ những khác biệt trong quan điểm về đường lối cách mạng sau này về chủ trương thống nhất đất nước bằng con đường đấu tranh vũ trang hay không?
- Tôi được biết Nghị quyết 15 được khởi thảo từ khi cha tôi còn chưa ra Bắc. Ông Hoàng Tùng cùng ông Võ Nguyên Giáp là người khởi thảo bản nghị quyết đó. Nhưng nội dung Nghị quyết 15 cuối cùng chỉ được hoàn thành sau hai năm, với không biết bao nhiêu cuộc họp và tranh luận để đi đến thống nhất.- Nói về ảnh hưởng của TBT Lê Duẩn với đường lối cách mạng miền Nam, Đại tướng Lê Đức Anh đã nói, Nghị quyết 15 được xây dựng trên nền tảng “Đề cương Cách mạng miền Nam” do cha ông soạn thảo. Có phải từ thời điểm đó, những quan điểm khác nhau về đường lối giải phóng miền Nam của TBT Lê Duẩn và một vài người khác đã bắt đầu thể hiện?
Nội dung quan trọng của bản Nghị quyết được đưa ra là vấn đề đường lối giải phóng miền Nam. Trong quá trình tranh luận, một bên ủng hộ thuyết hòa bình, cho rằng miền Bắc tự mạnh lên thì sẽ là tấm gương đầy thuyết phục với miền Nam, và miền Nam tất yếu sẽ đi theo chúng ta và cuối cùng đi đến thống nhất. Cha tôi thì ủng hộ quan điểm về con đường vũ trang cách mạng và cho đó là con đường tất yếu, không thể tránh khỏi.
- Và dường như đó là tư tưởng xuyên suốt của TBT Lê Duẩn trong giai đoạn chống Mỹ. Điều gì đã khiến ông cho rằng, đó là con đường tất yếu phải đi để giải phóng miền Nam?
- Cha tôi và nhiều người cho rằng, với một nước Mỹ mạnh như thế, một nước Mỹ chưa từng thua trong bất cứ cuộc chiến nào trước đó, nhất là một nước Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, thì không có một lý do gì Mỹ từ bỏ Việt Nam và để cho Việt Nam thống nhất trong hòa bình. Mà Mỹ đánh Việt Nam, là để đánh vào thành trì của Chủ nghĩa xã hội, chứ không riêng gì Việt Nam.
Những khác biệt về quan điểm đấu tranh đã khiến Nghị quyết 15 chỉ được thông qua sau 2 năm trời. Tôi nghe nói, chưa từng có một hội nghị Trung ương nào dài đến như vậy. Có những Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ ra miền Bắc, nghỉ lại tại chính nhà tôi, chỉ để hàng tháng chờ đợi kết quả của hội nghị đó.
Có lần cha tôi kể, khi đó những người bạn lớn của Việt Nam đã cảnh báo chúng ta: Khi mà các đồng chí chưa đủ lực lượng, các đồng chí tiến hành cuộc chiến tranh miền Nam, không những không giải phóng miền Nam được mà còn có khả năng mất luôn cả miền Bắc. Các đồng chí có biết Thế chiến 3 có thể bắt đầu từ chính cuộc chiến này? Nghĩa là áp lực từ các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam lúc đó là vô cùng khủng khiếp. Mà chúng ta đương nhiên rất khó chiến đấu với một nước mạnh như nước Mỹ mà không có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Khi mà trong nội bộ Đảng đã thống nhất được - sau 2 năm về đường lối giải phóng miền Nam, thì Bác Hồ giao cho cha tôi sang thuyết phục những người bạn lớn, nhưng họ không đồng ý việc ta sử dụng con đường vũ trang cách mạng, vì họ đều nghĩ rằng nước Mỹ là một thế lực khủng khiếp mà Việt Nam không thể cản được.
Có một lần cha tôi đi sang và một đồng chí lãnh đạo của nước bạn đã nói với cha tôi trong hội đàm: “Các đồng chí sẽ không bao giờ thắng được Mỹ. Mỹ mạnh đến mức chúng tôi còn phải ngại thì Việt Nam không có cách gì thắng Mỹ”. Lần đầu tiên mọi người chứng kiến cha tôi đập bàn, nói rất gay gắt với đồng chí lãnh đạo nước bạn. Cha tôi kể lại câu chuyện vui rằng, sau khi miền Nam giải phóng, cha tôi gặp lại ông ta, mặt ông ta buồn rười rượi, bởi ông ấy nhớ tất cả lời ông đã nói với cha tôi trước kia.
Cha tôi, với sự chỉ đạo của Bác Hồ đã bằng mọi cách, để tiến dần từng bước thuyết phục để các nước này phải ủng hộ mình.Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thế giới đã nhìn thấy hình ảnh những con người nhỏ bé của một dân tộc nhỏ bé, nhưng yêu tha thiết đất nước mình, chống lại một nước Mỹ hùng cường. Nên khi đó, thế giới dấy lên một sự ủng hộ với Việt Nam. Họ cho rằng người nào ủng hộ Việt Nam chiến đấu thì người ấy là người tốt. Đó là một thứ tình cảm rất khó cưỡng lại. Và chính việc chúng ta làm đã ngày càng giúp nước Bạn lớn nhận ra rằng Việt Nam có khả năng chiến thắng, hoặc ít nhất là khả năng cầm cự lâu dài. Và khi Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, thì chính họ, những người bạn lớn của chúng ta rất có lợi.
- Con đường mà cha ông và Đảng ta tin tưởng và lựa chọn là con đường mà như chúng ta đã biết, đã giúp đất nước thống nhất. Nhưng chúng ta phải hy sinh nhiều xương máu. Tôi từng nghe những ý kiến cho rằng sự cứng rắn của Trung ương mà đứng đầu là Bí thư thứ nhất đã khiến cho chúng ta phải trả giá quá nhiều cho chiến thắng đó. Tướng Westmoreland của Mỹ cũng từng nói về điều đó.
- Những bài học và kinh nghiệm về chiến thắng giải phóng miền Nam đã được chúng ta tổng kết nhiều rồi, tôi có nói cũng không bao giờ đủ. Nhưng về vấn đề này, tôi nghĩ như hai miền Nam - Bắc Triều Tiên bây giờ chưa thống nhất, thì đến sau này thống nhất, điều gì sẽ xảy ra với họ - tôi không hình dung ra được! Liệu nó có bi thương hơn sự chết chóc mà chúng ta từng phải gánh chịu hay không, khi mà bóng ma của một cuộc chiến tranh nguyên tử luôn đe dọa họ? Chúng ta đều không thể nói trước được!
Tôi cũng thường nghĩ về việc nếu đất nước mình không lựa chọn con đường đấu tranh vũ trang, nếu chúng ta chưa thống nhất, thì điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì? Điều đó chúng ta cũng không thể mường tượng được. Nhưng tôi tin rằng, đất nước Việt Nam thống nhất hôm nay là giấc mơ của rất nhiều người Triều Tiên, nhất là những người phải chịu cảnh gia đình ly tán về sự chia cắt đó.
Một lần tôi sang Hàn Quốc, một ông Đại biểu quốc hội Hàn Quốc đã nói với tôi thế này: “Về kinh tế, các ông có thể thua chúng tôi 30 năm, nhưng về thống nhất đất nước, chúng tôi cách các ông không biết bao nhiêu năm!”.
Chắc chắn những người lính đã nằm lại trên chiến trường miền Nam sẽ cảm thấy sự hi sinh của mình cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cho một nền tảng để chúng ta dựng xây tương lai là xứng đáng và tự hào. Nếu không có những sự hi sinh đó, có thể trong tương lai sẽ có những sự hi sinh gấp vạn lần như vậy.
Giống như ta không thể nói vua Quang Trung đã hi sinh bao nhiêu người để giành lại đất nước? Và đất nước này có đáng để giành lại hay không?
Giống như ta không thể thắc mắc tại sao các vị Vua nhà Trần phải lãnh đạo nhân dân 3 lần chống lại vó ngựa của quân Nguyên Mông mà không đầu hàng để bảo vệ tính mạng của người dân?
Nói thế là vô cùng vô nghĩa!
Khi phải chống lại một nước Mỹ mạnh hơn chúng ta cả trăm lần, sự hi sinh là không thể tránh khỏi. Chính người Mỹ cũng từng nói, họ nghĩ đáng lẽ ra người Việt Nam sẽ phải đổ máu nhiều hơn thế cho độc lập này, khi mà bom đạn Mỹ đã đổ vào miền Nam trong mấy chục năm chiến tranh như thế.
Cái suy nghĩ của nhiều người bây giờ cho rằng sự hi sinh của những người lính cho độc lập dân tộc, là một sự hi sinh không xứng đáng - đó là một sự phản bội, một sự vô ơn với người đã khuất.
Tôi tin Tướng Westmoreland không hiểu hết nước Mỹ. Nếu đặt nước Mỹ trong hoàn cảnh bị xâm lược như chúng ta, ví dụ như người ngoài hành tinh xuất hiện và đe dọa họ chẳng hạn, thì trong hoàn cảnh đó, tôi tin, sẽ có không ít người Mỹ xả thân để bảo vệ đất nước họ. Mà, để đạt được mục đích là chiến thắng, nước Mỹ đã từng ném hai quả bom nguyên tử xuống nước Nhật, nên Westmoreland càng không có lý do để nói câu này.
- Ông có biết có quyết định của TBT Lê Duẩn đến giờ vẫn gây tranh cãi. Như cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 chẳng hạn...
- Nói về Tết Mậu Thân năm 1968, chúng ta sẽ phải nhớ đó là thời điểm Westmoreland đề nghị Mỹ tăng gấp đôi số lượng quân Mỹ tại Việt Nam lên 1 triệu quân và đưa chiến tranh ra miền Bắc. Khi đó Chính phủ Mỹ đang đứng giữa hai lựa chọn hoặc là tăng quân viện trợ, tiếp tục cuộc chiến, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, hoặc dần rút khỏi chiến tranh Việt Nam.
Nếu chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, nếu ta mất Hải Phòng, mất Quảng Bình, nghĩa là mất tất cả những con đường chi viện cho miền Nam thì đó sẽ là điều vô cùng tồi tệ. Và cú đánh Tết Mậu Thân - một trận chiến tổng lực, đánh vào cả Đại sứ quán Mỹ và Dinh Độc Lập đã làm người Mỹ choáng váng. Cú đánh đó đã khiến người Mỹ quyết định ngồi vào bàn đàm phán và tính đến phương án rút quân khỏi Việt Nam. Tức là cuộc chiến đã bẻ ngoặt sang một hướng khác hoàn toàn có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Chúng ta đã phải trả giá không ít cho bước ngoặt ấy. Nhưng sẽ phải đặt một vấn đề như thế này: Chúng ta sẽ trả giá cho đợt tổng tấn công đó, hay chúng ta sẽ trả giá cho hai mươi năm nữa, hoặc thậm chí lâu hơn mới giải phóng miền Nam? Có gì đảm bảo sự trả giá lâu dài đó sẽ bớt đắt đỏ hơn?
Khi tôi ngồi với ông Võ Văn Kiệt trong một cuộc trò chuyện thân mật, ông nói: “Chú nói thật với mày, chú thấy đánh Mậu Thân là xác đáng, là phải đánh bằng được. Chú chỉ không hiểu tại sao lại đánh đợt 2, đợt 3, vì khi đó yếu tố bất ngờ, bí mật không còn”. Thú thật tôi đã rất hoang mang khi nghe điều đó. Nhưng tình cờ, khi xem bộ phim tài liệu về ông Phạm Xuân Ẩn, tôi đã biết được một chi tiết. Ngay sau đợt tấn công đầu tiên, ông Ẩn chuyển một tài liệu mật ra Hà Nội mà ông Ẩn cho rằng vô cùng quan trọng, đó là nội dung bức điện của Johnson gửi Westmoreland, lệnh cho bằng mọi giá không thể để xảy ra chuyện tương tự. Chính vì nắm được bức điện đó, mà chúng ta phải có cuộc tấn công đợt 2, đợt 3. Đó là lý do người Mỹ đồng ý ngồi vào bàn đàm phán. Việc biết được tài liệu này khiến tôi càng tự tin hơn vào những quyết định của Trung ương và cha tôi trong Tết Mậu Thân. Và càng hiểu điều đó, tôi càng trân trọng những người lính đã hi sinh vì đại cục.
- Và sau 20 năm trời lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, với bao nhiêu mất mát đó, cha ông đã đón nhận tin thống nhất như thế nào?
- Lúc 11 giờ 30 phút, khi nhận được điện thoại báo tin từ Bộ Tổng Tham mưu, cha tôi không nhảy cẫng lên vui mừng như nhiều người khác. Nhưng khi đó ông đã gọi chú Phú - người cần vụ lâu năm của ông châm cho ông một điếu thuốc. Đó là điếu thuốc đầu tiên ông hút sau 20 năm ra miền Bắc. Đó là lần đầu tiên sau 20 năm, ông cho phép mình làm một điều rất cá nhân, một điều có hại đến sức khỏe - chỉ hút một điếu thuốc mà thôi!
Lan Hương (thực hiện)
NẾU CHA TÔI LÀ NGƯỜI ĐỘC ĐOÁN
Bài pv của LAN HƯƠNG/ ANTG 3/5/2015
Tiếp theo phần I cuộc trò chuyện với Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành về người cha - cố Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn và những quyết định của ông liên quan đến cách mạng miền Nam, Chuyên đề ANTG Cuối tháng xin giới thiệu với bạn đọc phần II cuộc trò chuyện này, khi TS Lê Kiên Thành đã thẳng thắn đối diện và trả lời sòng phẳng về những nhận định, cả những nhận định thiện chí và không thiện chí về cố TBT Lê Duẩn.
- Phóng viên: Khác với một số nhà cách mạng nổi tiếng khác, cố TBT Lê Duẩn là người không có nhiều cơ hội học hành. Có bao giờ điều đó làm giảm sự sáng suốt của ông trong những quyết định lớn của đất nước?
- Tiến sĩ Lê Kiên Thành: Thật ra tri thức của con người là một sự tích lũy tổng thể. Tri thức của cha tôi, không đến nhiều từ học hành, nhưng đến một phần từ tình yêu nước, một phần từ sự sáng tạo và từ kinh nghiệm của ông. Tri thức của ông đến từ những lần lăn lộn từ Bắc chí Nam đấu tranh cách mạng, từ hết nhà tù này cho đến nhà tù khác, tiếp xúc với đủ loại người, va chạm với không biết bao nhiêu sự kiện. Và một điều quan trọng là cha tôi không bao giờ ngừng suy nghĩ. Suốt đời ông, trong tất cả những câu chuyện với con cái, hầu như không có những lời nói đùa. Điều mà ông luôn nghĩ, cái mà ông luôn nói với tôi, là những câu chuyện về đất nước, về con người. Trong tất cả các quyết định cha tôi đưa ra khi còn làm Tổng Bí thư, từ chuyện giải phóng miền Nam cho đến chiến tranh biên giới phía Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, cha tôi đã quyết định những việc đó với lòng yêu nước đến tận cùng.
- Khi nhìn lại quãng thời gian ông Lê Duẩn ra miền Bắc rồi trở thành TBT trong suốt 26 năm, nhiều người nói ông đã tìm cách củng cố dần dần quyền lực về mình?
- Nếu cha tôi là người như thế, thì đã không có chuyện ông năm lần bảy lượt xin ở lại miền Nam. Sẽ không có chuyện, ông đề nghị với Bác Hồ và Trung ương phân công ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng giữ chức Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ.
Nhưng có những người, có thể vì không đủ thiện chí, hoặc cũng có thể vì không đủ thông tin mà không hiểu và có cái nhìn sai về lịch sử. Khi ông Võ Nguyên Giáp được phân đi phụ trách công tác kế hoạch hóa gia đình, nhiều người nói, cha tôi và ông Võ Nguyên Giáp có hiềm khích vì ông Võ Nguyên Giáp là người tài. Trước hết theo tôi, việc tung tin như thế là ý đồ của kẻ xấu nhằm chia rẽ nội bộ của Đảng. Và thực tế, theo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cha tôi đâu phải là người có quyền lực tuyệt đối. Mọi quyết định lớn của đất nước đều phải có sự nhất trí của tập thể Bộ Chính trị cơ mà. Nhà báo Lương Bích Ngọc trong một bài phỏng vấn cách đây mấy năm trên Báo Vietnamnet, cũng không ngần ngại hỏi tôi về mối quan hệ của cha tôi và ông Giáp. Nguyên văn câu trả lời của tôi là thế này: Ông Võ Nguyên Giáp đã từng đến gặp riêng cha tôi và nói: “Cuộc đời cách mạng của tôi có được một phần lớn là nhờ anh Ba”.
Cha tôi chưa bao giờ thích thể hiện mình là người có quyền lực. Hầu như mọi cuộc tiếp xúc quốc tế, tôi được biết, ông đều phân công cho ông Phạm Văn Đồng. Thế nên có những giai đoạn, chính những người Mỹ cũng đã không nhận ra rằng cha tôi mới chính là người nắm vai trò lớn trong việc hoạch định chính sách cho cuộc chiến tranh ở miền Nam. Và sau này có người Mỹ nói với tôi, đó là một trong những lý do khiến họ thất bại.
- Nếu giờ tôi hỏi ông, cố TBT Lê Duẩn có phải là một nhà lãnh đạo độc tài, ông sẽ nói...
- Chắc chắn không! Tôi không tin, những người mang tính độc tài lại có thể sáng tạo trong tư duy và đường lối lãnh đạo. Có thể có người nói cha tôi độc tài. Nhưng thời điểm đó, những người xung quanh cha tôi đã được cháy sáng hết mình nhất vì đất nước. Nếu có sự độc tài của cha tôi, hẳn là họ không bao giờ có cơ hội đó. Nếu cha tôi là người độc tài, liệu chúng ta có được sự đồng thuận trên dưới để đi đến ngày đất nước thống nhất? Như người ta vẫn nói Lý Quang Diệu là nhà độc tài, nhưng tôi không nghĩ thế. Đôi khi người ta dễ bị nhầm lẫn giữa sự cương quyết và độc tài. Khiến Singapore trở thành một đất nước năng động như bây giờ, mà bảo ông ấy là người độc tài thì tôi thấy thật khó thuyết phục.
Đến giờ, nếu bảo đất nước chúng ta làm cách nào để tạo ra một lớp lãnh đạo như lớp lãnh đạo thời điểm đó với sự sáng suốt, sự hi sinh đến tận cuối đời, có lẽ rất khó. Cứ nhìn vào gia đình họ, con cái họ, là có thể hiểu sự hi sinh của họ.
Rất nhiều người có thể hi sinh bản thân mình nhưng không sẵn sàng hi sinh con cái. Còn những người đó, họ đương nhiên đã hi sinh bản thân mình, hi sinh gia đình mình, con cái mình.
- Tôi cho rằng, lịch sử, dù “lười biếng”, cuối cùng cũng phải đi đến đích. Nó có thể đến đích sớm hay đến đích muộn, nhưng thay đổi nó là điều không thể. Tôi tin rằng tất cả những tài liệu mà Trung ương chưa công bố, rồi đến một ngày sẽ công bố. Sẽ có ngày, chúng ta có cơ hội được hiểu rõ hơn về quá khứ.- Thế tại sao, ông Lê Duẩn không bao giờ viết hồi ký, để lịch sử sau này có cơ hội hiểu rõ hơn những việc ông làm?
Tôi may mắn được sống cạnh cha tôi, hiểu ông, và tôi có thể tự tin nói rằng cha tôi là người mà việc ông làm chỉ là bởi ông thấy đó là điều cần phải làm. Không bao giờ ông nghĩ đến những vụ lợi bản thân mình trong đó. Cha tôi là người không bao giờ nghĩ rằng, ở đâu đó ông phải nhắc lại những việc ông đã làm để người ta biết đến ông và biết rằng ông chính là người làm việc đó chứ không phải ai khác. Chính điều đó làm tôi tự tin rằng cái đó sẽ mãi là của ông .
Tôi nhớ có những lần sau khi nghe được những câu chuyện về lịch sử từ cha tôi, tôi đã nhiều lần thắc mắc với ông: “Nếu những chuyện như vậy mà mọi người không biết đến thì có xác đáng không?”. Cha tôi trả lời: “Cái quan trọng nhất là mình đã làm chuyện đó và mình đã được làm chuyện đó”. Với ông, chỉ cần được làm việc ông muốn làm, đó đã là hạnh phúc.
Cha tôi cứ nhắc đi nhắc lại mãi về câu chuyện một người bạn tù trước khi chết đã trăng trối với ông lúc còn ở trong nhà tù Côn Đảo: “Tao muốn làm cái gì cho Đảng quá. Mày có thể mặc cái áo này cho tao không? Cứ để tao chết trần truồng”. Nhưng cha tôi không chịu, dù với ông, cái áo đó, vào những năm tháng tù đày thiếu thốn đó, là vô cùng quý giá. Đó là câu chuyện mà ông nhớ mãi. Nó nhắc ông mãi mãi nhớ rằng, được hi sinh cho Dân tộc, cho Đảng là một hạnh phúc, chứ không phải là công lao. Người Cộng sản chân chính thì không cần kể công với đất nước. Vì rất nhiều người muốn hi sinh mà không được hi sinh.
- Vậy một người như cha ông, chỉ cần làm những gì mình cho là đúng và không bao giờ giải thích hay kể công, sẽ nghĩ gì khi nghe những lời không thuận tai từ dư luận, vì như tôi được biết, không phải bây giờ mà ngay từ thời đó đã có một số người không đồng tình với cha ông trong nhiều chuyện?
- Sau giải phóng, cuộc sống ở hai miền Nam - Bắc rất khó khăn. Có những người dân đứng trước cổng gia đình tôi nói: “Ông Duẩn ơi, người ta ức hiếp tôi này”. Hồi đó tôi đi chơi ở nhà một số người bạn, có những chuyện rất đau lòng. Ông bà, bố mẹ bạn tôi biết tôi là con ai, cứ cố tình nói bóng gió: “Dân tình khổ lắm! Có ai biết không?”. Tôi biết họ cố tình nói để cho tôi nghe. Tôi có mang điều đó về kể với cha tôi, và ông nói: “Những cái khó khăn nhất của dân tộc qua rồi. Những cái như bây giờ sẽ qua”.
Khi tôi quyết định ứng cử đại biểu quốc hội cách đây vài năm, tôi có đến hỏi ý kiến chú Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng. Chú ấy cho tôi lời khuyên và kể cho tôi câu chuyện giữa chú và cha tôi rằng, có lúc chú đến gặp ông, nói cho ông nghe nhiều chuyện trái tai, thậm chí đọc cho ông nghe cả bài vè về ông, nhưng ông rất bình thản. Nghe xong cả buổi sáng, ông bảo chú về ăn trưa, đến chiều lại đến nói tiếp. Thú thật, chú ngạc nhiên với sự bình thản của ông.
- Ông nói, việc ở cạnh cố TBT Lê Duẩn khiến cho ông có cơ hội nhìn thấu suốt và hiểu cha mình hơn rất nhiều người khác. Nhưng ông có nghĩ, sự gần gũi và mối quan hệ ruột thịt đó cũng có thể khiến ông nhìn cố TBT Lê Duẩn với một sự thiên vị nào đó?
- Tôi luôn cố gắng tách cá nhân mình ra để nhìn ông như một nhân vật lịch sử, chỉ khác là nhân vật lịch sử đó tôi được tiếp xúc nhiều hơn mọi nhân vật khác. Nếu tôi muốn tự huyễn hoặc mình, tôi sẽ không mất công tìm tòi những điều liên quan đến ông trong suốt cuộc đời mình.
Mặt khác, cũng có thể có những lúc tình cảm ruột thịt sẽ chi phối ở một mức nào đó những suy nghĩ của tôi về ông. Cái đó tôi luôn cố tránh, nhưng không dám khẳng định là tuyệt đối không có. Tôi vẫn nhìn thấy những thứ mà từ đó giúp tôi thấy cha tôi không phải người toàn bích. Nhưng nó khiến tôi hiểu, cha tôi dù sao cũng là một con người bình thường, có đúng, có sai, chứ không tuyệt đối hoàn hảo.
Nhưng có một điều khiến tôi tin vào những gì mà tôi nhận định về ông, là một người cha, có thể giấu giếm con người mình lúc ra ngoài xã hội, nhưng không thể lừa dối con cái mình. Và tôi đã quan sát ông cả cuộc đời. Nên tôi tin vào sự cảm nhận của tôi về ông.
Ảnh: Minh Trí - Đức Sơn
- Cũng giống như khi bạn hỏi sẽ là đúng hay sai nếu ta chọn con đường hòa bình, chứ không phải chọn con đường đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Tôi cũng sẽ lại lật ngược vấn đề thế này: Nếu chỉ dừng lại ở 1975, mà không giúp nhân dân Campuchia giải phóng dân tộc mình khỏi họa diệt chủng của Pôn Pốt, không thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, thì bây giờ đất nước sẽ thế nào? Tôi cần phải nhắc lại rằng khi đó, Campuchia, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược ở các tỉnh biên giới phía Nam và đe dọa, phá hoại thành quả của cuộc kháng chiến mà chúng ta đã phải hi sinh xương máu 20 năm trời mới giành được. Nên những nhận định của Huy Đức trong Bên thắng cuộc (chắc là bạn nhắc đến nhân vật này), tôi chỉ thấy sự thiên kiến và thiếu hiểu biết mà thôi.- Đến giờ vẫn không ít người cho rằng, cha ông, cố TBT Lê Duẩn là người phải có trách nhiệm với cuộc chiến tranh biên giới, cũng như những khó khăn, sai lầm mà ta mắc phải trước đổi mới. Và có người nói đại ý, nếu ông Lê Duẩn chỉ dừng lại ở thời điểm năm 1975, thì ông đã mãi mãi là anh hùng. Ông nghĩ gì về ý kiến ấy?
Cha tôi từng nói với tôi, đến 60 tuổi, ông sẽ nghỉ và ở nhà viết sách. Nhưng giải phóng miền Nam xong là lúc đất nước bộn bề, ngổn ngang, kinh tế khó khăn. Sau đó xảy ra chiến tranh biên giới phía Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc. Liên Xô và các nước Đông Âu thì rơi vào khủng hoảng. Đủ mọi sóng gió đến với chúng ta vào đúng thời điểm ấy. Lúc này cha tôi hiểu phải tìm ra một phương thức tồn tại mới cho xã hội mà từ sau giải phóng, ông đã nhận ra là những cái cũ đã không còn đúng, không còn phù hợp. Trong một bài viết trên Tạp chí Xưa và Nay, nhà nghiên cứu kinh tế Đặng Phong đã công bố những tư liệu về việc ngay từ những ngày đầu tiên sau giải phóng, khi Đại hội IV diễn ra năm 1976, cha tôi đã hình thành tư duy đổi mới. Bác Lê Đức Anh trong một bài viết cách đây vài năm, cũng đã nói về tư tưởng đổi mới của cha tôi từ thời điểm đó. Khi ấy, những ý kiến đổi mới của cha tôi đã được đưa vào văn kiện dự thảo. Chỉ tiếc là ông đã không thể làm được việc đó ngay tức thì, vì không dễ để có thể ngay lập tức thay đổi tư duy của cả một xã hội.
Khi ông Kim Ngọc làm khoán hộ ở Vĩnh Phúc, một đồng chí lãnh đạo chỉ đạo viết một bài phê bình trên Báo Nhân dân. Cha tôi đọc xong bài báo, đã ném xuống bàn, trước mặt ông Trần Quỳnh, nét mặt vừa châm biếm, vừa buồn rầu: “Các anh phải đọc bài báo này đi!”. Nhiều người có thể nghĩ cha tôi không ủng hộ ông Kim Ngọc. Nhưng ít ai biết hai ông đã ngồi ăn cùng nhau và nếu không có sự ủng hộ từ cha tôi, ông Kim Ngọc đã không còn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc.
Có thể có người nghĩ cha tôi là người nắm chức vụ cao nhất trong Đảng, tại sao lại không có quyền quyết định? Nhưng ông từng nói với tôi: “Đời ba đi làm cách mạng như đi làm dâu trăm họ. Đôi khi phải biết nhượng bộ người này điều này, để họ đồng ý với mình ở những việc khác lớn hơn mà có lợi cho đất nước, cho dân tộc. Có những lúc, chúng ta không còn cách nào khác là phải chờ đợi”. Theo tôi hiểu, nhiều người đã ủng hộ ông trong sự nghiệp thống nhất đất nước, thì bây giờ, ông phải chấp nhận nhượng bộ họ, chờ đợi họ thay đổi, để giữ được sự đoàn kết trong nội bộ. Đó cũng là một quy luật bình thường trong đổi mới tư duy thôi.
Có một sự thật rất buồn cười là bây giờ chúng ta phê phán bao cấp, nhưng ngày đó, những người muốn giữ bao cấp nhất chính là các cán bộ công chức nhà nước - những người sống bằng chế độ bao cấp. Nhiều người phê phán cuộc cách mạng Giá - Lương - Tiền. Nhưng giống như trận đánh Mậu Thân 1968 mà chúng ta đã phải hi sinh rất nhiều, Giá - Lương - Tiền cũng đã làm được một điều quan trọng là bẻ ngoặt tư duy của xã hội Việt Nam, buộc họ phải chấp nhận việc xóa bỏ chế độ mậu dịch. Liên Xô lúc đó đã rất cản trở kế hoạch này của chúng ta, vì họ cảm nhận được chúng ta đang thay đổi, đang đi theo một con đường khác. Đó là điều họ không hề mong muốn. Nhưng chúng ta vẫn quyết tâm làm đến cùng.
Đúng là chúng ta có thể đổi mới kinh tế sớm hơn, nhưng với những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt trong giai đoạn đó, thì việc mất 11 năm để chính thức bắt đầu đổi mới, tôi nghĩ nó không phải là một quãng thời gian dài với lịch sử một dân tộc.
Và, những người trung thực nhất với chính mình, nếu để viết ra một kịch bản khác cho quãng thời gian 11 năm sau giải phóng, với hoàn cảnh của đất nước khi đó, có thể sẽ có một kịch bản tốt hơn một chút, nhưng tốt hơn, hay hơn rất nhiều thì tôi tin là không có.
Ngay cả Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, khi họ muốn thay đổi nền kinh tế của họ, họ đã phải đi bước đầu tiên là thay đổi chính thể. Và kể cả khi đã thay đổi chính thể rồi, giá cả của họ cũng đã tăng lên cả nghìn lần. Tổn hại mà họ phải đánh đổi cho sự đổi mới là không kể xiết.
- Người ta đều mặc định khi ông là con trai Tổng Bí thư, gia đình ông là gia đình danh giá của Việt Nam thì bản thân gia đình ông sẽ có những quyền lợi mà nhiều người khao khát. Thậm chí, còn có những lời đồn về việc, cố TBT Lê Duẩn đã để lại cho con trai mình tài sản khá lớn. Tôi thực sự muốn biết, ông nghĩ gì về những lời đồn đó? Và sự thực thì gia đình ông được - mất gì từ vị trí mà cha ông đã nắm giữ?
- Tôi không bao giờ để ý đến những tin đồn ấy. Vì nó đến từ những người tôi chưa bao giờ gặp mặt. Những người đồng đội của tôi trong quân ngũ, những người bạn của tôi, những người từng cộng sự, làm ăn với tôi bao năm qua mà nói như thế mới là đáng lo. Với những người đã chứng kiến tôi từng phải đi ra chợ trời bán cả bộ quần áo mới của mình để mua sữa cho con, họ sẽ hiểu tôi đến tận cùng. Và đừng nói với tôi, chỉ cần những người đó thôi cũng đã thấy tin đồn đó kệch cỡm đến mức nào.
Còn mất mát? Khi đó, vì sự nghiệp cách mạng, mẹ tôi phải viết đơn xin ly dị cha tôi, nhưng Trung ương không đồng ý. Tuy nhiên, bà đã phải chấp nhận sống xa chồng con trong mấy chục năm trời. Tôi chứng kiến sự đau khổ của bà trong suốt mấy chục năm trời đằng đẵng và thương bà vô hạn vì bà đã phải hi sinh hạnh phúc của mình cho sự nghiệp mà cha tôi theo đuổi.
Anh em chúng tôi, cũng phải chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng việc được làm con của ông là cái được lớn nhất của chúng tôi. Cha tôi trước khi mất có nói với tôi rằng: “Ba chết đi có lẽ không để lại cho con một đồng xu nào. Có chăng là để lại cho con cái tiếng của ba”. Sau này tôi nghiệm ra rằng điều đó đúng vô cùng. Tôi đi làm kinh tế tư nhân từ hai bàn tay trắng. Cha tôi, đúng như lời ông nói, đã chẳng để lại một chút tiền bạc nào. Nhưng sau này, kể cả khi cha tôi đã mất mấy chục năm, thì cũng có những đối tác làm ăn, nếu vô tình biết tôi là con trai ông Lê Duẩn, tức khắc họ dành cho tôi sự kính trọng, tin tưởng, và tôi không giấu giếm một điều rằng, điều đó đã cho tôi nhiều cơ hội và thành công trên thương trường. Và đó là điều tôi vô cùng hạnh phúc và tự hào!
- Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Lan Hương (thực hiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét