Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

20150427. BÀN VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ

ĐIỂM BÁO MẠNG
DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
Bài của PHẠM ĐÌNH NHIÊN/ BVN 25,26,27/4/2015
Phần I - Dân Chủ - Cộng Hòa:
Hai tiếng dân chủ có nghĩa rất rõ ràng và đơn giản: Người dân làm chủ mình và làm chủ đất nước của mình. Ý niệm này bắt nguồn từ sự tham dự của người dân vào việc cai trị tại các quốc gia đô thị cổ Hy Lạp cách nay hơn 2.500 năm và hai chữ dân chủ cũng do tiếng Hy Lạp demos (dân chúng) và kratos (cai trị) tạo thành. Hai chữ demos kratos, châu Âu biến thành democracy và chúng ta dịch là dân chủ.
Về hình thức, Dân Chủ là một thể chế để thể hiện chế độ Cộng Hòa, một chế độ chủ quyền thuộc về toàn dân. Chế độ này đối nghịch với chế độ quân chủ xưa kia, trong đó ông vua đưọc phép (xức dầu theo đạo Do Thái) của Trời - Chúa Trời - cai trị dân chúng, còn ở Trung Hoa thì vua là con trời (Thiên Tử) được sai xuống cai trị muôn dân.
Vì vậy ông vua có quyền tối cao. Tất cả tài sản như rừng núí, sông ngòi, đất đai và dân chúng thuộc quyền sở hữu của vua, vua ban cho ai người ấy được; vua cho sống thì sống, vua bắt ai chết thì phải chết: “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung” (vua bảo chết, không chết là bất trung).
Theo nghĩa trên thì bất cứ chế độ nào mà người dân không có quyền quyết định vận mệnh của mình và của quốc gia đều không phải là chế độ Cộng Hòa và bất cứ chính quyền nào dưới quyền cai trị độc đoán của một người như Hitler ở Đức, Franco ở Tây Ban Nha; của một đảng như ở Liên Xô xưa kia, Trung Quốc hiện nay hay của một tập đoàn như tập đoàn quân phiệt ở Myanmar, ở Argentina đều là những chế độ độc tài: độc tài cá nhân, độc tài đảng trị, độc tài quân phiệt.
Để đánh lừa người dân và quốc tế, những chính quyền càng độc tài thì càng rêu rao là mình dân chủ. Những nước Cộng Hòa Chile thời Pinochet, Cộng Hoà Cuba, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Hoà Triều Tiên ... đều là những chế độ độc tài, rất độc tài.
Pinochet thủ tiêu hàng ngàn người lên tiếng đòi hỏi tự do; ở Trung Quốc người dân không được quyền ứng cử, những tiếng nói đối lập bị đàn áp quyết liệt: vụ biểu tình ở Thiên An Môn gần 3.000 người bị giết chết. Tất cả ứng cử viên đều phải được Đảng Cộng sản Trung Quốc chọn lựa rồi đưa ra cho dân bầu, quan trọng nhất là những kẻ nắm quyền từ xã thôn tới quận, huyện, tỉnh, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng... đều là những đảng viên cộng sản kế tiếp nhau cai trị dân chúng.
Cộng Hoà Cuba hay Cộng Hoà Triều Tiên là gia sản của hai vương triều nhà họ Castro (Fidel Castro truyền cho Raúl Castro) và họ Kim (Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Kim Chính Ân – Kim Il Sung, Kim Jong Il, Kim Jong Un).
Những chính quyền độc tài như vậy làm gì có tiếng nói của Dân Chủ, trong khi điều cốt yếu của chế độ Cộng Hoà là Dân Chủ. Nói cách khác, Dân Chủ là thể chế thực hiện chế độ Cộng Hòa, tức là thực hiện QUYỀN LÀM CHỦ của người dân:
- Người dân có quyền tự do hội họp để thảo luận những vấn đề liên quan tới công việc và tổ chức các cơ quan của làng xã, quận, huyện, tỉnh, quốc gia như giáo dục, giao thông (xây trường học, xây cầu, mở thêm đường) hay việc đóng thuế, đóng thuế để tiêu những gì, tổ chức chính quyền như thế nào...
- Người dân có quyền tự do phát biểu ý kiến để phản đối những sự bất công trong xã hội, sự lạm quyền của cảnh sát, sự sai lầm, sự vô tài bất lực, sự tham nhũng của những người cai trị dù đó là xã trưởng, quận trưởng, tỉnh trưởng hay tổng thống.
- Người dân có quyền đi bầu để loại bỏ những người đó ra khỏi chính quyền và thay vào đó bằng những người trong sạch, có tài, biết tôn trọng người dân...
- Người dân có quyền lên tiếng tranh luận trong hội họp hay đăng trên báo chí phản bác ý kiến, chính sách của Quốc hội, của Tổng thống mà chính quyền không có quyền bắt bớ hay trả thù.
Tóm lại, nếu Dân Chủ là điều cốt yếu của chế độ Cộng Hòa thì nhân phẩm, quyền tự do, quyền bình đẳng là điều cốt yếu của thể chế Dân Chủ. Chỉ có trong chế độ Cộng Hoà Dân Chủ nhân phẩm cao quý của con người mới được tôn trọng và bảo vệ; chỉ có trong chế độ Cộng Hoà Dân Chủ con người mới có bình đẳng, không bị kỳ thị, đàn áp, không phải cúi đầu trước cường quyền, trước chó săn, dùi cui, nhà tù và cũng chỉ có trong chế độ Cộng Hòa Dân Chủ con người mới có quyền sống, có quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do nghề nghiệp, tự do lên tiếng, tự do cư trú (không có chế độ hộ khẩu), tự do tôn giáo... không cần phải xin xỏ, trông chờ ai ban phát.
Tất cả những chính quyền tự xưng là Dân Chủ hay Cộng Hoà mà trong đó người dân không có tự do, bị đàn áp, bức bách, chà đạp, xúc phạm nhân phẩm thì những chính quyền ấy, dù danh xưng là gì, đều là chính quyền độc tài.
Phần II - Tình trạng Dân Chủ ở Việt Nam:
Từ 70 năm nay, các chính quyền ở Việt Nam luôn lớn tiếng tự nhận là chế độ Dân Chủ Cộng Hòa nhưng hai tiếng Dân Chủ, Tự Do vẫn còn là một huyền thoại, một cái gì xa vời, chưa bao giờ hiện thực. Chính quyền thì dùng nhãn Dân Chủ để lừa gạt, dân chúng thì cam phận.
Có lẽ vì vậy mà bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một học giả ở Hoa Kỳ đưa ra nhận xét đượm vẻ bi quan rằng Âu, Mỹ người ta có được một nền Dân Chủ tốt đẹp vì “Âu Mỹ vào tự do, dân chủ với lịch sử dân quyền ở Hellen (Hy Lạp), luật pháp của Roma (La Mã), với lời kêu gọi gạt bỏ quá khứ, với những tư tưởng của thế kỷ Quang Minh (Enlightenment, Lumière), và với khoa học bắt đầu với những cuộc cách mạng của Copernik, Galiléo. Trung Hoa và Việt Nam thiếu sự sửa soạn tri thức.” (Trần Ngọc Ninh, Ước vọng Duy Tân, Viện Việt Học xuất bản, tháng 11/2012, trang 29). Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà hoạt động dân chủ trong nước, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 2.03.2013 cũng đưa ra ý kiến tương tự.
Nếu nói rằng cần phải có sửa soạn đầy đủ tri thức mới có tự do, dân chủ thì không bao giờ người dân ở những nước độc tài chuyên chế (chuyên chính) đạt được vì luôn luôn những chính phủ độc tài, dù là cá nhân hay đảng, tập đoàn cầm quyền không những không cho có sự sửa soạn mà còn cấm đoán, giết chóc, bắt bớ những người có tư tưởng hay vận động cho Tự Do Dân Chủ; ngược lại, họ ru ngủ, hủ hoá dân chúng bằng rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, gây chia rẽ, khuyến khích sự lừa lọc, dối trá... làm dân chúng sa đọa, bạc nhược, làm xã hội băng hoại để dễ bề cai trị. Chính sách này thực dân Pháp đã đem áp dụng ở nước ta thời Pháp thuộc và nhà cách mạng Phan Bội Châu nêu rõ trong cuốn Cao đẳng quốc dân viết cách nay gần 100 năm.
Nhìn sang châu Âu như Nga, Đức, Tây Ban Nha, nhất là Hy Lạp và nước Ý (La Mã xưa), thì sự hình thành chính thể Dân Chủ không sớm sủa gì, nhất là nước Nga dù chế độ độc tài chuyên chính (chuyên chế) Cộng sản sụp đổ hai mươi mấy năm rồi mà người dân vẫn chưa được hưởng đầy đủ tự do, dân chủ. Hiện tại dưới sự cai trị của Putin, Hiến pháp Nga bị sửa đổi để Putin lên cầm quyền nhiệm kỳ 3, những người đối lập bị đàn áp, bỏ tù, thậm chí bị giết như cựu thiếu tá Litvinenko bị đầu độc bằng phóng xạ ở Anh hay nữ ký giả Anna Politkovskaia bị ám sát ngay tại nước Nga.
Nước Đức, trước khi đầu hàng Đồng Minh ngày 8.5.1945 nằm dưới chế độ phát xít của Hitler và chỉ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ độc tài đảng trị tại Đông Đức ngày 9/11/1989, thì cả nước mới có tự do, dân chủ.
Tây Ban Nha, sau khi nhà độc tài là tướng Francisco Franco chết năm 1978 mới có Hiến pháp chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến.
Hy Lạp, cái nôi của nền văn minh, dân chủ phương Tây và thế giới thì chế độ quân chủ chính thức bị giải tán năm 1975, sau khi chế độ độc tài của “các Đại tá” chấm dứt ngày 23.7.1974.
Trái lại ở châu Á, Nhật và Ấn, Phillippines đã thiết lập được nền Dân Chủ sớm hơn cả Nga, Hung, Tiệp, Ba Lan, Tây ban Nha, Hy Lạp...
Nhật có truyền thống quân chủ rất lâu đời. Nhật hoàng được người dân sùng bái tới mức độ cuồng tín thế mà sau khi bị hai trái bom nguyên tử tàn phá phải đầu hàng vô điều kiện 15.8.1945 thì trở thành một nước Dân Chủ. Hiến pháp hiện giờ do người Mỹ tới chiếm đóng ban hành, dân Nhật không có quyền soạn thảo, biểu quyết. Nhưng kể từ năm 1945 đến nay Nhật có một nền Dân Chủ vững vàng, tiến bộ nhất châu Á, người dân được bảo đảm về nhân quyền, quyền bình đẳng và các quyền tự do sinh sống, hội họp, tự do ngôn luận, báo chí, tự do tôn giáo...
Ấn là trường hợp đặc biệt. Đấu tranh dưới sự lãnh đạo của thánh Gandhi và luật sư Nerhu, Ấn được Anh trao trả độc lập năm 1947 với tình trạng đất nước bị phân hoá về tôn giáo, đẳng cấp, địa phương, ngôn ngữ; dân trí thấp kém, hơn 90% mù chữ, mê tín dị đoan, nghèo đói; công kỹ nghệ không có, nông nghiệp lạc hậu, đất ít người đông thế mà ông Nerhu và người Ấn đã vượt qua các trở ngại để thiết lập nền Dân Chủ vững vàng từ đó đến nay.
Như vậy Việt Nam có cần một giai đoạn chờ đợi để sửa soạn tri thức trong một, hai thế kỷ như châu Âu thế kỷ thứ 17, 18 (thời kỳ kỷ nguyên Ánh Sáng hay còn gọi là kỷ nguyên Lý Trí: Age of Enlightenment, Age of Reason) để có Tự Do Dân Chủ?
Qua những trình bày trên, yếu tố quyết định cho một nền Dân Chủ chưa hẳn do trình độ dân trí hay có lịch sử (truyền thống) Dân Chủ thừa hưởng của La, Hy. Trường hợp Đức, Ý, Tây Ban Nha, Nga và nhất là Hy Lạp tri thức, lịch sử Dân Chủ có đủ mà vẫn bị độc tài. Trái lại Ân, Nhật thì lại có nền Dân Chủ sớm và ổn định.
Không phải chỉ một yếu tố đơn thuần tạo ra nền Dân Chủ mà tùy thuộc vào:
- Văn hoá: trình độ dân trí cao, có ý thức và hành xử văn minh, biết dung hoà, tôn trọng ý kiến người khác.
- Lịch sử: đã từng trải qua Dân Chủ (nếu mất sẽ đấu tranh lấy lại).
- Chính trị: không bị ảnh hưởng, lệ thuộc vào nước khác.
- Kinh tế, xã hội ổn định – không phân hóa, chia rẽ về tôn giáo, địa phương. Và quan trọng hơn hết là
- Ý thức cao về quốc gia, dân tộc: đặt quyền lợi chung của quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân, phe, đảng,tôn giáo.
- Cuối cùng và không kém phần quan trọng là người lãnh tụ. Đó là trường hợp của Ấn Độ và cả nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Anh.
Nưóc Mỹ sau khi đạo quân 6.000 binh sĩ của Lord Cornwallis đầu hàng tại York Town, Virginia ngày 19/10/1781 là 13 xứ Độc Lập nhưng với biết bao nhiêu khó khăn, dân chúng thì tạp chủng, tứ xứ, nghèo đói, bệnh tật. Mười ba “Tiểu Bang” thì lớn nhỏ khác nhau, kinh tế, nông nghiệp, công nghệ phát triển chênh lệch tạo ra rất nhiều trở ngại trong việc thành lập một chính phủ chung.
Cuốn The Challenge of Democrcy Goverment in America của ba Giáo sư Đại học Kenneth Janda, Jeffrey M. Berry, Jerry Goldman mô tả tình trạng khi ấy ở Philadelphia: “Già nửa dân chúng sống nghèo khó. Gái điếm và bệnh tật lan tràn”. (“More than half population existed on edge of poverty. Prostitution and disease were widespread” – trang 80). Các xứ tranh chấp nhau, họp hành kéo dài làm các đại biểu chán nản lang thang tới các quán nhậu (tavern) đến nỗi đích thân ông Washington có lúc phải đi kiếm lôi cổ về họp.
Nếu không có ông Washington với uy tín và sự cương quyết thì chưa chắc hội nghị Lập Hiến đã thành công (“Still, if it were not for Washington, some historians believe, the convention would never have succeeded. His character and authority kept the convention from flying apart” – sách đã dẫn, trang 80). Và cũng chính với nhân cách cao quý, với lý tưởng dân chủ nhiệt thành, với sự nghiệp và uy tín của ông mà bản Hiến Pháp Dân Chủ đầu tiên trên thế giới đã ra đời tại nước Mỹ.
Cũng chính bản Hiến pháp không ghi Tổng Thống Hoa Kỳ được đảm nhiệm mấy nhiệm kỳ nhưng ông chỉ tái ứng cử một lần, tức làm Tổng thổng hai nhiệm kỳ, 8 năm, từ 1789 đến 1797. Thời hạn này được những Tổng thống kế tiếp noi theo và trở thành tập tục không những của nước Mỹ mà còn được phần lớn các nước Dân Chủ trên thế giới ghi trong Hiến pháp. (*)
So với Ấn Độ, dù sao thì dân chúng Mỹ từ châu Âu tới với văn hóa ảnh hưởng của Hy Lạp, La Mã, trình độ văn minh cao, nhất là những lãnh tụ cách mạng như George Washington, Thomas Jefferson, John Adams... là những trí thức mang nặng lý tưởng Dân Chủ do chịu ảnh hưởng của những triết gia John Locke (1632-1704), Francois M.A. Voltaire (1694-1778), J. J. Rousseau (1712-1778)... của thời kỷ nguyên Ánh sáng ở châu Âu.
Ấn, trái lại, ngoài dân trí thấp kém, hơn 90% mù chữ, nghèo khổ, lại bị phân hoá về địa phương, tôn giáo, ngôn ngữ, đẳng cấp... thế mà dưới sự lãnh đạo của ông Nehru và đảng Quốc Đại đã trở thành một nước Dân Chủ đầu tiên ở châu Á. Cũng chính gia đình này chi phối nền chính trị Ấn từ năm 1947 đến nay với ba đời làm Thủ tướng (Nerhu, con gái là bà Indira Gandhi, cháu là Rajiv Gandhi và cháu dâu Sonia – vợ góa Rajiv – làm Chủ tịch đảng Quốc Đại) nhưng cả thế giới không ai nói gia đình Nerhu là độc tài, là gia đình trị.
Cả gia đình ông để hết tâm trí phục vụ dân tộc Ấn, không tham quyền cố vị, không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ để vơ vét hay buôn bán làm giàu mà trái lại xả thân cho lý tưởng, cho quốc gia: Nữ Thủ tướng Indira Gandhi bị ám sát chết, Thủ tướng Rajiv Gandhi cũng bị ám sát chết.
Ấn Độ có những nhà lãnh đạo siêu việt cả về đạo đức, tư cách, tài năng và tận tụy hiến dâng.
Ngược lại, ông Tôn Dật Tiên làm cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 nhưng không xây dựng được nền Dân Chủ ở Trung Hoa. Sau khi nhà Thanh bị lật đổ thì nước này coi như thuộc về gia đình nhà vợ Tôn Dật Tiên (**) và các lãnh chúa tung hoành. Đúng hơn, sau chế độ quân chủ của nhà Thanh là chế độ phong kiến. Cho đến nay người dân lục địa Trung Hoa vẫn phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị và Đài Loan chỉ có bầu cử tự do sau khi Tưởng Kinh Quốc – con Tưởng Giới Thạch, cháu dượng Tôn Dật Tiên chết (Tôn và Tưởng là anh em rể).
Như vậy thì lãnh đạo (đạo đức, tư cách, tài năng, sự tận trụy) là yếu tố rất quan trọng trong việc xây dựng nền Dân Chủ của một quốc gia không những ở những nước kém phát triền như Trung Hoa, Việt Nam, Myanmar, Lybia, Tunisia... mà cả ở những nước phát triển như Nga, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Đức...
Xét về lịch sử, nếu tin vào huyền thoại, thì Việt Nam chúng ta có lịch sử Dân Chủ từ nhiều ngàn năm, có lẽ trước cả Hy Lạp vì Đại Việt sử ký tiền biên soạn thời nhà Nguyễn Quang Trung ghi rằng vào đời nhà Hùng, vua với dân cùng đi cày lấy lúa mà ăn, không sưu dịch, thuế khoá, không bắt lính tráng... Đó là thời đại thái bình, thiên đường nơi hạ giới. Vua không nắm quyền hành, chỉ tượng trưng cho sự thống nhất dân tộc.
Sự thật lịch sử là chế độ xã thôn tự trị chỉ bị xóa bỏ sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam.
Trong chế độ xã thôn tự trị, mỗi làng (xã) tự xếp đặt công việc nội bộ từ bảo vệ an ninh, ấn định thuế khoá, hội hè, cúng tế đến việc cưới hỏi... qua Hội Đồng Kỳ Mục là cơ quan lập ra hương ước (tựa như Hiến pháp) riêng cho xã mình, việc thi hành thì giao cho lý trưởng và phó lý. Vì thế phong tục, luật lệ của làng xã Việt Nam được người dân tôn trọng còn hơn cả phép tắc của vua chúa:
Phép vua thua lệ làng, hay:
Quan cần dân không vội,
Quan có cần quan lội quan đi.
Nhưng qua thời gian, nhất là ảnh hưởng càng ngày càng nặng nề của đạo Nho trải dài từ các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn rồi cả đến thời Pháp thuộc, thời nào cũng muốn xoá bỏ chế độ Xã Thôn Tự Trị để nắm hết quyền hành vào tay vua chúa, vào tay chính quyền thực dân làm cho định chế không thành văn ấy bị suy thoái chỉ còn cái xác không hồn và biến thành hương đảng, xôi thịt, bộ tộc.
Đó là cái hoạ của dân tộc trong mấy chục năm nay. Không phải chỉ có các đảng phái mà các đoàn thể, các tôn giáo cũng phần lớn mắc phải đầu óc hương đảng, phe phái đó.
Chính cái đầu óc hương đảng, phe phái làm cho dân tộc Việt Nam, dù đã thống nhất đất nước 40 năm, nhưng người dân vẫn chưa biết thế nào là Dân Chủ, Tự Do. Dù nền kinh tế Việt Nam đã đi theo kinh tế tư bản nhưng hầu hết dân chúng vẫn nghèo khổ vì bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt nhà cửa, ruộng đất, bị kỳ thị trong việc làm, việc sinh sống, bị đàn áp, tước đoạt hết các quyền tự do và nhân phẩm. Bao nhiêu quyền lợi, chức tước, cơ hội tốt đều thu về Đảng, đảng viên, những kẻ biết luồn lọt để làm giàu và nắm quyền cai trị.
Ghi chú:
(*) Sau khi TT thứ 32 là Franklin Delano Rosevelt (1882-1945) giữ 3 nhiệm kỳ từ 1933-1945 thì quốc hội Mỹ tu chính Hiến Pháp chỉ cho TT Mỹ giữ 2 nhiệm kỳ.
(**) Tống Giáo Nhân, cha vợ của Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch có 6 người con, người nào cũng là triệu phú thời ấy (tỷ phú bây giờ), tiêu biểu là Tống Tử Văn, luôn cặp kè bên Tưởng Giới Thạch, từng là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Ngoại giao...
Phần III - Chuẩn bị để xây dựng một nền dân chủ toàn dân:
Trước hết chúng ta phải học bài học của quá khứ. Trong chế độ quân chủ của đạo Nho, ý thức quốc gia không có hay có thì cũng mờ nhạt trước ý thức trung quân. Đến thời thực dân Pháp, ý thức về quốc gia, dân tộc lại càng bị thực dân tìm cách tiêu diệt triệt để. Sự chia cắt Việt Nam thành ba kỳ Bắc-Trung-Nam để hợp với Lào và Campuchia thành năm nước Đông Dương là nằm trong chính sách ấy. Ngoài ra, trong nội bộ mỗi kỳ người Pháp còn có những chính sách phân hoá khác về sắc tộc, địa phương, tôn giáo.
Hậu quả là ý thức về dân tộc, quốc gia bị suy giảm, không mấy ai còn nghĩ đến quyền lợi chung. Quyền lợi quốc gia bị lu mờ trước quyền lợi của địa phương, đảng, phe, nhóm, quyền lợi cá nhân.
Sự thật của chúng ta là như thế, có nhìn vào sự thật mới giải quyết được những vấn đề khó khăn của đất nước kéo dài đã quá lâu, Nhưng nói ra sự thật lại mất lòng, dù đó là lòng của quốc gia hay cộng sản, của các hội đoàn, đoàn thể hay các chính trị gia.
Hãy khách quan nhìn từ miền Nam.
Năm 1954, có biết bao nhiêu phe, phái, nhóm từ các đảng chính trị đến tôn giáo, địa phương ở miền Nam. Chính khách thì có nhóm Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Nam kỳ quốc; các đảng ngoài việc phân hoá thành các phe xứ ủy, tỉnh uỷ còn có phe phái của các lãnh tụ trong đảng; đạo Cao Đài, Hoà Hảo mỗi đạo có tới 3, 4 nhóm vũ trang chống đối nhau. Ngoài ra còn Công giáo, Phật giáo có những quyền lợi khác biệt. Trong tình trạng đầy phân hoá và tranh chấp ấy rất khó thiết lập nền dân chủ.
Ông Ngô Đình Diệm trông nhờ người Mỹ giúp tiền bạc, tổ chức, nhanh chóng thu phục các nhóm vũ trang của Cao Đài, Hoà Hảo và đè bẹp Bình Xuyên, Ba Cụt, các “mật khu quốc gia” ở Quảng Ngãi, Ba Lòng. Sau đó chỉ tạm ổn, mầm mống phân hoá vẫn còn đó khi bị kích thích hay có cơ hội lại bùng phát. Sau khi ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963, miền Nam với bao nhiêu phe, phái, tôn giáo, đảng, chính khách, quân đội náo nhiệt tranh chấp.
Miền Bắc có cả một chủ thuyết khống chế về chính trị và sách lược tiêu diệt, đàn áp khốc liệt của chủ nghĩa Marx-Lenin. Qua các đợt cải cách, thanh trừng, ở Liên Xô trên 20 triệu người bị giết, ở Trung Quốc 70 triệu, Bắc Việt Nam gần 2 triệu, Campuchia 1,5 triệu với dân số vào thời kỳ thanh trừng ở Liên Xô khoảng 200 triệu, Trung Quốc 650 triệu, Bắc Việt Nam 17 triệu, Campuchia 7 triệu, tất cả có một tỷ lệ khoảng 10, trên 10%.
Với một sách lược rõ ràng như thế, không thể nói đến dân chủ, tự do ở những nước do người Cộng sản cai trị, kể cả khi họ đã thay đổi từ kinh tế hoạch định Cộng sản sang kinh tế thị trường Tư bản (vì bên bờ sụp đổ), họ chỉ thay đổi kinh tế thôi, quyền lực và sách lược đàn áp họ vẫn nắm chặt.
Nhưng dù tàn bạo đến đâu cũng không tiêu diệt hết được những người chống đối. Bạo chúa Tần Thủy Hoàng giết được Kinh Kha, Cao Tiệm Ly nhưng nhà Tần không tiêu diệt được Hạng Vũ, Lưu Bang và hàng trăm hàng ngàn người nổi lên chống đối nên triều đại kinh hoàng này chỉ kéo dài được 15 năm ( 221-207 TCN). Lịch sử chứng minh không chế độ tàn bạo nào có thể tồn tại lâu dài, càng tàn bạo thì càng chóng sụp đổ vì ở đâu có đàn áp, bất công thì ở đó có chống đối.
Nông dân các tỉnh, thành từ Bắc tới Nam kéo về trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản ở Hà Nội hay Thành ủy Sài Gòn biểu tình đòi trả lại ruộng đất, bà con Văn Giang Hưng Yên quyết sống chết ngăn giải tỏa, nổi bật nhất là gia đình kỹ sư Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng cương quyết đấu tranh và đến nước cùng đã dùng vũ khí chống lại khi bị cướp ao, hồ đang nuôi cá ở Haỉ Phòng.
Công nhân càng ngày càng vùng dậy chống lại sự cấu kết bóc lột của nhà nước và giới chủ nhân ngoại quốc ở Bắc Ninh, Hà Nội, Sài Gòn, Vĩnh Bình, Bình Dương... với hàng trăm vụ biểu tình có hàng ngàn, hàng vạn người tham gia. Khi chúng tôi đang viết dòng này, ngày 30/3/2015 thì bà con Hà Nội đang liên tục biểu tình chống chặt 6.700 cây xanh trên đường phố và 90.000 anh chị em công nhân hãng giày Pou Yen (Đài Loan) ở Sài Gòn, Long An đang liên tục biểu tình sang ngày thứ 5 chống luật mới về Bảo hiểm Xã hội làm hại tới quyền lợi của giới lao động mà Quốc hội biểu quyết tháng 11/2014.
Sự bất mãn của dân chúng Việt Nam đã lên tới cao độ. Chính quyền càng đàn áp thì càng biểu lộ sự tàn bạo, càng làm cho người dân uất ức, căm giận và do đó càng ngày làn sóng chống đối càng lan rộng.
Nếu không chuẩn bị kỹ càng trước, chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc thiết lập nền dân chủ cho đất nước, kinh nghiệm đã có nhiều ở các nước khác như Trung Hoa sau cách mạng Tân Hợi 1911, Tunisia, Ai Cập, Lybia... gần đây.
Muốn thiết lập một nền dân chủ thật sự và ổn định tất cả phải có những đìều kiện sau đây trong sinh hoạt chính trị:
1. Đặt quyền lợi chung của cộng đồng, của quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân, đảng, phái, phe, nhóm.
2. Tôn trọng ý kiến người khác.
3. Chấp nhận thảo luận, tranh luận trong tinh thần khách quan.
4. Dung hòa để chọn ra giải pháp hay kết luận đúng nhất, tốt nhất.
5. Tôn trọng nguyên tắc đa số.
Điều kiện 1 không có sẽ gây tranh chấp quyền lợi riêng giữa các cá nhân, đoàn thể, đảng, phái. Hậu quả là quốc gia bị phân hóa, xâu xé. Ai cũng nói yêu nước, thương đồng bào – chúng tôi không nói những kẻ lừa gạt, dối trá – nhưng trong tiềm thức cái đầu óc hưong đảng, phe nhóm của chúng ta chưa gột bỏ được nên thực tế khi đụng chạm đến quyền lợi nó lại hiện ra. Trước đây tôi đã tìm hiểu bằng cách gặp trực tiếp hoặc gián tiếp qua tài liệu, thân nhân, bạn bè của một số vị lãnh đạo đảng phái, tôn giáo, đoàn thể... thấy hầu hết cương quyết cố thủ những ý kiến, quyền lợi của tổ chức, tôn giáo họ. Điều đó cũng được chứng minh trong sinh hoạt chính trị ở cả miến Bắc lẫn miền Nam và cả nước mấy chục năm qua.
Điều kiện thứ 2 không có sẽ đưa đến tình trạng – khi có quyền – trấn áp ý kiến đối lập, tước đoạt tự do ngôn luận.
Điều kiện 3 và 4 không có sẽ đưa đến độc đoán, một chiều.
Điều kiện 5 không có sẽ đi đến tình trạng ly khai, phân hóa của nhóm thiểu số.
Nếu quả thật chúng ta không có truyền thống dân chủ thì trước hết những vị lãnh đạo, những người tranh đấu cho dân chủ, những cơ quan ngôn luận đấu tranh cho dân chủ (*) tự thể hiện ngay tinh thần dân chủ trong hoạt động, trong cuộc sống và tìm mọi phương tiện phổ biến trong dân chúng.
Chúng ta hãy hy sinh bớt những quyền lợi, những cá biệt của cá nhân, đảng phái, tổ chức để sớm đi đến thống nhất mục tiêu, lập trường, đường lối mới có thể tạo ra sức mạnh trong cuộc đấu tranh và xây dựng nền dân chủ cho đất nước.
Để kết luận, chúng tôi xin mượn đoạn văn dưới đây của một nhà hoạt đông dân chủ nồng nhiệt trong nước – chị Huỳnh Thục Vi – chị rất trẻ nhưng có tầm nhìn rất xa và thực tế: “Giải thể một chế độ độc tài để bắt đầu con đường Dân Chủ hoá tuy khó khăn nhưng còn dễ hơn rất nhiều so với công cuộc xây dựng dân chủ hậu độc tài. Và trí thức, khi đó sẽ đóng vai trò rất quan trọng; nhưng nếu chúng ta không bắt đầu ngay bây giờ thì ngày mai chẳng có gì xảy ra cả”.(**)
P. Đ. N.
Ghi chú :
(*) Hồi năm 1955 tôi đang học lớp đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ) cũng võ vẽ tập làm thơ gửi tới mục Đàn Ngang Cung báo Tự Do do thi sĩ Hà Thượng Nhân phụ trách. Mấy hôm sau tôi đọc mục Thư Bạn Đọc thi sĩ Hà Thượng Nhân cho biết rất tiếc bài thơ tôi gửi chưa tiện đăng, có nghĩa là không đăng được. Nhưng điều ngạc nhiên hết sức là hai hôm sau tôi nhận được qua bưu điện một bài thơ đánh máy bỏ vào phong bì rất trang trọng của thi sĩ gửi cho tôi với lời khuyến khích và cám ơn. Hiện nay sự giao tiếp tốt đẹp ấy không còn. Mục Thư Bạn Đọc hầu như không có trên các cơ quan ngôn luận và Ban Biên Tập thường tự ý sửa chữa bài viết không cần hỏi ý tác giả. Một việc làm không thích hợp với tinh thần Dân Chủ. Lối sống của chúng ta bị suy thoái quá nhiều từ mấy chục năm nay mà chúng ta không nhận thấy.
(**)Huỳnh Thục Vi, “Bàn về dân trí”, Việt Nam Mới, Houston, 15-11-2014.
Tác giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét