Thứ Hai, 2 tháng 3, 2020

20200302. QUANH VẤN ĐỀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

ĐIỂM BÁO MẠNG


MEKONG ĐANG CHẾT, VIỆT NAM 'CHỌN GÌ'

MẠNH KIM/ BVN 21/2/2020

Bức không ảnh chụp ngày 28-10-2019 cho thấy dòng Mekong cách đập Xayaburi hơn 185 dặm (297 km) trong tình trạng khô nước nghiêm trọng (National Geographic)
Tình trạng hạn hán hạ lưu Mekong ngày càng nghiêm trọng.
Việc chặn dòng Mekong với vô số con đập đã được cảnh báo liên tục nhưng sự bức tử Mekong không ngừng diễn ra. Trong năm nay, đập Luang Prabang tại Lào sẽ được khởi công, với sự tham gia của… Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang rền rĩ câu vọng cổ thoi thóp chắc chắn trở nên bi thảm hơn một khi đập Luang Prabang ra đời…
Những ngày cuối cùng của dòng Mekong hùng mãnh
New York Times (15-2-2020) cho biết, với khoảng hơn 10 con đập trong kế hoạch nằm rải rác hạ lưu Mekong cùng hàng trăm con đập khác tại các phụ lưu, đường sống của 60 triệu người đang bị bóp nghẹn, không chỉ đối với nông dân, ngư phủ mà cả người giàu và những kẻ quyền thế thu lợi từ thủy điện.
cạn kiệt phù sa và tình trạng dòng chảy bất thường khiến nông dân dùng nhiều phân hóa học và thuốc trừ sâu hơn càng gây nên vô số nguy hại cho môi trường lẫn con người.
Việc vét cát cho các công trình đô thị cũng làm cho hệ sinh thái Mekong bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Brian Eyler, giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Stimson, tác giả quyển Last Days of the Mighty Mekong, ghi nhận rằng bởi ảnh hưởng của các con đập, hiện tượng biến đổi khí hậu và khai thác cát, mỗi năm có đến 300.000 người Việt phải rời bỏ ĐBSCL trong vài năm gần đây. Nhiều khu vực ĐBSCL, nơi sinh sống của 20% dân số Việt Nam, đang “lún” xuống biển.
Sự bùng nổ các con đập vẫn là yếu tố quan trọng nhất khiến Mekong bị bức tử. Witoon Permpongsachareon – chủ tịch nhóm bảo vệ môi trường TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance; trụ sở Bangkok) – nói: “Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với Mekong và sự trong sạch môi trường. Xây một con đập chẳng khác nào bóp kẹp một động mạch trên cơ thể. Nếu máu không lưu thông, hẳn nhiên cơ thể bị tổn thương”.
Vấn đề nghiêm trọng ở chỗ, tất cả nguồn trữ nước của các con đập Trung Quốc đều nằm trên dòng chính của Mekong, trong khi hầu hết quốc gia khác đều xây đập ở những nhánh phụ Mekong. Sự bùng nổ các con đập vẫn là yếu tố quan trọng nhất khiến Mekong bị bức tử.
Ba con đập lớn nhất Trung Quốc – Nọa Trác Độ, Tiểu Loan, Mạn Loan – đang tác động trực tiếp đến dòng chảy tự nhiên theo mùa của Mekong.
Với tổng cộng 11 con đập đang hoạt động trên dòng Mekong, Trung Quốc hiện  kiểm soát gần như tuyệt đối nhịp sống Mekong.
Chỉ vài ngày chạy thử khi giảm ½ lượng nước xả từ đập Cảnh Hồng vào đầu tháng 1-2020, mực nước tại vài khu vực hạ lưu Mekong thấp đến mức như thể một số con sông đột nhiên biến mất (National Geographic 31-1-2020).
Năm 2019 đã chứng kiến tình trạng tổn hại kinh tế nghiêm trọng suốt 2.390 km dọc hạ lưu Mekong. Mực nước năm 2019 được ghi nhận thấp nhất trong 50 năm (Reuters 6-2-2020). “Sa mạc hóa” Mekong là hình ảnh có thể nhìn thấy trước.
Hệ thống đập chằng chịt làm nghẹn thở dòng Mekong (Reuters)
Đập Xayaburi 1.200 MW chưa đủ, Lào chuẩn bị xây nhiều con đập khác. Vụ vỡ một con đập tại phía Nam Lào năm 2019 khiến ngập lụt diện rộng và làm thiệt mạng vài chục người vẫn không làm nước này chùn tay trong tham vọng trở thành “bình điện” Đông Nam Á.
15 năm qua, tính đến đầu năm 2020, Lào đã xây khoảng 50 đập và ít nhất 50 con đập khác trên dòng Mekong đang trong kế hoạch, chưa kể 288 đập dự kiến dựng tại hàng trăm con sông ở nước này. Nếu tất cả dự án trên hoàn thành, hệ thống đập chằng chịt có thể mang lại 27.000 MW cho Lào, từ 700 MW năm 2005.
Việt Nam “chọn cái ít dở nhất trong những cái dở” như thế nào?
Đáng chú ý nhất thời điểm này là dự án đập Luang Prabang. Chẳng phải tự nhiên mà trong bức thư gửi đại biểu Quốc hội thuộc các tỉnh miền Tây vào tháng 1-2020, chuyên gia đồng bằng sông Cửu Long, ông Ngô Thế Vinh – tác giả quyển Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng – viết:
Chỉ còn hơn ba tháng nữa là hết hạn tiến trình Tham khảo Trước (10-2019 – 4-2020) cho dự án Luang Prabang. Nếu không có hành động tức thời và chuyển biến quyết liệt từ phía Việt Nam, lễ động thổ khởi công xây con đập Luang Prabang sẽ diễn ra vào tháng 4-2020. Đó sẽ là một ngày tang tóc cho toàn thể 20 triệu cư dân 13 tỉnh miền Tây mà vòng khăn tang đó lại do chính Nhà nước Việt Nam tự quấn lên đầu người dân mình”!
Ngày 4-11-2019, Bộ Tài nguyên Môi trường cùng Ủy ban sông Mekong Việt Nam (UBSMKVN) tổ chức hội thảo tham vấn quốc gia về dự án Luang Prabang. Tường thuật sự kiện này, báo Người Lao Động (5-11-2019) ghi:
Đánh giá về tác động của thủy điện này đối với vùng hạ lưu là Việt Nam, UBSMKVN cho rằng tác động của tổ hợp các công trình bậc thang thủy điện vùng hạ lưu sông Mê Kông rất nghiêm trọng… Các tài liệu phía Lào gửi chưa đánh giá toàn diện. Chưa tính toán dòng chảy sau công trình; chưa rõ quy trình vận hành hồ thủy điện cũng như hệ thống giám sát, dự báo; chưa đưa ra biến động dòng chảy hạ lưu và ngập lụt lòng hồ tác động hệ sinh thái ra sao, bảo tồn các loại cá… Việt Nam sẽ kiên quyết yêu cầu chủ đầu tư điều chỉnh thiết kế dự án, hoàn thiện các biện pháp giảm thiểu tác động, xây dựng các chương trình theo dõi, giám sát tác động bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế trước khi xây dựng công trình”…
Toàn bộ bài báo Người Lao Động không nhắc đến chi tiết chủ đầu tư mà “Việt Nam sẽ kiên quyết yêu cầu” chính là… PetroVietnam.
Trên Thanh Niên ngày 13-10-2019 (chín ngày sau hội thảo trên), chuyên gia môi trường Tô Vân Trường đã nói “rành mạch” hơn: “Nếu Việt Nam không thể cấm việc xây dựng thủy điện ở Lào thì nên chủ động tham gia yêu cầu họ từ khâu thiết kế đến quy trình vận hành”…
Cách nói của ông Tô Vân Trường cho thấy, có vẻ như hội thảo “xem xét” và “đánh giá” dự án đập Luang Prabang chỉ là hình thức.
Thực tế thì Việt Nam đã “chọn cái ít dở nhất trong những cái dở” (như một câu trong bài viết của ông Tô Vân Trường), bằng việc đưa PetroVietnam tham gia như một trong những chủ đầu tư.
Theo báo Tài Nguyên Môi Trường (4-11-2019), chủ đầu tư dự án Luang Prabang là công ty TNHH Năng lượng Luang Prabang của Lào, với hai cổ đông: Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam góp 38% vốn chủ sở hữu; Công ty TNHH PT của Lào giữ 37%; và Chính phủ Lào sở hữu 25% vốn.
Không chỉ ông Ngô Thế Vinh mới “cực đoan”, như bị chỉ trích khi lên tiếng về dự án Luang Prabang, trên Asia Sentinel (23-12-2019), cựu viên chức ngoại giao Mỹ David Brown cũng viết: “Con đập dự kiến tại Luang Prabang sẽ là một thảm họa chính trị tuyệt đối của Việt Nam”!
Ngay thời điểm này, đồng bằng sông Cửu Long đã không thể “chọn cái ít dở nhất trong những cái dở” vì nó đang chứng kiến những điều “không thể dở hơn”.
Tờ Một Thế Giới (14-2-2020) cho biết, những ngày đầu tháng 2-2020, lượng nước Mekong đổ về ĐBSCL thấp hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ năm 2016. Hiện tượng ngập mặn đã xâm nhập vào các kênh rạch nội đồng ven sông Hậu. Bài báo cho biết thêm, “hạn hán và xâm nhập mặn đang gây thiếu nước nghiêm trọng khiến 3.600 hécta lúa ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng có nguy cơ mất trắng. 26.000 hộ dân ở tỉnh này cũng đang thiếu nước sạch sử dụng. Trà Vinh có hơn 10.000 héc-ta lúa đông xuân thiếu nước tưới, khả năng mất trắng 50%. Bến Tre cũng đang bị nước mặn “bao vây”; hoạt động sản xuất và đời sống của người dân bị ảnh hưởng nặng nề…”.
Các biến động khí hậu dĩ nhiên ảnh hưởng ít nhiều đến đồng bằng sông Cửu Long nhưng nguyên nhân Mekong bị bít dòng chảy bởi cơ man con đập là điều không thể phủ nhận. Sắp tới đây, các tỉnh miền Tây Việt Nam như thế nào nữa một khi đập Luang Prabang ra đời, với sự “đóng góp” đầu tư của chính Việt Nam?
Những người ủng hộ nói rằng, việc tham gia dự án Luang Prabang sẽ giúp Việt Nam kiểm soát được thiết kế sao cho giảm thiểu tối đa mức độ ảnh hưởng đối với ĐBSCL.
Xayaburi chặn ngang dòng Mekong (AFP)
Tuy nhiên, cần tham khảo thêm, chủ đầu tư đập Xayaburi, công ty Thái Lan CK Power, cho biết họ đã chi hơn 600 triệu USD để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, trong đó có việc dựng các “bậc thang” cho cá và lắp hệ thống cổng để trầm tích có thể lọt qua.
Tuy nhiên, ngay sau khi Xayaburi hoạt động (tháng 10-2019), màu nâu chocolate thông thường của Mekong đã biến thành màu xanh dương trong vắt tại các khu vực cực Nam – dấu hiệu cho thấy trầm tích nâu giàu phù sa đã bị biến mất.
Tình trạng như vậy được gọi là “nước đói” (“hungry water”). Do không chứa trầm tích nên “nước đói” có dòng chảy cực mạnh, mang đến sự phá hoại kinh khủng khi nó ăn lở vào bờ và gây sụp lún. “Nước đói” đang dịch chuyển nhanh vào Campuchia.
Chẳng phải tự nhiên mà con hồ lớn nhất Đông Nam Á, Tonle Sap, mệnh danh “nhịp đập con tim của Mekong”, đang khô cạn chết mòn. Thông thường, mỗi năm Tonle Sap có thể được khai thác ít nhất 500.000 tấn cá (nhiều hơn tất cả con sông và hồ ở Bắc Mỹ cộng lại). Năm 2019, nước từ Mekong chảy vào Tonle Sap muộn và rút đi rất nhanh đến mức phần lớn hồ chưa kịp đầy. Hậu quả, cá chết tràn lan vì nước cạn và thiếu oxy. Theo một ghi nhận, lượng đánh bắt cá ở Tonle Sap đã giảm 90%! (National Geographic, nđd).
Chừng nào “nước đói” tràn ngập ĐBSCL?
Câu chuyện công ty Thái Lan CK Power liên quan Xayaburi có là “kinh nghiệm” cho Việt Nam trong dự án Luang Prabang? Tham gia dự án Luang Prabang, PetroVietnam thu được bao nhiêu, so với bức tranh bi thảm khốc liệt mà hàng triệu người ĐBSCL có thể gánh chịu?
M.K.

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG, CHUYÊN GIA VÀ...BỘ CHÍNH TRỊ
TRÂN VĂN /Blog VOA  27-2-2020


Tuần rồi, chính quyền tỉnh Cà Mau kêu gọi các chuyên gia giúp tìm đường thoát: Thiếu nước tưới, nông dân phải bỏ hoang 18.000 héc ta đất trồng lúa. 42.000 héc ta rừng đang khô héo. Số điểm sụt, lún đã vượt quá mức 1.000 trong đó có nhiều tỉnh lộ, đường liên huyện, liên xã,… tổng chiều dài các đoạn đường có bề mặt đột nhiên sụt, lún là 21,6 cây số. Không chỉ có đường, nhiều đoạn kênh, rạch, đê ngăn nước mặn cũng bị sụt, lún, biến dạng. Ngoài ra, hiện có 20.500 gia đình thiếu nước ăn uống, tắm giặt… Đặc biệt đáng ngại khi thiệt hại chưa ngừng ở đó mà sẽ tăng nhanh và cao hơn khi hạn hán càng ngày càng nghiêm trọng (1)!
Tình trạng vừa kể không chỉ xảy ra ở Cà Mau mà là thực trạng chung của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Gần đây, cứ tới mùa khô, mực nước của hệ thống sông, rạch ở ĐBSCL tụt xuống, nước mặn từ biển lại tràn vào thế chỗ nhưng năm nay, phạm vi xâm nhập của nước mặn vào khu vực ĐBCSL đã vượt qua mức 100 cây số! Tổng cục Thủy lợi của Bộ NN PTNT loan báo, mùa khô năm nay, nước mặn xâm nhập ĐBSCL xảy ra sớm hơn, sâu hơn, hậu quả nghiêm trọng hơn mùa khô năm 2015-2016 (vốn đã được cho là chưa từng có). Thậm chí mọi thứ có thể sẽ tồi tệ hơn nữa do diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu toàn cầu và thượng lưu sông Mekong bị chặn để khai thác thủy điện!
***
Nhìn một cách tổng quát, tương lai của ĐBSCL - nơi cư trú của khoảng 17 triệu người – càng ngày càng ảm đạm. Khu vực có diện tích khoảng 40.500 cây số vuông từng nổi tiếng vì sự phong phú của đủ loại sản vật tự nhiên, từng là vựa lúa cung cấp tới 90% lượng gạo xuất cảng, 60% lượng thủy sản xuất cảng, giữa thập niên 2010 còn đạt tốc độ tăng trưởng 7,8%, vượt xa tốc độ tăng trưởng chung của Việt Nam (6,8%) đang tuột từ từ xuống đáy vì cơ hội sinh tồn, phát triển giảm dần. Bởi càng ngày càng khó sống, càng ngày càng nhiều cư dân ĐBSCL bỏ xứ tha hương. Từ giữa thập niên 2010, tỉ lệ tăng dân số cơ học (mức chênh lệch giữa xuất cư và nhập cư) của ĐBSCL luôn luôn là âm.
Một số chuyên gia ước đoán, trong mười năm từ 2008 đến 2018, có khoảng 1,7 triệu cư dân ĐBSCL ly hương. Nói cách khác, môi trường sống biến đổi theo hướng khắc nghiệt hơn, cơ hội thoát khỏi nghèo đói càng ngày càng nhỏ hơn là lý do chính khiến mỗi năm, ĐBSCL mất khoảng 24.000 dân và con số này càng ngày càng tăng (2). Đáng ngạc nhiên là tác động của biến đổi khí hậu, của việc khai thác thượng nguồn sông Mekong làm thủy điện đến tương lai của ĐBSCL đã được cảnh báo từ đầu thập niên 2010 (3) và được minh họa rõ ràng hơn qua đợt hạn hán chưa từng thấy vào mùa khô 2015 – 2016 ở ĐBSCL nhưng hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chỉ ban hành… nghị quyết!
Nghị quyết 120/NQ-CP được công bố hồi cuối năm 2017 nhằm giúp ĐBSCL “phát triển bền vững”, giúp khu vực này “thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu” giống như một họa phẩm trên giấy, ĐBSCL tiếp tục được sử dụng như một thứ công cụ giúp hệ thống công quyền có thể đạt các chỉ tiêu tăng trưởng do hệ thống chính trị đề ra. Vì chỉ khai thác và đầu tư theo kiểu nhỏ giọt, ĐBSCL trở thành khu vực thiếu thốn đủ thứ, từ hạ tầng giao thông đến cơ hội giáo dục, chăm sóc y tế... Mức thu nhập trung bình tính theo đầu người/năm ở ĐBSCL chỉ dao động trong khoảng từ 80% đến 85% so với mức thu nhập trung bình tính theo đầu người/năm của Việt Nam.
Theo một thống kê được công bố hồi cuối năm 2017, trong năm năm từ 2010 đến 2015, Việt Nam đã chi 850 tỉ để thực hiện chương trình “xây dựng nông thôn mới”. Đến cuối năm 2015, Quốc hội Việt Nam “nhất trí”, từ 2016 đến 2020 sẽ chi thêm 193 ngàn tỉ đồng nữa để… tiếp tục thực hiện chương trình “xây dựng nông thôn mới”! Chương trình “xây dựng nông thôn mới” đã dựng lên vô số cổng chào, bưu điện trung tâm, chợ,… ở vài ngàn xã. Dù chính quyền của 53/63 tỉnh, thành phố thi nhau kêu gọi đầu tư, xây dựng đủ thứ “trời ơi, đất hỡi” theo “tiêu chuẩn nông thôn mới”, cuối 2017 vẫn còn 15.277 tỉ đồng chưa thể thanh toán nhưng tiền giúp ĐBSCL “phát triển bền vững” thì không!
ĐBSCL có thể “thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu” khi bề mặt sụt, lún, nước biển dâng, hạn hán, không thể chủ động khi thượng nguồn Mekong bị các công trình thủy điện chặn nguồn nước chảy xuống hạ lưu? Từ những trường hợp như Hà Lan, Israel,… các chuyên gia khẳng định là có nếu nghiên cứu kỹ lưỡng, suy tính cẩn thận để xác định giải pháp phù hợp. Chẳng hạn muốn hóa giải tác hại của sụt, lún bề mặt thì phải cấp đủ nước, ngưng khai thác nước ngầm, thay đổi cả tư duy lẫn cách thức qui hoạch trong nhiều lĩnh vực (4),…
Vấn đề nan giải nhất không nằm ở những biến đổi trong tự nhiên mà nằm trong đầu từng thành viên… Bộ Chính trị, thành viên chính phủ, chính quyền các địa phương. Làm sao có thể “phát triển bền vững” khi viễn kiến của những cá nhân có thẩm quyền quyết định chỉ chạm đến thời điểm… cuối nhiệm kỳ và vì vậy chỉ chọn những giải pháp có lợi nhất cho chính cá nhân mình? Làm sao có thể giúp ĐBSCL “thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu” khi tất cả mọi thứ vẫn chỉ phụ thuộc vào những cá nhân có thẩm quyền lựa chọn – phê duyệt giải pháp nhưng chỉ biết “kinh tế chính trị Mác – Lenin”, thạo “Xây dựng đảng” và thuộc “Lịch sử đảng”?…
Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ông Bùi Trinh – một chuyên gia kinh tế - vừa mới cảnh báo: “Đồng bằng sông Cửu Long ốm thì cả nước cũng yếu” (5) kèm theo khá nhiều dẫn chứng. Giữa lúc ĐBSCL đang trải qua giai đoạn “nước sôi, lửa bỏng” nhưng dường như hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chỉ bận tâm đến chuyện làm sao để COVID-19 không ảnh hưởng đến khả năng đạt “chỉ tiêu tăng trưởng” đã được đề ra cho năm nay, nên ông Trinh mới lưu ý, môi trường ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, nếu chỉ lao vào tăng trưởng GDP sẽ có những hậu quả nghiêm trọng về môi trường từ đó ảnh hưởng ngược lại đến niềm say mê GDP.
Tương lai của ĐBSCL nói riêng, tương lai của Việt Nam nói chung khiến người ta mong các viên chức hữu trách sẽ tỉnh ra, ngộ được đâu là chính, đâu là phụ, ở vị trí lãnh đạo quốc gia, dân tộc nên xem cái gì là ưu tiên hàng đầu nhưng trước giờ, những phân tích, cảnh báo như phân tích, cảnh báo của ông Bùi Trinh không phải là ít và dù hết sức rõ ràng, những phân tích, cảnh báo ấy vẫn chỉ như những cơn gió thổi qua một căn nhà trống! Thành ra mong thì cứ mong, còn… thở còn nên… hy vọng dẫu không chắc các thành viên Bộ Chính trị, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Quốc hội, thành viên chính phủ,… có khả năng hiểu được những điều vốn hết sức đơn giản đó!
Chú thích


BẢO TỒN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỨU LONG ?

QUÁCH HẠO NHIÊN/ viet-studies/ BVN 1-3-2020

1. Không biết trân trọng quà của tạo hóa
Trong cái nhìn của riêng tôi, về mặt tự nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất rất đặc biệt. Vì hiếm nơi đâu trên quả đất này có một vùng đất vừa được bồi đắp bởi phù sa với vô số sông ngòi chằng chịt vừa có núi non bao quanh che chắn (như vùng Bảy Núi – Châu Đốc, An Giang), lại kề bên biển cả quanh năm vỗ về (Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…). ĐBSCL vì thế, có thể xem như món quà quý giá mà tạo hóa đã ban cho người Việt. Nhưng món quà này, thời gian qua chúng ta không những không biết trân trọng, giữ gìn mà còn tiêu xài rất hoang phí thậm chí là xâm hại nó. Hậu quả là giờ đây ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ tan rã, chưa kịp phát triển đã lụi tàn. Và người dân nơi đây đương nhiên là những người phải gánh chịu hậu quả trước nhất. Câu nói cửa miệng “Đi Bình Dương bán nước tương” đang ngày một trở nên phổ biến trong suy nghĩ của người dân nơi đây là một minh chứng rất cụ thể cho vấn đề này. Còn gì tệ hại và xót xa hơn khi những cư dân của vùng đất trù phú và giàu có được mệnh danh là “thủ phủ trái cây” hay “vựa lương thực” của cả nước giờ đây phải tay xách nách mang, bỏ xứ, ly hương để đi tìm kế sinh nhai?
2. Từ bàn hội thảo đến các cuộc “giải cứu” ngoài đồng ruộng, ao cá, vuông tôm
Những điều tôi vừa nói ở trên hẳn nhiều người đã nghe, đã biết và đã thấy nhất là với các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học “hàng đầu” về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tôi không có thời gian để thống kê đã có bao nhiêu cuộc hội nghị, hội thảo lớn nhỏ được tổ chức từ Trung ương đến địa phương cũng như các công trình khoa học, các đề án, dự án có liên quan đến việc đề xuất ý tưởng và giải pháp nhằm “giải cứu ĐBSCL” trong khoảng 10 trở lại đây nhưng tôi biết chắc tình hình ĐBSCL đang ngày một biến chuyển xấu hơn. Ví như, gần đây nhất là “Hội nghị Diên Hồng cho ĐBSCL” diễn ra trong hai ngày 26, 27/09/2017 tại thành phố Cần Thơ với hơn 500 đại biểu trong và ngoài nước tham dự. Ngay sau Hội nghị ấy là bản Nghị quyết số 120/NQ-CP về “Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu” được việc Thủ tưởng Chính phủ đã ký ban hành ngày 17/11/2017. Nhưng cũng chỉ một năm sau đó, người ta lại tiếp tục tổ chức Hội thảo với tên gọi "Một năm thực hiện Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu". Thật thảm thương thay, kết luận của lần hội thảo này hóa ra những vấn đề đặt ra trong bản Nghị quyết một năm trước vẫn chỉ “nằm trên giấy”!? Trong khi đó đời sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) của người dân thì vẫn trong cái vòng luẩn quẩn “đất giàu người nghèo” và những cuộc “giải cứu” nông sản, thủy sản vẫn cứ đến hẹn lại lên.
Là người sinh ra và lớn lên tại vùng đất này, tôi hoàn toàn thấu hiểu và cảm thông cho nỗi nhọc nhằn, vất vả của người dân quê tôi nhất là vào những dịp thu hoạch nông sản nhưng không bán được phải đổ bỏ hay chất đống chờ sự “giải cứu” từ các nhà hảo tâm mà chúng ta đã chứng kiến.
Đặc biệt, phải nói thật là mỗi khi nghe các “chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp” ở Việt Nam trình bày các giải pháp xây dựng và phát triển vùng ĐBSCL có không ít quan điểm rất khó thuyết phục được tôi. Vì là “người trong cuộc” tận mắt chứng kiến và trải nghiệm nên với tôi có không ít giải pháp chỉ có ý nghĩa thuần túy về phương diện lý thuyết mà thôi. Hay nói khác đi, cái hạn chế lớn nhất của các chuyên gia hiện nay trong khi đề ra các ý tưởng và giải pháp là sự thiếu hụt cái nền tảng rất quan trọng nhất là về phương lịch sử và văn hóa vùng ĐBSCL. Thế nên, dù có rất nhiều giải pháp đã được đề xuất, bàn thảo nhưng xem ra cái khoảng cách từ bàn hội thảo đến thực tiễn cuộc sống của người dân nơi đây cô cùng xa xăm dịu vợi.
Qua quan sát và theo dõi, tôi biết hiện có một quan điểm đang dần trở nên phổ biến, lặp đi lặp lại nhiều lần trong các cuộc hội thảo về ĐBSCL đó là: có không ít người cho rằng“người dân ĐBSCL không thể giàu là do trồng lúa và khuyên họ cần thay đổi tư duy trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì mới khá lên được”. Tôi cho rằng đây quan điểm này rất chủ quan, chỉ nói lấy được mà chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo.
Thứ nhất, khi bàn về chuyện người dân ĐBSCL lâu nay “trồng lúa nhiều nhưng vẫn không giàu” thì cần phải nói thẳng cái lỗi này phần lớn là do các cơ quan quản lý Nhà nước về nông nghiệp và lượng thực. Thế nên, tư duy đúng trong chuyện này là nếu người nông dân làm lúa không giàu thì việc đầu tiên cần làm là Nhà nước phải thay đổi (tư duy và cung cách quản lý) để người dân giàu lên chứ không phải kêu họ bỏ lúa đi không trồng nữa.
Thứ hai, thực tế nhiều người dân trồng lúa ở ĐBSCL thừa biết họ đã và đang không giàu vì cây lúa nhưng đa phần họ cũng không hoàn toàn an tâm khi chuyển sang trồng mía, xoài, sầu riêng, mít Thái, dưa hấu hay nuôi tôm, nuôi cá ba sa như gợi ý và khuyến cáo của các chuyên gia. Vì sao? Vì đâu phải vùng nào cũng trồng cây và nuôi cá, nuôi tôm được? Hơn nữa chi phí đầu tư (con giống, kỹ thuật, thời gian chăm sóc và thu hoạch kéo dài…) và nhất là “đầu ra” sản phẩm vẫn là một sự bấp bênh, mơ hồ (vì nhìn chung hiện nay tất cả gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc) và đâu phải người trồng lúa nào cũng rành kỹ thuật nuôi cá, nuôi tôm…
Một cách cụ thể hơn, chúng ta hãy thử làm phép tính và so sánh: hiện nay do dân số ngày một tăng, bình quân mỗi hộ nông dân ở ĐBSCL sở hữu vài ba công ruộng, nếu trồng lúa thì một năm ít nhất cũng thu hoạch được 2 vụ. Và dù không giàu nhưng nếu bắt họ phải chuyển sang trồng cây ăn quả thì hãy hình dung xem với chừng ấy diện tích canh tác ấy họ sẽ trồng được bao nhiêu gốc xoài, sầu riêng, hay mít Thái với khoảng thời gian kể từ khi xuống giống đến lúc thu hoạch trung bình từ 2 đến 3 năm. Trong 2, 3 năm này thì lấy gì để ăn và đầu tư cho con cái học hành? Còn đào ao nuôi cá ba sa hay nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cua biển ư? Trên thực tế việc này khó khăn hơn rất nhiều vì những yêu cầu về kỹ thuật chăm sóc và chi phí đầu tư rất lớn. Theo tôi biết đã có không ít người nông nghe theo lời khyên của các chuyên gia “thay đổi cơ cấu cầy trồng” hay xen canh “một vụ lúa, một vụ tôm” trong một năm giờ đã phá sản, lâm vào cảnh nợ nần dẫn đến gia đình ly tán, vợ chồng con cái mỗi người một nơi tìm kế mưu sinh…
Thứ ba, xã hội hiện đại, mọi việc đều phải được chuyên môn hóa, mỗi cá nhân chỉ cần làm tốt phần việc mà mình đã được xã hội phân công. Người nông dân canh tác trên đồng ruộng, vườn cây, ao cá đã vất vả rồi thì sao lại bắt họ phải chạy đi tìm thị trường để tiêu thụ? Đồng ý rằng hạn chế lớn nhất của nông dân hiện nay là sự bảo thủ, tầm nhìn ngắn hạn, chỉ thấy cái lợi trước mắt…nhưng hãy nghĩ xem cho đến tận bây giờ toàn vùng ĐBSCL vẫn không có một kho dự trữ và bảo quản hay sơ chế nông sản sau thu hoạch đúng nghĩa thì là lỗi của ai? Hay như việc nhiều người dân chỉ biết chạy theo số lượng đã không tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vô tội vạ nên không đảm bảo chất lượng đầu ra của sản phẩm (để có thể xâm nhập vào các thị trường khó tính ngoài Trung Quốc) thì suy cho cùng lỗi này cũng không nên đổ hết lên đầu họ. Các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và môi trường… hãy nghiêm túc tự vấn lại xem có phải những chủ trương chính sách của mình đưa ra xung quanh vấn đề này đang tồn tại nhiều bất cập và không hợp lý hay thậm chí là bị chi phối bởi các “lợi ích nhóm” không?
Trao đổi những vấn đề trên đây, tôi hoàn toàn không có ý phủ nhận những kiến nghị hay giải pháp của các chuyên gia mà muốn qua đây gợi mở một góc nhìn, một cách tiếp cận khác để tất cả cùng tham khảo. Hay ít ra để tất cả chúng ta khi trao đổi thảo luận về những giải pháp nhằm phát triển ĐBSCL nên có cái nhìn thực tế và gần gũi hơn với nhận thức, suy nghĩ và điều kiện của người dân nơi đây. Và như tôi đã nói ở trên, các giải pháp đưa ra nhất định phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn về lịch sử và văn hóa của con người nơi đây.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước phải có tầm nhìn để không phải vô tình hay cố ý biến người nông dân trở thành công cụ để kiếm tiền cho bọn gian thương và những kẻ cơ hội chính trị, đầu cơ và “tham nhũng chính sách”, dự án... Có như thế thì may ra Nghị quyết của Chính phủ mới có cơ hội “đi vào cuộc sống” và về lâu dài những cuộc bồng bế đi “Bình Dương bán nước tương” của người dân vùng ĐBSCL không còn tấp nập và ngậm ngùi, xót xa như hiện nay.
3. Thay lời kết
Đến hẹn lại lên, theo chu kỳ trong năm, ĐBSCL hiện tại đang vào mùa khô hạn và xâm ngập mặn. Theo phân tích và lý giải của các nhà khoa học trong nước và thế giới thì việc nhiều con đập thủy điện được xây dựng trên thượng nguồn sông Mê Kông dọc theo lãnh thổ các quốc gia láng giềng (nhiều nhất là Trung Quốc) cùng những tác động của vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu là hai nguyên nhân chính gây ra vấn nạn trên ở ĐBSCL. Nếu như biến đổi khí hậu thuộc về “thiên tai’ thì các đập thủy điện ngăn dòng chảy ở thượng nguồn sông Mê Kông là do con người gây ra. Cả hai vấn đề này, theo tôi Việt Nam giờ đây rất khó mà tác động và thay đổi được. Thiên tai đã đến thì phải chịu còn những cái đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông nhất là trên đất Trung Quốc vốn còn là cái bẫy, cái gọng kìm mà họ cố tình làm ra để khống chế Việt Nam.
Xét trong bối cảnh và tình hình như vậy, có thể nói muốn xây dựng và phát triển bền vững vùng ĐBSCL thì điều căn cơ và quan trọng trước hết là ta phải tự cứu ta. Nhưng làm sao cứu? Cứu bằng cách nào? Theo tôi, hiện tại không còn cách nào khác là phải tìm về với lịch sử, văn hóa của cha ông trong suốt hành trình 300 năm khai hoang lập địa để học tập cách hòa mình chung sống cùng thiên nhiên, trời đất…
Nên nhớ rằng ĐBSCL đã từng là vùng đất “ma thiêng nước độc”, “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh” hay “dưới sông sấu lội trên bờ cọp um”…Hơn nữa, “Chúa đóng cửa này sẽ mở cửa khác cho con”!
Trong cái nhìn như thế, tôi cho rằng đã đến lúc cần thay đổi nhận thức và tư duy về mọi vấn đề có liên quan đến ĐBSCL. Cụ thể là, thay vì bàn về các ý tưởng và giải pháp để “phát triển” ĐBSCL chi bằng hãy đề ra ý tưởng và giải pháp hướng đến việc “bảo tồn” và gìn giữ vùng đất này. Vì “bảo tồn” nhìn ở giác độ văn hóa cũng bao hàm trong đó sự “phát triển” rồi. Đặc biệt, khi chúng ta xuất phát từ tâm thế “bảo tồn” và gìn giữ thì sẽ tránh được những giải pháp tuy hiện đại, mang lại hiệu quả kinh tế nhất thời nhưng lại vô tình xâm hại và phá vỡ toàn bộ cấu trúc và hệ sinh thái rất đặc trưng, đặc thù của vùng đất này. Điều đó cũng có nghĩa sẽ làm cho nguy cơ “tan rã” ĐBSCL diễn ra nhanh hơn.
Hãy thử nghĩ xem, nguồn nước ngọt ở ĐBSCL hiện nay không những đang thiếu hụt mà còn bị ô nhiễm thì sự hiện diện của một nhà máy sản xuất giấy như Lee & Man – Hậu Giang (chẳng liên quan gì đến kinh tế nông nghiệp) ngay bên dòng sông Hậu ngày đêm xả thảy ra con sông này thì có thể xem là giải pháp nhằm xây dựng và phát triển bền vững ĐBSCL không?
Tóm lại, một vùng đất vốn trù phú giờ đây đang đứng trước nguy mất đi thì tại sao chúng ta không lo, không nghĩ đến chuyện gìn giữ và bảo tồn? Đương nhiên để ý tưởng “bảo tồn ĐBSCL” trở thành hiện thực thì rất cần một tầm nhìn và “quyết tâm chính trị” và dĩ nhiên là vai trò của các nhà khoa học phải được tiếp tục phát huy nhưng (như đã nói ở trên), tất cả phải trên cơ sở về một tầm nhìn, chiều sâu và “nội lực văn hóa”.
CT, 28/2/2020
Q.H.N.
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 29-2-20

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KHÓC GS NGUYỄN DUY XUÂN

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG /BVN 2-3-2020

Đồng bằng sông Cửu Long đang hấp hối. Nước sông bị chặn bởi nhiều đập thủy điện và bị nhiễm mặn bởi triều dâng. Trên mười triệu nông dân đang lao đao. Nếu có người thấy trước được việc này, cảnh báo sớm, chính quyền, cùng các nhà khoa học và nhân dân hợp sức tìm giải pháp thì đã có thể tránh được tai họa, phát triển bền vững.
Phải chăng không có ai thấy trước và dự báo tình hình. Có đấy, nhưng nhà khoa học lỗi lạc và rất yêu nước ấy đã bị hắt hủi cho đến chết tại nhà tù Ba Sao năm 1986. Đó là GS Nguyễn Duy Xuân, sinh năm 1925 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Ông đã du học, nghiên cứu về nông nghiệp, thủy lợi, kinh tế tại Pháp, Anh và Mỹ trong nhiều năm. Ông về nước năm 1963 (lúc 38 tuổi), nghiên cứu và phụ trách nhiều công việc quan trọng về nông nghiệp, làm Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ
Tháng 4 năm 1975, sau khi thu xếp cho vợ con sang Guam, rồi sang Pháp tạm lánh, ông trở lại VN. Ngày 30 tháng 4, mặc dầu có trực thăng sẵn sàng chở ông đi di tản nhưng ông ở lại với mong  ước được đem kiến thức phục vụ cho nền nông nghiệp của đất nước, mà trước hết là phát triển đồng bằng sông Cửu Long. Ông sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới để được làm khoa học phục vụ đất nước.
Ngày 13 tháng 5 ông trình diện chính quyền giải phóng, được tập trung đi học tập cải tạo tư tưởng trong vài ngày, nhưng rồi  bị giam giữ không xét xử tại nhà tù loại khắc nghiệt nhất. Năm 1983, ông Võ Tòng Xuân, khi làm đại biểu quốc hội có tìm đến thăm tù nhân Duy Xuân, có ý định cứu người thủ trưởng cũ của mình, nhưng rồi không kịp. Nhà khoa học lỗi lạc và yêu nước Nguyễn Duy Xuân bị bệnh cũng bình thường, nếu được chữa trị sẽ qua khỏi, nhưng nhà tù đã tạo điều kiện thuận lợi để ông từ giã cõi đời, mang kiến thức khoa học sang thế giới khác.
Nếu GS Nguyễn Duy Xuân không chết trong nhà tù, được sử dụng như kiểu ông Lương Định Của thì rồi đồng bằng sông Cửu Long có thoát khỏi tai họa như hiện nay hay không. Không biết được, không dám chắc, vì ý kiến của nhà khoa học có hay, có đúng đến đâu mà không trung thành với Mác Lê, không nghe theo chỉ đạo của Trung cộng thì chính quyền CSVN dứt khoát bác bỏ, kiên quyết từ chối.
Chỉ còn lại đồng bằng sông Cửu Long khóc than cho đứa con yểu mệnh của mình, đứa con phải bỏ đất mẹ ra đi mang theo bao oan khổ, tủi nhục. Tro cốt của GS Nguyễn Duy Xuân được con gái từ Pháp về đem gửi tại chùa Thiên Hưng, Bình Thạnh.

N.Đ.C.

Tác giả gửi BVN

HẠN MẶN ĐANG KHỐC LIỆT NHƯNG NÓNG BỎNG HƠN LÀ CHUYỆN XÂY ĐẬP LUANG PRABANG

VŨ KIM HẠNH/ BVN 2-3-2020


Nói chuyện CoViD hay bất cứ chuyện nào về thời sự châu Á và thế giới với tôi đều cần thiết. Nhưng thiết tha hơn cả vẫn là chuyện sinh mệnh đồng bằng sông Cửu Long đang lâm nguy. Và nóng bỏng và nguy hiểm hơn nữa lại là chuyện xây đập Luang Pranbang. Xin bắt đầu bằng một chuyện mới, đau lòng ở Bến Tre.

Cào đất phù sa mặt ruộng đem bán!

Mới đầu, tôi không dám đọc và càng không dám nhìn bức ảnh, xe cơ giới cào phù sa trên mặt ruộng đem bán... vì thảm quá, thương tâm quá. “Do không trồng được lúa vụ 3 giữa hạn mặn khốc liệt và cũng để giải quyết tình trạng mặt ruộng mùa kế cao hơn mực nước ngọt trên các kênh nội đồng nên nông dân ở hai huyện Ba Tri và Giồng Trôm (Bến Tre) đã cào nhiều tấn đất trên mặt ruộng để đi bán lấy tiền hay đổi phân thuốc cho mùa tới”.

Nước mặn đã xâm nhập bao trùm toàn bộ tỉnh Bến Tre (độ mặn 1 phần ngàn). Ở khách sạn, sáng đánh răng phải phun nước ra vì mặn. Toàn tỉnh có hơn 5.000 ha diện tích lúa Đông Xuân (vụ 3-2019 &2020) có khả năng cao mất trắng, gần 20.000 cây ăn trái đang khát nước tưới. Hầu hết người dân trên địa bàn tỉnh (sử dụng hệ thống cấp nước tập trung) đều bị ảnh hưởng của hạn mặn, nguồn nước sinh hoạt hiện nay đa phần tại các nhà máy nước là trên 2‰. Nguồn vốn TW phòng chống hạn mặn dự định đắp các đập tạm, xây các hồ nước trữ ngọt và hệ thống thủy lợi bắc-nam Bến Tre còn ở đâu?
Trước khi nói về chuyện xây đập Luang Prabang bên Lào, mời bạn xem bản đồ mô tả các tác nhân làm tổn thương dòng sông mẹ Mekong bên dưới bài và chú thích ở đây.

Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân: (1) do các con đập thượng nguồn, (2) do nạo vét cát dưới lòng sông, (3) do nước biển dâng, (4) do ô nhiễm sông rạch, (5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá hủy sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm hai con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào. Theo New York Times ngày 15-2-2020, hơn 10 con đập trong kế hoạch nằm rải rác hạ lưu Mekong cùng hàng trăm con đập khác tại các phụ lưu đang bóp nghẹt đường sống của 60 triệu người.

Nghịch lý và đe dọa lớn từ đập Luang Prabang

Vâng, thời điểm này, vấn đề nóng bỏng nhất là dự án đập Luang Prabang. Đến hôm nay, chỉ còn hơn 1 tháng nữa là hết hạn tiến trình Tham khảo Trước (10-2019 – 4-2020) cho dự án Luang Prabang. Nếu không có hành động tức thời và chuyển biến quyết liệt từ phía Việt Nam, lễ động thổ khởi công xây con đập Luang Prabang sẽ diễn ra vào tháng 4-2020. Đó sẽ là một ngày bi thảm cho toàn thể 20 triệu cư dân 13 tỉnh miền Tây.
Ngày 4-11-2019, Bộ Tài nguyên Môi trường cùng Ủy ban sông Mekong Việt Nam (UBSMKVN) tổ chức hội thảo tham vấn quốc gia về dự án Luang Prabang. Tường thuật sự kiện này, báo Người Lao Động (5-11-2019) ghi: “Đánh giá về tác động của thủy điện này đối với vùng hạ lưu là Việt Nam, UBSMKVN cho rằng tác động của tổ hợp các công trình bậc thang thủy điện vùng hạ lưu sông Mê Kông rất nghiêm trọng… Các tài liệu phía Lào gửi chưa đánh giá toàn diện. Chưa tính toán dòng chảy sau công trình; chưa rõ quy trình vận hành hồ thủy điện cũng như hệ thống giám sát, dự báo; chưa đưa ra biến động dòng chảy hạ lưu và ngập lụt lòng hồ tác động hệ sinh thái ra sao, bảo tồn các loại cá… Bài báo không nhắc đến chi tiết liên quan một trong các chủ đầu tư là…Tổng Công ty Điện lực Dầu khí VN. Sau đó, báo Tài Nguyên Môi Trường (4-11-2019) thông tin: chủ đầu tư dự án Luang Prabang là công ty TNHH Năng lượng Luang Prabang của Lào, với hai cổ đông: Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam góp 38% vốn chủ sở hữu; Công ty TNHH PT của Lào giữ 37%; và chính phủ Lào sở hữu 25% vốn.
Trên Asia Sentinel (23-12-2019), cựu viên chức ngoại giao Mỹ David Brown, vào cuối tháng 12/2019, viết: “Con đập dự kiến tại Luang Prabang sẽ là một thảm họa chính trị tuyệt đối của Việt Nam”!
Ngay thời điểm này, đồng bằng sông Cửu Long đang chứng kiến tình hình khốc liệt. Tháng 2-2020, lượng nước Mekong đổ về ĐBSCL thấp hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ năm 2016. Hiện tượng ngập mặn đã xâm nhập vào các kênh rạch nội đồng ven sông Hậu. “Hạn hán và xâm nhập mặn đang gây thiếu nước nghiêm trọng”: 3.600 hécta lúa ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng có nguy cơ mất trắng. 26.000 hộ dân tỉnh này cũng đang thiếu nước sạch sử dụng. Trà Vinh có hơn 10.000 héc-ta lúa đông xuân thiếu nước tưới, khả năng mất trắng 50%. Bến Tre đang “mặn chát tứ bề”.
Những người ủng hộ nói rằng, việc tham gia dự án Luang Prabang sẽ giúp Việt Nam kiểm soát được thiết kế sao cho giảm thiểu tối đa mức độ ảnh hưởng đối với ĐBSCL. Tuy nhiên,chỉ cần tham khảo một chút: chủ đầu tư đập Xayaburi, công ty Thái Lan CK Power, cho biết họ đã chi hơn 600 triệu USD để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, trong đó có việc dựng các “bậc thang” cho cá và lắp hệ thống cổng để trầm tích có thể lọt qua. Tuy nhiên, ngay sau khi Xayaburi hoạt động (tháng 10-2019), nước sông Mekong, từ màu nâu chocolate thông thường đã biến thành màu xanh dương trong vắt tại các khu vực cực Nam tức là TRẦM TÍCH NÂU PHÙ SA ĐÃ BIẾN MẤT. Đó là tình trạng “nước đói” (“hungry water”). Nước đói không chứa trầm tích nên chảy cực mạnh, phá hoại kinh khủng, ăn lở vào bờ và gây sụp lún. “Nước đói” đang dịch chuyển nhanh vào Campuchia khiến hồ Tonle Sap lớn nhất Đông Nam Á cạn dần, chết khô.
Chừng nào “nước đói” tràn ngập ĐBSCL? Câu chuyện công ty Thái Lan CK Power liên quan gì đến dự án Luang Prabang? PetroVietnam tham gia đầu tư đập Luang Prabang, sẽ thu được bao nhiêu, so với tình thế bi thảm khốc liệt mà hàng triệu người ĐBSCL có thể phải gánh chịu?
Brian Eyler, giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Stimson, tác giả quyển Last Days of the Mighty Mekong, ghi nhận: gần đây, mỗi năm có đến 300.000 người Việt phải bỏ xứ. Nhiều khu vực ĐBSCL, nơi sinh sống của 20% dân số Việt Nam, đang “lún” xuống biển. Ông đã tặng cuốn sách cho chị Phạm Chi Lan. Một bạn trẻ đang dịch cuốn sách. Chúng tôi sẽ giới thiệu những lần tới.
Ảnh 3: đập Xayaburi chắn ngang dòng Mekong.

FB Vũ Kim Hạnh




ĐẦU TƯ THUỶ ĐIỆN Ở LÀO, VIỆT NAM CHUNG TAY HUỶ HOẠI SÔNG MEKONG ?

PHÚ LỘC/ BVN 2-3-2020

https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/thuydien5_sgfc.jpg
Liệu chúng ta có phải là thế hệ cuối cùng được mưu sinh trên dòng Mekong hùng vĩ? Ảnh: Thanh Niên.
Cuối năm 2019, giữa lúc giới khoa học đang đầy quan ngại về tình trạng của dòng Mekong trước biến đổi khí hậu và thuỷ điện, chính phủ Lào công bố kế hoạch xây dựng thuỷ điện Luang Prabang sau khi đã hoãn hơn 10 năm. Đáng chú ý hơn, nhà đầu tư lớn nhất của dự án này là một công ty quốc doanh đến từ Việt Nam – đất nước có tiếng nói phản đối dự án mạnh mẽ nhất trước đó.
Quyết định này không chỉ đe doạ tương lai của dòng sông, mà còn đánh mất uy tín cùng những nỗ lực bảo vệ sông Mekong của chính phủ Việt Nam trong suốt thời gian qua.

Lại một con đập nữa…

PV Power (Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam) góp 38% vốn (tương đương khoảng 1,6 tỷ USD) trong dự án thuỷ điện Luang Prabang dự kiến khởi công năm 2020 và hoàn tất năm 2027. Dự án có công suất 1.460MW này là một phần trong kế hoạch bán “vốn tự có” để xóa đói giảm nghèo của chính phủ Lào.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/0d14e715-9ebc-4c7d-bb21-0cb378302b8e.jpeg
Nhà máy sẽ được đặt tại làng Houygno thuộc tỉnh Luang Prabang, cách thủ phủ tỉnh khoảng 25km và cách đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khoảng 2.036km.
Kế hoạch xây dựng con đập này đã có từ năm 2007. Việt Nam và Lào khi đó ký với nhau một biên bản ghi nhớ, ủy quyền cho PV Power xây dựng nhà máy thủy điện Luang Prabang.
Vào thời điểm đó, thủy điện vẫn được xem là một nguồn năng lượng lành mạnh và hữu dụng, và vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về các tác động của nó đối với môi trường và sinh kế của người dân.
Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, một loạt các dự án xây đập ở hạ nguồn sông Mekong của Lào đã dẫn đến phản đối và quan ngại sâu sắc từ chính phủ Việt Nam.
Ít nhất là từ cuối năm 2010, khi Lào thông báo về kế hoạch xây dựng đập Xayaburi trên dòng sông Mekong, Việt Nam là nước phản đối mạnh mẽ nhất, khi kêu gọi tạm hoãn dự án 10 năm vì các tác động của nó đến ĐBSCL.
Những tiếng nói mạnh mẽ của chính quyền Hà Nội lúc bấy giờ đã trở thành động lực cho các nhóm xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ, giới chuyên gia và học giả trong khu vực lên tiếng bảo vệ dòng sông Mekong.
Sau gần một thập kỷ phản đối, giờ đây Việt Nam lại trở thành đối tác với Lào trong dự án thủy điện Luang Prabang. Chính phủ Việt Nam dường như đã thay đổi thái độ và đứng về phía những dự án có khả năng hủy hoại dòng sông cũng như tương lai của 60 triệu người phụ thuộc vào nó.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/image8-1.jpg
Hạ lưu dòng Mekong trong một đợt hạn hán kéo dài. Nguồn: Baritta Wangkiat/AFP Forum
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về Biến đổi Khí hậu (Dragon Institute – Mekong), Đại học Cần Thơ trả lời RFA tháng 11/2019 rằng sự kiện này phải được xem là một hành động cực kỳ nghiêm trọng, dẫn nhanh đến sự hủy hoại hệ sinh thái và cuộc sống ở hạ lưu ĐBSCL.
“Các quan chức Việt Nam đồng lõa với quyết định hợp tác xây dựng dự án thủy điện Luang Prabang phải chịu trách nhiệm lịch sử và chính trị với nhân dân Việt Nam”, ông nói.

… góp phần huỷ hoại dòng sông

Các bằng chứng khoa học về những tác động ngầm của dự án Luang Prabang là rất rõ ràng. Các tác động chính bao gồm hủy hoại nguồn cá, mất trầm tích và thay đổi dòng chảy, gây nguy hại đến an ninh lương thực và sinh kế của cộng đồng lưu vực sông”, theo tổ chức International Rivers.
Các đập thủy điện đã ngăn chặn sự di cư của khoảng 160 loài cá. Các nguồn cá di cư không thể đến được nơi sinh sản, và đang gặp nạn. “Cá cần phải di cư về nơi thượng nguồn xa xôi (Bắc Lào) để sinh sản, và cá con phải quay trở lại vùng đồng bằng ngập nước ở ĐBSCL và Biển Hồ (Tonlé Sap) để kiếm ăn. Bất kỳ trở ngại nào đối với sự di cư của cá có thể đẩy chúng đến bờ vực tuyệt chủng.”, Marc Goichot (cố vấn cao cấp của chương trình Greater Mekong thuộc tổ chức World Wildlife Fund) cho biết trên tờ The Guardian.
Bên cạnh đó, việc thiếu phù sa và trầm tích hàng năm làm ĐBSCL thay vì được bồi đắp thì đang trong quá trình tan rã do xâm nhập mặn và mực nước biển dâng. Sự trù phú một thời của vùng đồng bằng này đang dần biến mất, mùa lũ về muộn hơn dẫn đến thiếu nước, trong khi các mạch nước ngầm ở Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười đang dần cạn nước.
Năm 2019, khu vực này đã trải qua một đợt hạn hán thảm khốc, và sau đó là một đợt lũ kỷ lục. Biến đổi khí hậu là một trong những nguyên nhân, nhưng chính việc trữ nước trong các hồ chứa và xả nước tùy tiện đã làm trầm trọng thêm các tác động xấu trong giai đoạn chuyển mùa. Theo các nhà môi trường, những con đập quy mô lớn, đặc biệt là những con đập được xây dựng trên dòng chảy chính của sông, là nguyên nhân chính cho khủng hoảng sông Mekong.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/mrc-photo-3.jpg
Một bé gái ở làng Khokkhan, một trong sáu ngôi làng sẽ hoàn toàn bị nhấn chìm khi xây thuỷ điện Luang Prabang. Ảnh: Zsombor Peter/VOA.
Cái giá phải trả là vô cùng lớn không chỉ cho Lào hay Việt Nam. Trước hết, con đập sẽ buộc 17.700 dân làng di dời chỉ để nhường chỗ cho hồ chứa nước khổng lồ. Sinh kế của người dân Lào chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng vì các chương trình tái định cư ở Lào thường đền bù không thỏa đáng. Rộng hơn, dự án này sẽ làm trầm trọng thêm tình hình của hạ lưu sông Mekong – vùng đất trũng là nơi kiếm sống của 20 triệu người Việt Nam và 10 triệu người Campuchia.
Con đập này cũng đe doạ sự tồn vong của các di sản văn hoá. Vì chỉ cách thủ đô hoàng gia cổ đại Luang Prabang có 25km, dư luận lo ngại rằng nếu tai nạn đập xảy ra thì di sản văn hóa được UNESCO công nhận này sẽ bị phá hủy đến mức không thể khắc phục.

Có phải là do nỗi sợ Trung Hoa?

Đập Luang Prabang chắc chắn sẽ làm trầm trọng thêm những mất mát của 20 triệu nông dân Việt Nam tại vùng ĐBSCL. Cũng với quyết định này, uy tín ngoại giao của chính quyền đã xuống thấp ngang với mực nước sông Mekong mùa cạn, đồng thời cuốn trôi nỗ lực hơn chục năm bảo vệ dòng sông của các chuyên gia, học giả và cộng đồng sống ven sông.
Liên minh Save the Mekong gọi chính phủ Việt Nam là vô lý, thất thường, và hành động ngược lại với những lời lẽ quan ngại được chính họ “nhai đi nhai lại” trong các tiến trình tham vấn trước (prior consultation) tại Ủy hội sông Mê Công (Mekong River Commission) từ trước đến nay.
Nhiều nhà phê bình Việt Nam cũng cho rằng sự thay đổi chính sách trên sẽ khiến chính quyền Hà Nội phải trả giá đắt về uy tín quốc tế của họ. PV Power là một công ty quốc doanh, và nếu công ty này đảm nhận dự án phát triển thủy điện Luang Prabang có thể được các bên hiểu là chính quyền Hà Nội đã chính thức “nhúng chàm” vào các dự án thủy điện của Lào.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/image1.jpg
PV Power tổ chức hội thảo về Thuỷ điện Luang Prabang, tháng 6/2019. Ảnh: PetroTimes.
Phát biểu ở Hội thảo tham vấn quốc gia về Dự án thủy điện dòng chính Luang Prabang ngày 4/11/2019, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường Lê Công Thành cho rằng quyết định đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ giúp Việt Nam chủ động hơn để giảm thiểu tác động xấu.
“Chúng ta có thể tham gia ngay từ đầu vào quá trình lựa chọn phương án thiết kế, thi công và vận hành công trình trên cơ sở điều tiết đa mục tiêu. Qua đó, góp phần giảm thiểu được tác động của không chỉ công trình thủy điện này mà còn của tổ hợp các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong”, ông nói.
Một nguồn tin giấu tên cho biết trên tờ The Diplomat rằng Việt Nam “không có lựa chọn nào khác”. Dù biết quyết định này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến ĐBSCL, nhưng nếu Việt Nam không phát triển đập thì Trung Quốc sẽ làm.
Quan điểm trên dường như trùng khớp với nỗi lo lắng về việc Trung Quốc mở rộng lợi ích dọc theo sông Mekong. Với gần mười đập thuỷ điện ở thượng nguồn và kế hoạch xây thêm ba con đập ở hạ lưu phần sông MeKong của Lào: Don Sahong (đang được xây dựng), Pak Beng và Pak Lay, Trung Quốc có một quyền lực rất lớn với các quốc gia hạ nguồn.
Thật vậy, các đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mekong giữ lại một lượng nước khổng lồ. Trong mùa khô và thời kỳ hạn hán, nước từ các đập thượng nguồn của Trung Quốc chiếm 40-50% lượng nước trong hệ thống Mekong. Theo chuyên gia Brain Eyler giải thích trên BBC tiếng Việt, lượng nước này có thể được dùng để giảm hạn hán ở hạ lưu nếu họ muốn. Điều không may là, Trung Quốc không dễ dàng đồng ý làm như vậy.
Nhiều người cho rằng vì lo ngại việc biến sông Mekong trở thành quân cờ chính trị của Trung Quốc nên Việt Nam đã “chộp” lấy một dự án xây đập khác ở Lào, để “nhận phần” nước và cũng để tự túc nguồn nước chống hạn trong mùa khô.
Việc viện dẫn “ông kẹ” Trung Quốc có thể thu hút được sự đồng tình của dư luận Việt Nam. Tuy nhiên, quan điểm này bị phản đối bởi nhiều chuyên gia tài nguyên nước. Một nguồn tin khác từ PetroVietnam thừa nhận rằng, cũng giống như những con đập khác, “đập Luang Prabang sẽ làm giảm lượng phù sa và lượng nước đến ĐBSCL”.
Bác sỹ Ngô Thế Vinh nhận định trên tờ RFA rằng chính các nhóm lợi ích như băng đảng mafia mai phục trong khắp các công ty quốc doanh đã lũng đoạn chính sách, khiến Việt Nam bị khuất phục và quy hàng trước chiến lược thủy điện của Lào.

Chạy đua thuỷ điện

Các chuyên gia vẫn đang tiếp tục kêu gọi Việt Nam và Lào cân nhắc lại. Ngoài các lý do ảnh hưởng đến môi trường và sinh kế của người dân như đã trình bày ở trên, một nghiên cứu của Uỷ hội sông Mê công (MRC) năm 2018 cho rằng đây có thể là một tính toán thiếu khôn ngoan về mặt kinh tế.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/01/ap_laos_dam.jpg
Đập thuỷ điện Nam Theum 2 ở miền Trung Lào năm 2010, một trong những công trình đầu tiên trong mục tiêu trở thành cục pin của châu Á. Ảnh: David Longstreath/AP Photo.
Theo đó, đến năm 2040, Lào dự định xuất khẩu 11.739 MW điện sang Thái Lan, trong khi chính quyền Thái Lan thông báo nhu cầu của mình chỉ khoảng 4.274 MW. Lượng chênh lệch 7.500 MW này còn lớn hơn tổng công suất của bảy con đập trên dòng chính của Lào, bao gồm cả những dự án chưa xây dựng.
Các tổ chức vẫn không ngừng kêu gọi các quốc gia chú tâm vào năng lượng tái tạo. Với công nghệ sản xuất ngày càng tiên tiến, chi phí sản xuất điện mặt trời đã có thể giảm đến mức cạnh tranh được với thuỷ điện. Lấy ví dụ về Pak Lay, dự án thủy điện dòng chính trên sông Mekong vừa được phê duyệt năm ngoái. Sinohydro, là nhà thầu của dự án, dự định sẽ bán điện với giá US8.2¢ (0.082 USD) cho mỗi kWh. Trong khi đó, năng lượng mặt trời sẽ được bán với giá US7¢ hoặc ít hơn, cho mỗi kWh.
Đó rõ ràng là một lựa chọn không chỉ bền vững hơn, an toàn hơn, mà còn khả thi hơn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, theo AsiaSentinel, chưa có dấu hiệu nào cho thấy các quốc gia sẽ thay đổi lựa chọn
Một con đập gây tranh cãi khác là Xayaburi vẫn được Lào đưa vào vận hành từ tháng 10/2019. Khoảng hơn một tháng sau, một trận động đất 6,1 độ richter xảy ra ngay trong khu vực này. Bắc Lào vốn là vùng động đất, và các con đập dày đặc sẽ còn làm tăng nguy cơ động đất do hồ chứa, do sức nặng thường trực của một lượng nước khổng lồ gây mất cân bằng địa chấn.
Không ai biết rằng tình hình phải trở nên tồi tệ đến mức nào mới đủ để cuộc chạy đua thuỷ điện này dừng lại.

P.L.



MỘT ĐBSCL Ô NHIỄM GIỮA MÙA HẠN MẶN

NGÔ THẾ VINH/ BVN 24-2-2020
Water, water, everywhere, Nor any drop to drink Nước, nước, khắp nơi, Không có giọt nước uống [Samuel Taylor Coleridge 1772-1834] Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
HẠN MẶN VÀ Ô NHIỄM 13 TỈNH MIỀN TÂY
      Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung toé, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.
      Người bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi: “Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông, do phân bón hoá học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các khu gia cư.
      Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
      Với tầm nhìn qua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020
      Không thể tách rời vấn đề Nước và Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu” cho Ngày Nước Thế giới 22/ 03/ 2020 năm nay.
      Trước những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng biến thiên chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó mà tiên đoán được về nguồn nước có thể sử dụng – water availability, với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, và đe doạ sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.
      Dân số toàn cầu từ 7,2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7,7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu nước,  kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý nước – water treatment. Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ chứa carbon thiên nhiên – carbon sinks từ các vùng đất đầm lầy.
      Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.

      Một ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia [Tây Tạng*, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam] giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích luỹ nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu  khác.
[* Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm.]
      Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp – integrated approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
      Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thuỷ lợi không hiệu quả; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thuỷ học – hydrological data, qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
      Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân.
      Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu – targeted strategies, ưu tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. (1)
GIỚI THIỆU DRAGON MEKONG
      DRAGON là chữ viết tắt của Delta* Research And Global Observation Network / Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu. DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế giới.
[Ghi chú: Delta* thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.]
Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu / Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ / Deltas trên toàn cầu. Các vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận định: “Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực / catchment area”.
Từ năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm: 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi Khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ được xếp là vùng dễ bị tổn thương ở mức độ rất cao.
Do tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21 tháng 11 năm 2008, Đại học Cần Thơ kết hợp với Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ – US Geographical Survey (USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia – National Wetlands Research Center Hoa Kỳ (NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON Institute Mekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học Cần Thơ, ĐBSCL. (4)
/var/folders/v5/9kyxsl596fb0gkcmcw2bwh7w0000gn/T/com.microsoft.Word/WebArchiveCopyPasteTempFiles/Logo-DRAGON-28-10-2013---no-frame-final.jpg
Hình 1 - Logo Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong – Đại học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global Observation Network – Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu, được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ. (4)
http://vietecology.org/../../../../../images/Articles/286-3.jpg
Hình 2  - Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL chụp hình trước cơ sở đầu tiên của Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu / DRAGON - Mekong Institute, từ trái: TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐHCT), TS Lê Phát Quới (Viện Tài nguyên Môi trường ĐHQG Tp. HCM), Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐHCT), KS Phạm Phan Long (Hội Sinh thái Việt), Th.S Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), BS Nguyễn Văn Hưng [tư liệu Ngô Thế Vinh 2017].
    Xem ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng:  châu thổ Louisiana sông Mississippi – Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong – Biển Đông trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng ĐBSCL hiện đang phải đương đầu với những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt quan trọng giữa hai dòng sông:
(1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp 12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thuỷ điện vô cùng hấp dẫn mà sông Mississippi không có được;
(2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào;
(3) Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt. (3)
Hình 3 -  Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute, với các thành viên tham dự Khoá Tập huấn Báo chí về “Biến đổi Khí hậu và Năng lượng Bền vững” tổ chức từ ngày 22 tới 24 tháng 8, 2019, trong Dự án Mạng lưới Báo chí Địa cầu / Earth Journalism Network. [nguồn: CRUS.Vietnam, Aug 2019] 
            DRAGON Institute-Mekong-CTU sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai; phát triển bền vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.
      Từ khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một trung tâm dẫn đầu của ĐBSCL, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài. (4)
DỰ BÁO MEKONG / FORECAST MEKONG
Qua Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong – Lower Mekong Initiative 2020  được khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam  nhằm tăng cường cam kết của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.
      Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên kết / partnership với Viện DRAGON –  Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với chuyên môn về Mô hình  Khoa học-Trái đất [Earth-science modeling] sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong. 
KHOÁ TẬP HUẤN DỰ BÁO MEKONG
      Trong ba ngày 9-10-11 tháng 12 năm 2009 cùng với viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS và Bộ Ngoại giao Mỹ, đã cùng bảo trợ cho một khoá tập huấn / workshop nhan đề: “Tìm hiểu mối hiểm nguy / risk và đặc tính dễ tổn thương/ vulnerability của các hệ sinh thái nước ngập / Wetlands Ecosystems nơi hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi do Biến đổi Khí hậu và Nước biển dâng”.
Hình 4 - Cho dù cách nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hoá. [Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2)
      Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với ĐH Cần Thơ mà là một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực sông Mekong. Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong”,  một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án phát triển trong lưu vực sông Mekong. (2)
      Khoá tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / ĐBSCL và Biến đổi Khí hậu. Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc; đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước, lượng phù sa / sedimentation, những ảnh hưởng của các đập thuỷ điện trên sự đa dạng sinh học / biodiversity, an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt / seasonal floods, và ảnh hưởng trên sản lượng cá.
      Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận lợi cho các bước thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, theo dõi môi trường / environmental monitoring, với các dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung.
      DRAGON đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu / comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.
      Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models và với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những quyết định chính sách công / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và  các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ.
      Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng trái đất đó là châu thổ sông Mekong [ĐBSCL].
      Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,”  một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ  thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách / policy makers, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án trong lưu vực sông Mekong. (2)
      Chương trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự báo Mekong / Mekong Forecast sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đối Khí hậu và cách quản lý dòng sông / river management.
      Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật / technical expertise để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, hướng dẫn theo dõi môi trường / environmental monitoring, với những dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện / training và chuyển giao kỹ thuật / technological transfer, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện / data sharing.
Hình 5 - Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân: (1) do các con đập thượng nguồn; (2) do nạo vét cát dưới lòng sông; (3) do nước biển dâng; (4) do ô nhiễm sông rạch; (5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá huỷ sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm 2 con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm nay. [International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020].
      Một ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận Bão nhiệt đới Katrina 2005 của thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippi với tổn thất 1800 nhân mạng, đã để lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.
      DRAGON đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới.  Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.
      Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models cùng với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những hoạch định chính sách / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và  các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên hành tinh này.
Hình 6 - ĐBSCL với những cánh đồng bị khô nứt – sa mạc hoá / desertification, do trận hạn hán khốc liệt năm 2016. (trên) [VN Express 3/11/2016]; Dự báo Mekong: trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng hơn năm 2016.  Mekong Delta barbecue / ĐBSCL bị nướng do khô hạn (dưới) [tranh biếm hoạ của Babui, tặng Ngô Thế Vinh].
NƯỚC QUANH TA: GIẢI PHÁP DO THÁI
Khan hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm trong bối cảnh toàn cầu ấy.
      Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển, có bài học từ một đất nước Hoà Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ.
      Thiếu nước ngọt: nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh tươi.
      Nước được khai thác từ nhiều nguồn, (1) từ giếng tới tầng nước ngầm, (2) từ nước biển khử mặn, (3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, (4) chiết xuất nước từ độ ẩm trong không khí…
      Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ thuật từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm nước của toàn dân – được giáo dục ngay  từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi lãnh vực sinh hoạt.
      Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu nước.
 
Hình 7 - Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất nhiều nước trong canh tác; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt / drip irrigation thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hoá chất trên vùng canh tác [Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9) .
ĐBSCL SẼ VẪN MÃI XANH TƯƠI 
Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời ấy.
      Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá. Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hoá và xói mòn. Mọi nguồn tài nguyên bị tận lực  khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước. Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người / human rights.
Với những công trình phát triển tự huỷ, và sắp tới đây, con đập thuỷ điện  Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, và cũng  từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.
      Với tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi. Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc tới một vấn đề rất cốt lõi: “Môi sinh và Dân chủ” sẽ mãi mãi là bộ đôi không thể tách rời / Inseparable Duo.
THAY CHO LỜI KẾT
     Nhân Ngày Nước Thế giới 22 tháng 3 năm nay 2020, với chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu”, trước tình cảnh một ĐBSCL đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái: “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước”. (9)  Nước theo cái nghĩa là “nguồn nước sạch” có thể sử dụng được. Oded Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát triển.
N.T.V.
California 21.02.2020 [Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]
THAM KHẢO:
1/ UN-Water Policy Brief on Climate Change and Water, 12 July 2019 https://www.unwater.org/publications/un-water-policy-brief-on-climate-change-and-water/

2/ A Different Delta Force – USGS and U.S. Department of State Assist in the Mekong Delta, By Gabrielle B. Bodin, March 2010 [revised Feb. 2013]

3/ The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership, Similarities and Differences. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.15.2011 4/ Research Institute for Climate Change (DRAGON institute - Mekong) https://dragon.ctu.edu.vn/ 5/ Thăm Khu Nhà Máy Xử lý Nước Thải và Hệ thống Bổ sung Tầng Nước Ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03 - 24.07.2017 6/ From A Mekong Delta Threatened by Salinization to the Carlsbad Desalination Plant. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.2020 7/ Promising way to make fresh water for family use, 1.5 gallons per hour for each square meter of solar collecting area. http://news.mit.edu/2020/passive-solar-powered-water-desalination-0207 8/ Creating Drinking Water from Air. Watergen Technology from Israel. https://www.watergen.com 9/ Let There Be Water. Israel’s Solution for a Water-Starved World. Seth M. Siegel. Thomas Dunne Books. An imprint of St. Martin’s Press 2017.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét