Thứ Hai, 4 tháng 3, 2019

20190304. BÀN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TINH HOA

ĐIỂM BÁO MẠNG
PHẢI KHƠI GỢI NHỮNG GIÁ TRỊ ĐỨT GÃY, KIẾN TẠO ĐỘI NGŨ TINH HOA THỰC CHẤT

PHAN ĐĂNG pv NGUYỄN SĨ DŨNG / ANTG 25-2-2019

Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng trò chuyện cùng phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng. Ảnh: Chiến Thắng.
Những ngày đầu năm là thời điểm mà người ta thường nghĩ nhiều về tương lai. Đó là tương lai của mình, của gia đình mình và thiêng liêng nhất là tương lai của Tổ quốc, dân tộc mình. Nếu bảo để trả lời những câu hỏi lớn mang tầm triết học như "Chúng ta là ai?", "Chúng ta sẽ đi về đâu?" là quá to tát thì ít nhất người ta cũng phải viễn kiến được trong một tương lai gần, điều gì rồi sẽ xảy ra? 
Bên chén trà đầu năm, TS Nguyễn Sĩ Dũng - một trong những nhà khoa học chính trị uy tín nhất hiện nay đã dốc lòng chia sẻ với chúng tôi những điều như thế.
- Nhà báo Phan Đăng: Thưa tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, cá nhân tôi thấy những đau đáu về tương lai là những đau đáu cần thiết của những trí thức lành mạnh, trong một dân tộc lành mạnh. Nhưng, chính từ những nỗi niềm đau đáu như vậy mà đã nảy ra những quan điểm rất khác nhau trong việc chọn lựa những mô hình phát triển thích hợp, giúp cho khoảng cách đến tương lai là gần nhất. Là một người nhiều năm trong cơ quan lập pháp, chắc chắn ông thấy rõ điều này?
- Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Quả đúng như vậy, lựa chọn mô hình phát triển là một trong những lựa chọn hệ trọng nhất nhưng cũng dễ gây tranh cãi nhất. Điều đáng mừng là trong công việc này, có vẻ như đất nước chúng ta đang đi đúng hướng. Cho dù đường đi  vẫn còn đầy rẫy những dích dắc. 
Đối với một xã hội, đó có thể chỉ là vấn đề phát triển nhanh hay chậm nhưng đối với mỗi đời người thì mọi chuyện lại rất khác. Xã hội ốm đau bằng những kiếp người. Có khi cả một hoặc vài thế hệ phải chứng kiến những cải thiện đời sống của mình cứ ở trạng thái dích dắc mãi thế thôi. Thành thử nó khiến cho nhiều người sốt ruột.
- Còn tâm lý của một nhà khoa học như ông là gì?
- Tôi thấy bớt dích dắc hơn thì tốt hơn nhưng có lẽ cũng khó lòng khác đi được. Trên thực tế,  lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước với lựa chọn mô hình phát triển là hai việc khác nhau. Thế nhưng, mỗi mô hình tổ chức nhà nước lại thường được gắn với một mô hình phát triển. Kể từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã cố gắng giữ nguyên mô hình tổ chức nhà nước nhưng lại tìm cách thay đổi mô hình phát triển. Đấy là quá trình xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Lựa chọn mô hình phát triển thực chất là lựa chọn cách thức đối xử với nền kinh tế. Nhìn vào lịch sử phát triển của các nước đều đã "hóa rồng" ở khu vực Đông Bắc Á, chúng ta thấy rằng, cách cư xử với nền kinh tế của hầu hết các nước này đều theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, mặc dù cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của họ thì lại rất khác nhau. 
Nhật Bản theo mô hình đại nghị kinh điển kiểu Anh, tức là người dân chỉ bầu ra quốc hội và đảng nào có đa số trong quốc hội thì đảng đó được thành lập chính phủ. Hàn Quốc, Đài Loan lại theo mô hình tổng thống lưỡng tính, tức là tổng thống nắm quyền hành pháp được bầu riêng nhưng lại vừa có tổng thống, vừa có thủ tướng. Quyền hành pháp được phân chia giữa tổng thống và thủ tướng.
- Mô hình tổng thống lưỡng tính có vẻ là một phái sinh của mô hình tổng thống toàn phần kiểu Mĩ, phải không ông?
- Chính xác hơn, mô hình tổng thống lưỡng tính là mô hình có sự kết hợp những đặc tính của mô hình tổng thống với những đặc tính của mô hình đại nghị. Mô hình tổng thống của Mĩ thì toàn bộ quyền hành pháp nằm trong tay tổng thống, chứ không phải phân chia cho ông thủ tướng nào cả.
- Mỗi nhà nước có quyền chọn lựa cho mình những mô hình tổ chức và phân chia quyền lực khác nhau nhưng có vẻ như đấy không phải là mấu chốt giúp một đất nước phát triển. Mấu chốt nằm ở chỗ, các nhà nước sẽ tác động lên nền kinh tế của mình theo cách nào. Tôi hiểu ý ông như thế, có chính xác không ạ?
- Rất chính xác! Tổ chức quyền lực nhà nước có thể khác nhau nhưng cách thức tác động tới nền kinh tế giống nhau thì vẫn có thể đem lại hiệu quả như nhau. Mà nói đến cách thức tác động tới nền kinh tế thì, chúng ta có thể chia ra 3 loại. 
Thứ nhất là loại nhà nước điều chỉnh theo kiểu Anh, Mỹ. Tổng thống Mỹ muốn tăng việc làm cho ngành than thì ông ta có thể hạ các tiêu chuẩn xả thải của điện than, khi đó chi phí sản xuất sẽ giảm. Chi phí sản xuất giảm thì lợi nhuận tăng. Lợi nhuận tăng lại thúc đẩy sản xuất tiếp. Thúc đẩy sản xuất tiếp thì có thể mở rộng khai thác. Và mở rộng khai thác than thì có thể mở rộng cơ hội việc làm. Đấy, nhà nước điều chỉnh bằng các chính sách theo kiểu đó, chứ không trực tiếp đứng ra tổ chức khai thác than.
- Hoặc không ngấm ngầm giao cho một "công ty con" của một ai đó đứng ra làm...!
- (Cười...). Không! Mô hình thứ hai là mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung theo đúng kiểu Xôviết trước đây hay kiểu của Việt Nam trước năm 1986 và có thể là của Cuba một vài năm trước. Trong mô hình này, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể làm kinh tế là chính, người dân mà đứng ra kinh doanh là phạm luật. 
Lịch sử chứng minh rằng mô hình này vẫn có thể thành công ở một giai đoạn ngắn nếu kỷ luật và sự hà khắc được áp dụng triệt để mà chúng ta có thể thấy rõ nhất là trong thời Stalin ở Liên Xô trước đây. Nhưng mô hình này lại chứa đựng một rủi ro không thể vượt qua - nó triệt tiêu động lực.
- Vì phải dồn lực cho kinh tế nhà nước, ai cũng phải vào hợp tác xã, ai cũng sẽ làm việc như ai, để hướng đến cái gọi là "làm theo năng lực/ hưởng theo nhu cầu" thì làm gì còn động lực nữa.
- Đúng rồi! Nếu mô hình nhà nước điều chỉnh tôn trọng tuyệt đối thị trường, thì mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung lại triệt tiêu tuyệt đối thị trường. Thế nên mới nảy sinh một mô hình thứ ba, đứng giữa. Đó là mô hình nhà nước không phủ nhận thị trường nhưng tích cực tác động lên thị trường để hiện thực hóa chương trình công nghiệp hóa của mình. Một mô hình "ở giữa" như vậy được người ta gọi là mô hình nhà nước kiến tạo và phát triển. 
Về cơ bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc... đều đi theo mô hình này. Và có một điểm chung, đó đều là những nước Đông Bắc Á.
- Singapore nằm ở Đông Nam Á, thưa ông!
- À, Singapore dù nằm ở Đông Nam Á nhưng với đặc thù dân cư của mình thì lại mang đầy đủ những nét văn hóa của Đông Bắc Á.
- Việt Nam của chúng ta cũng nằm ở Đông Nam Á và có vẻ chúng ta cũng có một nghịch lý như Singapore, ông nhỉ?
- Về mặt địa lý đúng là chúng ta được xếp ở khu vực Đông Nam Á nhưng về văn hóa, chúng ta lại thuộc về khối Đông Bắc Á. Chúng ta ăn đũa, chúng ta từng dùng chữ tượng hình giống các nước Đông Bắc Á. 
Mặc dù bây giờ chúng ta bỏ đi chữ tượng hình, tức là bỏ đi một dung lượng văn hóa truyền thống rất lớn của ông cha mình nhưng cách tư duy tượng hình trong chúng ta thì vẫn còn. Và như vậy, chúng ta sẽ thấy mô hình phát triển của Đông Bắc Á mới thực sự phù hợp với chúng ta.
- Tức là theo ông, văn hóa chính là cái quyết định quan trọng nhất xem một quốc gia nên lựa chọn mô hình phát triển theo phương thức nào?
- Văn hóa chính là nền tảng quan trọng nhất. Các nước theo mô hình nhà nước điều chỉnh kiểu Anh, Mĩ chỉ có thể thành công nếu có đầy đủ nền tảng văn hóa (coi trọng pháp quyền và quyền tự do) của Anh, Mĩ như Australia hay Canada... 
Cũng vì thế mà chính mô hình này lại không thật thành công ở Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan - những nơi từng là thuộc địa của Anh. Lý do vì ở đây văn hóa Anh không đủ lớn để tạo ra một ưu thế đặc biệt so với văn hóa bản địa. Lấy thêm ví dụ nữa để thấy văn hóa mang tính quyết định, đó là mô hình nhà nước phúc lợi ở các nước Bắc Âu hiện nay như Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan... thì mô hình này cũng chỉ có thể thành công với văn hóa Bắc Âu mà thôi.
- Cụ thể ạ?
- Văn hóa Bắc Âu có một điều rất đáng nói, đó là con người ta luôn biết thế nào là đủ. Ở đây, người ta không quá tham vọng xây dựng một cuộc sống vượt trội mà luôn đặt ưu tiên vào việc tổ chức một cuộc sống hài hòa. 
Thế nên, một người làm được 10 triệu USD chẳng hạn nhưng nhà nước đánh thuế thu nhập lên tới 8 triệu USD thì người ta vẫn thoải mái chấp nhận. Nhưng, đến văn hóa Nam Âu, ở các nước như Pháp, Italia thì đã rất khác rồi, con người Nam Âu rất khó chấp nhận một mức thuế thu nhập cao như thế.
Tất nhiên, câu chuyện cũng phải diễn ra từ hai phía, về phía người dân là như vậy, còn về phía nhà nước, khi người dân đã đóng thuế cao như vậy thì nhà nước phải lo cho dân đầy đủ từ A đến Z. Và đã là dân của một nhà nước phúc lợi thì ai cũng hiểu rằng, từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, họ đều không phải lo lắng gì về các chi phí học hành, đi lại, chăm sóc sức khỏe cả... 
Tôi nghĩ mô hình nhà nước phúc lợi kiểu này chỉ phù hợp với văn hóa Bắc Âu thôi, thử xem ngoài Bắc Âu có chỗ nào thành công nữa không?
- Không ít trí thức Việt Nam luôn lấy các mô hình của Anh, Mĩ làm chuẩn và cho rằng chỉ khi nào chúng ta thực sự thực hiện "tam quyền phân lập" như các nước này thì mới có cơ hội cất cánh. Một cách nghĩ như thế hình như đã bỏ qua yếu tố văn hóa mất rồi?
- Trước hết, “tam quyền phân lập” là cách tổ chức quyền lực nhà nước, không phải mô hình phát triển. Hai là, ngay trong những nước tư bản mà chúng ta vẫn nói là "tam quyền phân lập" thì cũng chẳng có nước nào là "tam quyền phân lập" hoàn toàn. Trong mô hình đại nghị, quyền lập pháp và quyền hành pháp thường hòa lẫn với nhau làm một. Đảng có đa số trong quốc hội thì vừa nắm quyền lập pháp lại vừa nắm quyền hành pháp. 
Mô hình tổng thống kiểu Mĩ được coi là mô hình phân quyền cứng. Tuy nhiên, phân tích kỹ ra thì đấy cũng không phải là phân lập 100%, bởi vì nguyên tắc tổ chức quyền lực ở đây là cân bằng kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền. Quốc hội có quyền thông qua luật nhưng tổng thống lại có quyền phủ quyết luật. Tổng thống có quyền điều hành, nhưng quốc hội lại có quyền phân bổ ngân sách. Quốc hội có quyền phân bổ ngân sách nhưng tổng thống lại có quyền phủ quyết việc phân bổ đó. Điều đáng lưu ý ở đây là: trong bất cứ mô hình nào theo thuyết phân quyền thì quyền tư pháp vẫn rất độc lập.
Ba là, qua phân tích vừa rồi, chúng ta thấy rằng không phải việc tổ chức quyền lực nhà nước theo kiểu nào mà là nhà nước lựa chọn các mô hình phát triển nào mới là điều căn bản tác động lên sự phát triển. Mà các mô hình ấy nhất định phải phụ thuộc vào nền tảng văn hóa. Việt Nam ta, như đã nói ở trên có nền tảng văn hóa Đông Bắc Á và chúng ta thấy hành trình hóa rồng ở các nền kinh tế Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Nhật Bản chứng minh rằng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển là phù hợp hơn tất cả.
- Tại sao văn hóa Đông Bắc Á lại phù hợp với mô hình nhà nước kiểu này, thưa ông?
- Vì nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nhà nước có thể dẫn dắt vì bộ máy hành chính - công vụ của nó là tinh hoa.
- Nhưng điều gì đảm bảo rằng văn hóa Đông Bắc Á lại dễ tạo ra một bộ máy hành chính - công vụ tinh hoa?
- Vì từ xưa Đông Bắc Á là khu vực đặc biệt coi trọng chuyện khoa bảng, thi cử, học hành. Chuyện học hành ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan bây giờ vẫn rất nặng nhọc và nó được hình thành từ truyền thống của Nho giáo ngày xưa. Anh phải học hành, phải được khai sáng thì mới có thể trở thành quân tử. 
Trong truyền thống xưa, "vinh quy bái tổ" luôn là một giấc mơ lớn. Mà ở đấy, người ta "vinh quy bái tổ" là do học hành, thi cử nghiêm túc chứ không phải nhờ thân quen, phe nhóm.
- Vâng, cho dù kiểu học hành đó thật ra cũng có mặt trái là nó tạo ra những trí thức nặng tính tầm chương trích cú.
- Bây giờ nhiều người vẫn hay nói là thi cử ngày xưa toàn tầm chương trích cú. Quả thực, nhìn bề ngoài là như vậy nhưng cũng không nên quá cực đoan ở đây. Bởi tầm chương trích cú nhưng là tầm chương trích cú những tinh hoa văn hóa đỉnh cao nhân loại ở thời điểm đó. Thứ hai, mình phải xem thực tiễn những người thi đậu, làm quan thì như thế nào. Ở vào những thời kỳ phong kiến thịnh trị, những người đỗ đạt làm quan sau này đều trở thành những người lỗi lạc đấy chứ.
Trở lại với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển mà chúng ta đang phân tích, tất cả những nhà nghiên cứu về mô hình nhà nước này đều nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng số 1 là một đội ngũ hành chính - công vụ tinh hoa. Mà hành chính - công vụ tinh hoa thì phải được hình thành bởi một nền tảng học hành, thi cử nghiêm túc. 
Ở Nhật Bản bây giờ có một kỳ thi tuyển công chức tầm quốc gia rất chặt chẽ. Anh phải qua kỳ thi tuyển cấp quốc gia này thì mới có cơ hội được các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương tuyển chọn là công chức. Còn ở Đài Loan, thậm chí khảo thí là một nhánh quyền lực riêng của nhà nước. 
Ở đất nước này, ngoài quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có quyền giám sát và quyền khảo thí - một nhà nước ngũ quyền. Chính vì coi trọng chất lượng thi cử theo đúng truyền thống của văn hóa Đông Bắc Á như vậy nên họ mới tạo ra được một đội ngũ hành chính - công vụ tinh hoa.
- Ở Việt Nam chúng ta, nhà nước kiến tạo phát triển cũng được nói đến rất nhiều trong thời gian qua, thưa ông.
- Ở Việt Nam, thực chất, từ năm 1986, chúng ta đã từ bỏ mô hình kế hoạch hóa tập trung mà chuyển sang mô hình có rất nhiều điểm tương thích với mô hình nhà nước kiến tạo và phát triển rồi. Nhờ thế, nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng kể. 
Nếu có điều kiện đi các nước thuộc Liên Xô cũ, chúng ta sẽ thấy khi còn thuộc Liên Xô thì họ hơn mình nhưng bây giờ khó có nước nào phát triển được như mình. Tuy nhiên, thuật ngữ chính phủ kiến tạo phát triển chỉ mới được nhắc tới trong mấy năm gần đây thôi.
- Vâng, sự thay đổi giúp chúng ta phát triển so với một số nước thuộc Liên Xô cũ hoặc so với chính mình trước đây nhưng so với tốc độ phát triển của chính các nước Đông Bắc Á đã "hóa rồng" thì có vẻ như sự phát triển của chúng ta vẫn chậm, cho dù mô hình của chúng ta giống y như họ. Ông lý giải thế nào?
-Trước hết, có lẽ, mô hình của chúng ta không hoàn toàn giống y như họ. Như đã nói ở trên, nhà nước kiến tạo phát triển mới chỉ được chúng ta nhắc tới trong mấy năm gần đây. Nội hàm của nó vẫn chưa được làm rõ trong khoa học chính trị của nước ta. 
Chính vì vậy vẫn chưa có được sự nhất quán trong chính sách phát triển. Rủi ro hơn, không ít cải cách chúng ta đang thúc đẩy lại đi theo mô hình nhà nước điều chỉnh chứ không phải nhà nước kiến tạo phát triển. Ví dụ, nhiều cam kết trong hàng loạt các hiệp định tự do thương mại cũng hạn chế khả năng can thiệp của nhà nước vào thị trường để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp nội địa...
Hai là, cùng đề ra chương trình công nghiệp hóa nhưng Hàn Quốc, Nhật Bản dựa vào các doanh nghiệp tư nhân thì chúng ta lại dựa vào doanh nghiệp nhà nước. 
Mười lăm năm trước đây, tôi từng viết bài, đấu tranh cho sự phát triển của kinh tế tư nhân và đã bị chụp mũ rất ghê nhưng bây giờ thì kinh tế tư nhân đã được thừa nhận, nút thắt này đã được tháo bỏ rồi. Tuy nhiên bỏ được nút thắt này lại nảy sinh một nút thắt mới, đó là sự móc nối giữa quan chức nhà nước với doanh nghiệp tư nhân.
- Mà thực tế là chuyện này lại xảy ra không ít, đến nỗi, cách đây chưa lâu, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phải "điểm huyệt" rằng đừng nghĩ Thủ tướng không biết có những ông có tới 14-15 cái "sân sau". 
- Giới công chức trong mô hình nhà nước kiến tạo phát triển phải luôn hành động vì lợi ích quốc gia. Tức là phải có tính liêm chính rất cao, không bao giờ để những doanh nghiệp tư nhân tác động lên mình.
- Nhưng làm thế nào để giới công chức giữ được sự liêm chính ấy khi rất nhiều công chức hiện nay vẫn không sống được bằng lương?
- Tất nhiên lương là vấn đề rất quan trọng nhưng với đội ngũ hành chính - công vụ ở các nước Đông Bắc Á, tôi thấy truyền thống Nho giáo sâu xa đã giúp họ giữ gìn được sự liêm sỉ đích thực. 
Ở các nước ấy, truyền thống Nho giáo liền mạch, chứ không bị đứt gãy như ở Việt Nam. Thời phong kiến xưa, ở Việt Nam ta từng có những ông quan sẵn sàng xây dựng kênh rạch tưới tiêu xuyên qua đất của mình. Có liêm chính, có tinh thần phụng sự quốc gia, những người này sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia, chứ tuyệt đối không nắn chỉnh kênh rạch thành một "đường cong mềm mại".
Tất nhiên, vào những thời suy, quan lại phong kiến tha hóa, xấu xa không phải là không có nhưng vào những thời thịnh, số lượng quan thanh liêm là rất nhiều. Sự thịnh trị có được chính là nhờ vào đội ngũ quan lại thanh liêm như vậy. 
Bây giờ chúng ta phải tìm cách khơi gợi, nuôi dưỡng trở lại cái tinh thần bị đứt gãy ấy. Lương bổng là cần nhưng lương bổng chỉ là một nửa của vấn đề. Một nửa còn lại chính là tinh thần, đạo đức, cốt cách và sự liêm sỉ.
- Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển phù hợp với văn hóa truyền thống Đông Bắc Á. Nhưng ông vừa nói là ở ta, truyền thống văn hóa ấy, với đặc trưng là sự liêm chính của những con người đọc sách thánh hiền đã bị đứt gãy quá lâu rồi, vậy thì ở thời điểm hiện nay, việc vận hành một mô hình nhà nước như vậy liệu có gì chông chênh không?
- Đúng là nó có thực tiễn ấy nhưng chúng ta thử suy nghĩ xem, bây giờ những giá trị truyền thống có còn lại gì không? Ví dụ như động lực học hành để làm quan còn không? Còn chứ và vẫn còn rất mạnh. Vấn đề chỉ là cái cách anh đi lên mà thôi. Nếu đi lên không phải qua thi cử thực chất, mà vì là người của phe nọ phe kia, hoặc người biết quan hệ chỗ này chỗ kia thì không ổn...
- Nói một cách hình ảnh thì chúng ta phải xem lại cái lò ấp những người "tinh hoa" của mình, xem đấy có đúng là tinh hoa đích thực không. Rồi phải xem lại cả môi trường để những tinh hoa đích thực - nếu có - sống trong nó nữa. 
- Sáng nay tôi nghe chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói rằng đến năm 2020, chúng ta mà không cải thiện được chất lượng của bộ máy thì sẽ có tội với tương lai đất nước. Tôi rất đồng tình. Và tôi có thể nói rằng, vấn đề số 1, vấn đề nghiêm trọng nhất của chúng ta bây giờ chính là sự thiếu vắng của một đội ngũ công chức tinh hoa.
- Ông là một trí thức rất lâu năm trong bộ máy nhà nước, xin hỏi một câu thực tình, ông thấy có những tinh hoa thật sự trong bộ máy của chúng ta không? 
- Chắc chắn là có! Vẫn có chứ! Nhưng nếu chẳng may có một lãnh đạo ở tầm trung bình thì vị lãnh đạo đó rất ít khi muốn trọng dụng người giỏi hơn mình. Khi đó sẽ nảy sinh tình huống hoặc là những người tinh hoa sẽ tỏ thái độ bất cần, theo kiểu bảo thì làm, không thì chơi, hoặc là sẽ có những tinh hoa vẫn cố gắng thúc đẩy những thứ giá trị khai sáng nhưng vì thế mà có lúc "no đòn".
- Trong quan điểm của ông, vấn đề cốt lõi vẫn là phải tìm cách cải thiện chất lượng và đạo đức đội ngũ hành chính công vụ để nhà nước kiến tạo phát triển có thể vận hành đúng với những tiêu chí lý tưởng của nó, chứ không phải là việc theo đuổi một mô hình nhà nước khác hoặc một mô hình phân chia quyền lực nhà nước khác, ví dụ mô hình dân chủ đa đảng, dựa trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu kiểu phương Tây, đúng không ạ?
- Khi nào đất nước chúng ta có khoảng 75% dân số thuộc tầng lớp trung lưu thì tính gì hãy tính. Còn bây giờ đừng đơn giản hóa chuyện dân chủ bằng cách hô hào dân chủ ào ào. Phải hiểu được giá trị dân chủ và phải có năng lực thực hành dân chủ thì mới áp dụng những mô hình dân chủ được. 
Dân chủ không phải là việc tôi muốn nói gì thì nói nhưng anh không được quyền nói khác ý kiến của tôi. Ngoài ra, nên nhớ, dân chủ là thành tựu và mục tiêu của phát triển hơn là phương tiện để phát triển.
- Xin cảm ơn ông!
Phan Đăng (thực hiện)

HỎI THÊM ÔNG DŨNG

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 2-3-2019

Đây là TS Nguyễn Sĩ Dũng, sinh năm 1955, nguyên Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, người được cho là một trong những nhà khoa học chính trị uy tín nhất hiện nay. Tôi vừa đọc bài của Phan Đăng : “Phải khơi gợi những giá trị đứt gãy, kiến tạo đội ngũ tinh hoa thực chất” (An ninh Thế giới ngày 25/2/2019; Viet-studies ngày 26/2). Phan Đăngtường thuật các câu trả lời của ông Dũng trong một cuộc phỏng vấn về tình hình Việt Nam hiện tại.
Trong phần đầu của bài, ông Dũng trả lời các vấn đề về tổ chức nhà nước và mô hình phát triển kinh tế. Tôi cảm nhận được sự lúng túng khi ông vừa muốn nêu ra, vừa muốn che giấu một sự thật nào đó. Tạm bỏ qua phần này. Phần sau ông đề cập đến tác dụng của nền văn hóa để nêu lên ý kiến rằng, chúng ta khó có thể học và làm theo các nước Bắc Âu, chỉ nên làm theo các nước Đông Bắc Á như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan với Nhà nước kiến tạo. Nhà nước đó dẫn dắt nền kinh tế phát triển vì bộ máy hành chính - công vụ của nó là tinh hoa.
Trong lịch sử các nước Đông Bắc Á, kể cả Việt Nam đội ngũ tinh hoa có năng lực lớn, có liêm chính cao, nhờ vào truyền thống Nho giáo với việc học hành và thi cử nghiêm túc. Thế nhưng tại Việt Nam các giá trị tinh hoa đã bị đứt gãy. Bây giờ phải kiến tạo đội ngũ tinh hoa thực chất. Ông phát biểu: “Và tôi có thể nói rằng, vấn đề số 1, vấn đề nghiêm trọng nhất của chúng ta bây giờ chính là sự thiếu vắng của một đội ngũ công chức tinh hoa”. Và ông tiếp: ”Bây giờ chúng ta phải tìm cách khơi gợi, nuôi dưỡng trở lại cái tinh thần bị đứt gãy ấy”.
Phát biểu của ông Dũng khá phù hợp với suy nghĩ của tôi và nhiều người, nhưng có điều quan trọng chưa thấy ông đề cập, đó là nguyên nhân nào tạo ra đứt gãy và làm sao để kiến tạo được đội ngũ tinh hoa thực chất. Chưa đề cập vì không được hỏi tới, vì thiếu thì giờ hay do ông né tránh bởi dễ chạm đến điều nhạy cảm.
Vậy xin hỏi thêm ông Dũng. Theo ông thì nguyên nhân nào làm đứt gẫy tinh hoa Việt và làm sao để kiến tạo được đội ngũ tinh hoa thực chất. Hỏi để ông có dịp trình bày ý kiến còn câu trả lời thì đã có sẵn. Chỉ là ông xem trả lời như sau đây có hợp ý ông hay không.
Tôi cho rằng sự đứt gãy của đội ngũ tinh hoa Việt là do cộng sản gây ra, đó là một tội lỗi đối với dân tộc. Không những tạo ra đứt gãy mà CS còn hủy hoại đội ngũ tinh hoa với chủ trương đào tận gốc trí phú địa hào, với sự đàn áp các trí thức phản biện và phong trào Nhân văn giai phẩm, với những cuộc chỉnh huấn tư tưởng, với sự áp đặt đường lối và lập trường giai cấp. Kết quả làm phát sinh bộ phận trí thức không thần phục cộng sản, một số bỏ ra nước ngoài, số còn lại người bị tù tội, người bị loại bỏ hoặc bị khống chế. Đảng tự hào đã đào tạo được đội ngũ trí thức hùng hậu với hàng ngàn hàng vạn viện sĩ, giáo sư, tiến sĩ. Tiếc rằng một số trong bọn họ thuộc loại hữu danh vô thực, một số khác đã bị nhào nặn để trở thành những kẻ chỉ biết vâng lời, không còn khả năng sáng tạo và phản biện, một số co mình lại trong vài việc chuyên môn, một số ít công khai hoặc lặng lẽ từ bỏ Đảng. Cứ theo cách đào tạo của ĐCS thì khó mà có được đội ngũ tinh hoa.thực chất. Trong một bài trước đây (Phản biện đường lối cán bộ cộng sản) tôi chứng minh rằng theo Quy hoạch cán bộ của Đảng thì chủ yếu chọn được người cơ hội với lắm mưu mô mà kém trí tuệ, còn những phần tử tinh hoa thực chất đã bị loại ngay từ vòng ngoài.
Lãnh đạo đang nói nhiều đến Nhà nước kiến tạo. Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng thì: “Vì nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nhà nước có thể dẫn dắt vì bộ máy hành chính - công vụ của nó là tinh hoa”. Nói như vậy phải chăng bộ máy hành chính-công vụ tinh hoa là đặc điểm của Nhà nước kiến tạo. Theo tôi bất kỳ Nhà nước loại nào, để làm tốt chức năng thì bộ máy cũng phải bao gồm những người tinh hoa chứ chẳng riêng gì nhà nước kiến tạo.
ĐCSVN đang loay hoay với việc tìm và sử dụng tinh hoa, nhưng tinh hoa mà ĐCS muốn tìm và tìm được phần lớn là tinh hoa dỏm, không phải tinh hoa thực chất. Tại sao vậy? Tại vì tinh hoa thực chất, ngoài việc có tri thức cao, rộng và chính xác còn cần khả năng sáng tạo và phản biện, trong lúc tiêu chuẩn cơ bản để chọn CB của ĐCS là kiên trì Mác Lê, tuyệt đối trung thành, lập trường giai cấp vô sản v.v… Những tính chất kiên trì và trung thành với phản biện và sáng tạo thường loại trừ nhau, khó cùng tồn tại trong một con người.
Theo ông Dũng thì để đào tạo tinh hoa phải trên cơ sở nền tảng học hành và thi cử nghiêm túc. Điều này chỉ đúng một phần đối với “tinh hoa tỉnh lẻ”. Còn đối với tinh hoa cấp quốc gia thì học hành và thi cử chỉ là phần phụ. Tinh hoa thực chất ở cấp cao được hình thành nhờ kết hợp giữa điều kiện cần và đủ sau đây. Cần là có GIỐNG tốt và đủ là MÔI TRƯỜNG phù hợp cho sự phát triển. Hạt giống tinh hoa là thuộc Tiên thiên, là sản phẩm của khí thiêng sông núi. Hạt giống tốt có nhiều trong nhân dân, đời nào cũng có, ở đâu cũng có. Nhưng để hạt giống phát triển được thành tinh hoa thì còn cần môi trường phù hợp. Nếu bị vùi dập, bị chà đạp hoặc gặp phải môi trường quá khó khăn thì hạt giống dù có tốt cũng bị hủy hoại hoặc khó phát triển.Đó là tình hình ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. Môi trường tốt chủ yếu là tự do, dân chủ. Tự do quan trọng nhất là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do cạnh tranh. Dân chủ quan trọng nhất là trong bầu cử để lựa chọn người đại diện, lựa chọn người để phó thác trách nhiệm. Môi trường phù hợp hay không chủ yếu do chính quyền tạo ra.
Vậy muốn có tinh hoa thì Nhà nước phải tạo ra được môi trường thực sự tự do dân chủ. Sau đó rồi mới bàn đến học hành, đào tạo, thi cử. Liệu Nhà nước của ĐCSVN hiện nay có muốn và có thể tạo ra hoặc chấp nhận môi trường đó không. Nếu không thì việc tìm tinh hoa chỉ như mò trăng đáy nước, lấy đâu ra người để xây dựng Nhà nước kiến tạo.
Hỏi thêm và trao đổi với TS Nguyễn Sĩ Dũng tạm như vậy. Cũng còn vài điều nữa nhưng bài đã hơi dài. Tôi không tìm thấy địa chỉ để gửi riêng cho ông. Nếu ông đọc được bài này mà muốn trao đổi thì xin gọi điện thoại số 0389 578 620 hoặc gửi email : ndcong37@gmail.com
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN


VENEZUELA: NHỮNG GÌ CẦN BIẾT VÀ HIỂU ?

NGUYỄN GIA KIỂNG/ THÔNG LUẬN/ BVN 1-3-2018


Từ mấy năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ. Nhưng rồi sự sụp đổ của chế độ Maduro đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung Quốc và chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân chủ thứ tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh lên và đạt tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan trọng mà vì một lý do nền tảng hơn nhiều. Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ nguyên mới trong cuộc hành trình về tự do. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới trong lịch sử thế giới là từ nay xã hội mạnh hơn.

Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội.
Điều đáng ngạc nhiên nhất tại Venezuela là Nicolas Maduro đã không đàn áp như thường lệ mỗi khi bị chống đối, dù ông ta không thiếu thủ hạ, vũ khí và sự hung bạo. Trái lại ông ta đề nghị đối thoại và thỏa hiệp trong khi đối thủ của ông ta, một thanh niên 35 tuổi không có lực lượng vũ trang nào và mới cách đây hơn một tháng không ai biết tới, từ chối và đòi ông ta đầu hàng. Kết quả là vào lúc này Venezuela đang có hai Tổng thống kình địch nhau. Phải hiểu rằng có một cái gì đó đã thay đổi. Venezuela vừa quá xa vừa quá lạ đối với Việt Nam nhưng chúng ta sẽ sai lầm lớn nếu không dành cho nó một quan tâm đặc biệt.
Một lịch sử ngắn và điên loạn
Venezuela mới trước đây không lâu còn là một đất nước đầy hứa hẹn với một lãnh thổ rộng gần một triệu cây số vuông cho 34 triệu dân, một khí hậu tốt, một bờ biển dài và đẹp và một trữ lượng dầu lửa lớn nhất thế giới được ước lượng vào khoảng 300 tỷ thùng (ba-rin). Ngoài ra còn khí đốt và nhiều mỏ khác, nhất là vàng. Đó đã có thể là một đất nước rất đáng mơ ước. Nhưng trường hợp Venezuela, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác, một lần nữa nhắc lại một cách hùng hồn rằng, ngay cả nếu có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi, người ta không thể xây dựng được một quốc gia thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có tinh thần dân tộc, nghĩa là tình liên đới và ý muốn xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Venezuela là quốc gia đầu tiên giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha. Chính tại Angostura (hiện nay là thành phố Ciudad Bolivar) mà cách đây đúng 200 năm, vào ngày 15/02/1919, Simon Bolivar, một người Venezuela nhưng được coi là anh hùng của tất cả các nước Nam Mỹ, đã triệu tập đại hội tuyên bố độc lập cho Châu Mỹ La-tinh, để rồi nhờ tình trạng suy sụp của Tây Ban Nha sau cuộc chiến của Napoleon I, giành được độc lập cho Venezuela một năm sau đó.
Dầu vậy, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác, Venezuela không phải là một dân tộc đúng nghĩa. Nói chung đã chỉ có những người thống trị thẳng tay bóc lột và người bị trị hừng hực căm thù sẵn sàng nổi loạn. Đất nước Venezuela vì vậy liên tục quằn quại trong nghèo khổ, bạo lực và tội phạm. Độc lập chỉ có nghĩa là những kẻ bóc lột Tây Ban Nha được thay thế bằng những kẻ bóc lột bản xứ toa rập với các thế lực tài phiệt nước ngoài, chủ yếu là Mỹ. Nền dân chủ hình thức chỉ bắt đầu từ 1958 để ngay sau đó trên thực tế nhường chỗ cho một chế độ độc tài quân phiệt đương đầu với các lực lượng cộng sản võ trang trong một cuộc nội chiến kéo dài gần hai mươi năm. Nội chiến chỉ chấm dứt khi quân cộng sản kiệt quệ và chấp nhận hạ vũ khí để tranh đấu bất bạo động chứ không hề có hòa giải dân tộc.
Venezuela được hưởng mười năm tương đối yên bình cho đến năm 1989, khi chính quyền Carlos Perez thực hiện cuộc cải tổ kinh tế hữu khuynh do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) khuyến cáo. Cuộc cải tổ này về nguyên tắc là đúng. Nó nhắm chấm dứt tình trạng cả nước chỉ sống nhờ xuất khẩu dầu lửa, các cơ quan và công ty nhà nước đầy những công chức và công nhân chỉ lãnh lương chứ không có việc làm, với hậu quả là khối nợ ngày càng phình ra. Tuy vậy ngay cả một cải tổ đúng cũng cần được thực hiện một cách có bài bản và phù hợp với hiện trạng xã hội. Chính quyền Perez đã không hiểu như vậy, họ áp đặt một cách thô bạo và đàn áp thẳng tay khi bị chống đối. Hàng ngàn người đã bị giết trong những cuộc biểu tình, hơn 3000 người riêng trong ba ngày đầu tháng 3-1989. Sự thô bạo này càng khó hiểu vì đảng Hành động Dân chủ của Perez tự xưng là thuộc cánh tả và chính Tổng thống Carlos Perez lúc đó đang là Phó chủ tịch của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa.
Không có gì hợp lý tại Châu Mỹ La-tinh, nhất là tại Venezuela, các từ ngữ chẳng có nội dung chính xác nào. Tình hình kinh tế sau đó có phần cải tiến, lôi kéo hàng trăm ngàn di dân từ các nước chung quanh, nhưng tác dụng của cuộc cải tổ kinh tế này và các biện pháp đàn áp đẫm máu đi kèm đã là đã đẩy một phần lớn quần chúng về phía liên minh dân túy cực tả dưới danh xưng Cộng hòa thứ Năm bao gồm Đảng Cộng sản và các đảng cùng ý thức hệ Mác-Lênin. Cuối cùng, năm 1999, lãnh tụ Hugo Chavez của liên minh này lên cầm quyền sau khi đắc cử Tổng thống trong một cuộc bầu cử dân chủ và lương thiện. Từ năm 2007 liên minh này đổi tên thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất.
Hugo Chavez có thể được nhìn như một sản phẩm trung thực của lịch sử hai thế kỷ lập quốc của Venezuela trong đó nét đậm rõ nhất là sự thiếu vắng toàn diện của tư tưởng chính trị và tinh thần dân tộc. Xã hội gần như chia làm hai thành phần, một giai cấp tư bản trục lợi gồm những người có tài sản và bằng cấp từ các trường đại học Mỹ hoặc Tây Ban Nha nhưng thiếu cả tư duy lẫn tâm hồn và chỉ có một mục đích là làm giầu tối đa và một quần chúng nghèo khổ uất ức. Hugo Chavez đã thực sự muốn phục vụ quần chúng, chính vì thế mà ông đã được ái mộ trong suốt thời gian cầm quyền (1999 – 2013) và ngay cả sau khi đã chết.
Chavez là một bằng chứng rằng một người cầm quyền ngu dốt càng có ý chí và dũng cảm bao nhiêu càng tác hại bấy nhiêu. Lên cầm quyền trong một thời cơ thuận lợi – dầu lửa, tài nguyên chính của Venezuela, tăng giá từ 20 USD lên 140 USD một ba-rin- Chavez phung phí đến nỗi khiến Venezuela không giàu lên mà còn lụn bại và mắc nợ thêm. Chavez đã trợ giúp người nghèo và giảm bất công xã hội một cách đáng kể, ông cũng đã nâng cao chi phí về giáo dục, y tế, gia cư và hạ tầng cơ sở. Các biện pháp xã hội này đã nâng cao mức sống lôi kéo thêm hàng trăm nghìn người khác đến Venezuela từ các nước lân cận. Vấn đề là ông ta chỉ biết chi tiêu chứ không biết đầu tư và hoàn toàn không có một kiến thức nào về quản trị quốc gia.
Chavez tăm tối đến mức coi chủ nghĩa Mac-Lênin như một chân lý tuyệt đối dù bức tường Berlin đã sụp đổ từ hơn mười năm trước. Ngay khi lên cầm quyền ông đã quốc hữu hóa tất cả các công ty có tầm vóc, bổ nhiệm vô số tay chân và đồng đảng vào các chức vụ lãnh đạo dù họ không có khả năng và kinh nghiệm chuyên môn nào. Quyền lực đã chỉ làm cho ông ta mê man mất trí và làm những việc điên cuồng, như ra mặt tuyên chiến với Mỹ, dù chỉ bằng lời, coi Cuba, Nga và Trung Quốc như những nước anh em. Không thể phủ nhận sự câu kết giữa các công ty Mỹ và các chính quyền tham nhũng Venezuela trước đó nhưng cũng không thể đồng hóa nước Mỹ với các công ty này và càng không thể vì thế mà chống Mỹ. Venezuela vừa quá yếu vừa quá tùy thuộc vào Mỹ, chống Mỹ chẳng khác gì đập đầu vào vách đá.
Một hành động điên rồ vào năm 2003 của Chavez đã làm kinh tế Venezuela sụp đổ là quyết định sa thải tức khắc 30.000 (ba chục ngàn !) kỹ sư và kỹ thuật viên của Công ty Dầu khí PDVSA khi họ biểu tình phản đối việc bổ nhiệm các cấp lãnh đạo theo tiêu chuẩn chính trị. Kết quả là công ty PDVSA suy sụp, sản xuất giảm từ 3,5 triệu ba-rin xuống còn không đầy một triệu ba-rin mỗi ngày trong khi PDVSA là 96% xuất khẩu của Venezuela. Kết quả của 13 năm cầm quyền của Hugo Chavez là, dù gặp thời cơ rất thuận lợi nhờ giá dầu tăng vọt, nền kinh tế Venezuela đã gần như phá sản, nợ nước ngoài tăng từ 28 tỷ USD lên 130 tỷ USD.
Venezuela phá sản thực sự ít lâu sau khi Hugo Chavez chết và Nicolas Maduro lên thay năm 2013. Xuất thân là một vệ sĩ chuyên nghiệp rồi tài xế xe buýt, Maduro là một tay anh chị chỉ được huấn luyện chính trị sơ sài trong Đảng Cộng sản Venezuela trước khi trở thành cộng sự viên thân tín của Chavez. Maduro còn thiếu kiến thức hơn nhiều so với Chavez, lại không có tài hùng biện và sức thu hút của Chavez, nhưng thô bạo hơn hẳn. Việc ông ta đắc cử Tổng thống năm 2013, với 50,6%, bị tố giác là gian lận.
Sau đó Maduro nhanh chóng kéo Venezuela xuống địa ngục. Trước sự phẫn nộ ngày càng lên cao Maduro đã chỉ biết phản ứng như một tay côn đồ vô học, bất chấp cả sinh mạng người dân lẫn Hiến pháp và luật pháp. Cuối năm 2015, sau khi đối lập dân chủ giành được đa số quá 2/3 trong Quốc hội, Maduro ngang ngược cho Tòa án Tối cao mà ông ta mua chuộc được tuyên bố tước quyền của Quốc hội. Hành động này làm cả nhân dân Venezuela lẫn thế giới phải kinh ngạc vì sự vô lý của nó khiến sau cùng Maduro phải rút lại. Tuy vậy Maduro cũng vẫn ngang ngược cho bầu ra một "Quốc hội lập hiến" khác sau một cuộc bầu cử gian trá một cách lố lăng. Hiện nay không còn ai nói đến cái Quốc hội lập hiến này nữa. Tháng 5/2018 Maduro bất chấp luật pháp đột ngột tổ chức bầu cử Tổng thống bảy tháng trước hạn kỳ chính thức, liên minh đối lập không kịp trở tay đã kêu gọi tẩy chay. Đã chỉ có không tới 33% cử tri tham gia cuộc bầu cử Tổng thống này, một số đông vì sợ bị sách nhiễu, nhưng Maduro cũng chỉ được 67,6%. Cuộc bầu cử này bị Quốc hội Venezuela và đa số các nước trên thế giới phủ nhận. Maduro không còn chính danh nữa.
Những số liệu kinh tế và xã hội thật kinh khủng: lạm phát năm 2018 được ước lượng là 10.000.000%, nghĩa là đồng Bolivar mất hết giá trị; 90% người Venezuela sống dưới mức nghèo, 50% dưới mức nghèo khổ cùng cực; tiền lương tháng của công nhân chỉ còn tương đương với 6 USD và chưa đủ để sống một ngày; trọng lượng trung bình của một người Venezuela giảm 7 kg so với hai năm trước vì thiếu ăn; 5% dân chúng chết vì cướp bóc, đói và thiếu thuốc; hàng ngàn người bị giết trong những cuộc biểu tình phản đối chính quyền; khoảng ba triệu người Venezuela phải tỵ nạn sang các nước bên cạnh vì lý do thực phẩm.
Maduro cáo buộc Mỹ và các đồng minh đã gây ra thảm trạng này bằng những biện pháp trừng phạt và cô lập. Điều này có phần đúng nhưng làm sao có thể trách Mỹ khi đã coi Mỹ là kẻ thù? Vả lại, lý do chính của thảm trạng này là do sự sụp đổ của các công ty, kể cả công ty dầu lửa PDVSA, do Chavez và Maduro gây ra, khi họ bổ nhiệm vào vai trò lãnh đạo những đồng chí không biết gì về quản trị xí nghiệp. Sự sụp đổ kinh tế của Venezuela cũng khá giống như sự sụp đổ của kinh tế miền Nam Việt Nam say ngày 30/04/1975.
Năm 2019 đã bắt đầu với những cuộc biểu tình lớn của một quần chúng không còn gì để mất, hưởng ứng lời kêu gọi của một đối lập dân chủ mà trước đây đa số đã bất tín nhiệm. Dĩ nhiên Maduro đã ra lệnh cho quân đội và cảnh sát đàn áp thẳng tay. Hơn ba mươi người đã bị giết. Chính trong thảm kịch quốc gia này mà Chủ tịch Quốc hội Juan Guaido đã tự xưng làm Tổng thống lâm thời đồng thời tuyên bố Nicolas Maduro bất hợp pháp. Phản ứng của Maduro là cho quân đội bắt Guaido và chuẩn bị đàn áp tiếp.
Tuy nhiên một điều rất không bình thường đã xẩy ra. Vài giờ sau Guaido được thả ra và từ đó các cuộc biểu tình không bị đàn áp nữa. Chắc chắn không phải vì Maduro bỗng nhiên hiền lành. Ngay chính các đồng minh Nga và Trung Quốc cũng đã khuyến cáo ông ta thỏa hiệp thay vì đàn áp. Ông ta đã hiểu là chính mình đang lâm nguy.
Một kế hoạch lật đổ có chuẩn bị
Cho tới ngày 05/01/2019 trừ một số người Venezuela không ai biết đến Juan Guaido, một dân biểu 35 tuổi mà thành tích duy nhất là đã tham gia các cuộc biểu tình chống Chavez rồi Maduro. Hôm đó ông ta thình lình được bầu làm Chủ tịch Quốc hội.
Khi nhìn lại các diễn biến người ta nhận ra là tất cả đã được chuẩn bị. Ngày 10/01/2019, theo dự trù Maduro sẽ chấm dứt nhiệm kỳ Tổng thống thứ nhất và sẽ tuyên thệ nhận chức Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Ông ta không thể tuyên thệ trước Quốc hội như Hiến pháp Venezuela quy định bởi vì cuộc bầu cử Tổng thống tháng 5/2018 đã bị Quốc hội tuyên bố là vô giá trị và cũng bị đa số các nước dân chủ đánh giá là gian lận. Ngay cả các đồng minh của Maduro như Nga, Trung Quốc và Cuba cũng chỉ im lặng chứ không thể nói Maduro đã được bầu một cách lương thiện. Maduro đã tuyên thệ nhận chức một cách dấm dúi trước tòa án tối cao gồn toàn những thẩm phán chân tay của ông ta. Điều này có nghĩa là từ ngày 10/01 Maduro không còn là Tổng thống chính đáng và hợp pháp nữa.
Theo Hiến pháp Venezuela thì khi không còn Tổng thống, Chủ tịch Quốc hội sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ Tổng thống với trách nhiệm tổ chức cuộc bầu cử một Tổng thống mới. Như thế chắc chắn sẽ có một cuộc đụng độ sống còn giữa Quốc hội và Maduro, trong đó phương tiện duy nhất của Quốc hội là kêu gọi dân chúng xuống đường vì quân đội và cảnh sát đang ở trong tay Maduro. Juan Guaido được bầu làm Chủ tịch năm ngày trước là để chuẩn bị cho cuộc đụng độ này vì là một thanh niên dám và biết tổ chức biểu tình. Một lý do khác là đối lập dân chủ Venezuela cũng cần một khuôn mặt mới bởi vì nhân sự chính trị cũ đã bị gắn liền với bất tài và tham nhũng.
Những gì xẩy ra sau đó đã xác nhận kịch bản đối đầu này và còn cho thấy là nó đã được chuẩn bị từ lâu một cách khá chu đáo. Juan Guaido đã lập tức tổ chức các cuộc xuống đường sau ngày 10/01, Maduro đã phản ứng dã man như thường lệ làm hơn ba mươi người chết. Ngày 20/01 một đơn vị quân đội nổi dậy chống Maduro ngay tại thủ đô Caracas. Dù bị dẹp ngay sau đó, cuộc nổi loạn này cũng chứng tỏ rằng đã có cố gắng lôi kéo quân đội bỏ Maduro. Rồi ngày 23/01 Juan Guaido tuyên bố đảm nhận chúc vụ Tổng thống lâm thời, đương nhiên đặt Maduro ra ngoài pháp luật. Ngay lập tức Mỹ tuyên bố nhìn nhận chính quyền lâm thời của Juan Guaido và sẵn sàng ủng hộ bằng tất cả mọi phương tiện, không loại trừ can thiệp bằng quân sự. Tiếp theo là Canada và hầu hết các nước Châu Mỹ La-tinh. Rồi đến hầu hết các nước Châu Âu. Tất cả như diễn ra theo một kịch bản đã sắp đặt trước.
Kết quả và hậu quả
Sự đào thải của chính quyền Maduro là điều chắc chắn.
Trước hết là vì chế độ Maduro phải cáo chung để đất nước Venezuela có thể sống. Nó đã thất bại ngoài tất cả mọi tưởng tượng trên mọi mặt và kéo nước Venezuela xuống địa ngục.
Sau đó là vì tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Phe Maduro có quân đội và công an với đầy đủ vũ khí chống biểu tình tối tân mua của Nga và Trung Quốc. Vấn đề là họ khó có thể đàn áp mà không gặp những phản ứng dữ dội của Mỹ và các nước láng giềng với hậu quả là thảm bại nhanh chóng và ngay cả tính mạng của những người cầm đầu, kể cả Maduro, sẽ rất mong manh. Các đồng minh của Maduro đều ở quá xa và không có cả khả năng lẫn quyết tâm để bảo vệ Maduro. Nga là đồng minh tích cực nhất nhưng ngay từ ngày 05/12/2018, gần hai tháng trước khi Juan Guaido tự phong Tổng thống, khi tiếp Maduro tại Moscow, tổng thống Nga Vladimir Putin đã công khai yêu cầu Maduro tìm cách thỏa hiệp với đối lập. Nga đã quá kiệt quệ để có thể giúp Maduro trong một cuộc đối đầu quân sự với Mỹ. Trung Quốc mạnh hơn Nga nhưng cũng đang gặp khó khăn kinh tế nghiêm trọng và quá lệ thuộc vào thương mại với Mỹ và Châu Âu để dám thách thức. Hơn nữa, từ ít nhất 5 năm nay, Venezuela đã trở thành một gánh nặng cho cả Nga lẫn Trung Quốc. Lý do khiến Maduro đã không ra tay đàn áp là vì ông ta không được Nga và Trung Quốc bật đèn xanh.
Theo các thăm dò dư luận, Maduro cũng vẫn còn được khoảng 18% dân chúng ủng hộ, nhưng chính những người này cũng hiểu là không còn hy vọng gì ở ông. Họ thù ghét cánh hữu hơn là gắn bó với Maduro. Còn quân đội và công an? Sự thật giản dị là khi một lực lượng phải đàn áp mà không thể đàn áp nó sẽ không sớm thì muộn tự tan rã. Hơn nữa, trừ một số sĩ quan cao cấp, đa số gia đình họ cũng lâm vào cảnh nghèo khổ, cũng là nạn nhân của chính quyền Maduro.
Phe Guaido trái lại có ưu thế hơn hẳn. Hơn 80% người Venezuela mong muốn một thay đổi chế độ và ủng hộ Guaido dù trong lòng không ưa các chính quyền cánh hữu trong quá khứ. Có lẽ tranh thủ nhân tâm đã là một lý do khiến liên minh cánh hữu chọn Guaido làm biểu tượng vì ông là một thanh niên 35 tuổi không dính líu với các chính quyền trong quá khứ.
Guaido thuộc đảng Ý chí Nhân dân (Voluntad Popular), một đảng nhỏ thuộc khuynh hướng xã hội chỉ có 14/167 ghế trong Quốc hội. Quốc hội Venezuela là định chế duy nhất được bầu ra một cách lương thiện, Guaido thực ra là một Tổng thống lâm thời hợp pháp, được hơn 50 quốc gia nhìn nhận. Yếu tố quyết định là sự hỗ trợ và bảo vệ tận tình của Mỹ và các nước láng giềng. Chiến lược của các nước này là giúp Guaido mọi phương tiện để tranh thủ quần chúng và tổ chức đội ngũ đồng thời phong tỏa Venezuela cho đến khi chính quân đội và công an cảm thấy không còn lối thoát và quay lưng lại với Maduro. Trong khi chờ đợi dùng viện trợ nhân đạo để lố bịch hóa và vô hiệu hóa Maduro.
Hai bên đã có cuộc thử sức đầu tiên ngày 12/02 vừa qua. Cả hai bên đều biểu tình. Theo báo chí, phe Maduro tập trung được khoảng mười ngàn người ở trung tâm thủ đô Caracas trong khi phe Guaido động viên được cả trăm ngàn người tại nhiều thành phố lớn. Hậu thuẫn quần chúng của Guaido hơn hẳn Maduro nhưng chưa đủ. Đáng lẽ trong một tình trạng bi đát như thế phải có vài triệu người xuống đường. Guaido đã không động viên được quần chúng như ông và dư luận thế giới chờ đợi. Ông tuyên bố ngày ngày 23/02 sẽ giải tỏa biên giới để các đoàn xe cứu trợ nhân đạo vào được Venezuela nhưng rồi quân đội vẫn theo lệnh Maduro ngăn chặn được mà không gặp khó khăn nào đáng kể. Cũng như ngày 12/02, Guaido đã không động viên được quần chúng ở mức độ cần thiết để giải tỏa tình thế.
Tại sao ? Lý do có một tên gọi: Donald Trump.
Quần chúng Venezuela vốn đã không mặn mà gì với các chính quyền cánh hữu trong quá khứ và họ đã ít nhiều đánh đồng Juan Guaido với phe này. Tuy vậy họ cũng sẽ hưởng ứng lời kêu gọi xuống đường chống Maduro một cách mạnh mẽ hơn hẳn nếu thấy thế giới ủng hộ một cách nồng nhiệt hơn. Quân đội Venezuela cũng sẽ bỏ Maduro nếu thấy ông ta bị cả thế giới lên án. Nhưng thực tế đã không như vậy.
Juan Guaido được hơn 50 nước thừa nhận nhưng không một nước nào ủng hộ nhiệt tình. Lý do là vì kế hoạch lật đổ Maduro đã do Mỹ cùng chủ động và Donald Trump đã thành công trong việc làm tê liệt liên minh giữa các nước dân chủ và khiến cả thế giới dị ứng với Mỹ. Những gì Mỹ làm, ngay cả đúng như trong trường hợp này, cũng không được hưởng ứng.
Nước Mỹ cô lập như chưa bao giờ thấy. Không chỉ cô lập mà còn tê liệt vì chia rẽ nghiêm trọng giữa những người ủng hộ và những người chống Trump. Vả lại chính quyền Trump đã ứng xử một cách quá thô vụng trong vụ này. Tổng thống Trump, Phó tổng thống Pence, Ngoại trưởng Pompeo và Cố vấn an ninh Bolton đã chỉ biết đe dọa Maduro và giải thích lý do can thiệp là vì Châu Mỹ La-tinh thuộc vùng ảnh hưởng của Mỹ. Không một lời cho nhân dân và đất nước Venezuela. Thế giới và người Venezuela dù muốn cũng không có lý do để phấn khởi. Kết quả là cuộc khủng hoảng Venezuela đã không kết thúc nhanh chóng như đáng lẽ nó phải kết thúc. Nước Mỹ sẽ không bao giờ nhìn thấy hết những tác hại của Donald Trump.
Dầu vậy tình trạng bế tắc dai dẳng này chỉ kéo dài sự đau khổ của nhân dân Venezuela chứ không thay đổi được tình thế, kết cục vẫn là sự đào thải của chế độ Maduro. Sau đó có thể dự đoán là Venezuela sẽ nhanh chóng trở lại tình trạng bình thường, nghĩa là đạt tới một sinh hoạt tương tự như các nước Nam Mỹ khác, trước khi bắt đầu hàn gắn những vết thương trầm trọng mà hai mươi năm cầm quyền của Chavez và Maduro để lại. Tương lai của Venezuela chắc chắn sẽ không đen tối vì những người sắp cầm quyền không thể nào không rút ra những bài học đau đớn của giai đoạn vừa qua. Tuy vậy Venezuela sẽ chỉ thực sự phục hồi để tận dụng được tài nguyên thiên nhiên của mình nếu những người lãnh đạo mới biết thực hiện một chính sách hòa giải dân tộc thành thực và quả quyết.
Hậu quả đối với thế giới sẽ quan trọng hơn nhiều, rất nhiều
Cả Nga và Trung Quốc, hai cột trụ của một "liên minh quốc tế chống dân chủ" đều sẽ rất điêu đứng. Cả hai nước đều đã dồn rất nhiều của cải vào Venezuela trong tham vọng thiết lập một đầu cầu tại Nam Mỹ.
Không ai biết chính xác Venezuela nợ hai nước này bao nhiêu nhưng vào tháng 11/2017, vào lúc tình hình kinh tế Venezuela chưa đến nỗi quá bi đát, công ty thẩm định tài chính Standard and Poor's, ước lượng số tiền mà Trung Quốc đã cho vay là 56 tỷ USD. Nga theo con số chính thức đã cho vay 8 tỷ USD nhưng con số thực sự chắc chắn phải cao hơn nhiều. Từ đó, trong năm 2018, Nga và Trung Quốc đã cho Venezuela vay thêm ít nhất 7 tỷ USD.
Nhưng khoản cho vay không quan trọng bằng khoản đầu tư của hai nước này, nhất là Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư vào tất cả các tài nguyên thiên nhiên của Venezuela, nhất là dầu và khí, và cũng rất tích cực trong việc xây dựng các kết cấu hạ tầng. Đầu tư vào dầu lửa của Venezuela là một cám dỗ lớn. Việt Nam cũng đã tốn 8 tỷ USD trước khi bỏ cuộc. Trung Quốc chắc chắn phải đổ của vào gấp vài chục lần, có khi cả trăm lần Việt Nam.
Sự sụp đổ của chế độ Maduro sẽ là bi kịch cho Nga và Trung Quốc, bởi vì cả hai nước đã ủng hộ tận tình Chavez và Maduro và sẽ bị chính quyền mới nhìn như đồng phạm của thảm kịch Venezuela. Chính quyền mới sẽ không cần phủ nhận những cam kết của Chavez và Maduro, nhưng họ sẽ không dành cho chúng một ưu tiên nào, và như thế là đủ vì thời gian là tất cả đối với hai chính quyền tại Nga và Trung Quốc, cả hai đều đang sống những năm cuối cùng.
Thiệt hại tài chính của Nga, trên dưới 20 tỷ USD, tuy tự nó không lớn nhưng quan trọng đối với một nền kinh tế mà GDP chỉ là 1.400 tỷ USD lại đang ôm một khối nợ công tương đương và hơn nữa còn đang bị phong tỏa vì vi phạm công pháp quốc tế. Vấn đề của Nga không phải là thể chế vì Nga có một hiến pháp dân chủ mà là Putin. Putin dựa vào những thành tích chinh phục bên ngoài như sáp nhập bán đảo Crimea, chiếm một phần lãnh thổ của Ukraine, chiến thắng Syria v.v. để vi phạm Hiến pháp và áp đặt một chế độ độc tài cá nhân. Putin đã đầu tư vào Venezuela trong một cố gắng mở rộng ảnh hưởng của Nga. Sự sụp đổ của chế độ Venezuela sẽ chấm dứt mọi ảnh hưởng Nga tại Châu Mỹ và sẽ là một thất bại chiến lược lớn làm sụp đổ thần tượng Putin, nền tảng của chế độ.
Hậu quả đối với Trung Quốc còn bi thảm hơn. Thiệt hại tài chính rất nặng vào giữa lúc những khó khăn kinh tế đang dồn dập xuất hiện, lố bịch hóa những con số tăng trưởng giả tạo của chính quyền Tập Cận Bình. Khủng hoảng kinh tế đã rất gần và Venezuela sẽ là một thảm bại khiến nó càng gần hơn, thậm chí khởi động sự sụp đổ kinh tế. Nhưng không phải chỉ có thế. Các lãnh tụ Trung Quốc đều đồng ý rằng từ khi Đặng Tiểu Bình thi hành chủ trương "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" sự sống còn của chế độ cộng sản dựa trên một tăng trưởng kinh tế mạnh. Khủng hoảng kinh tế đồng nghĩa với sự sụp đổ của chế độ và sau đó sự tan vỡ của chính Trung Quốc vì chủ nghĩa cộng sản đang là xi măng thay thế Khổng Giáo gắn liền các vùng của Trung Quốc.
Venezuela cũng sẽ không giúp gì được cho Donald Trump. Ngược lại nó còn phơi bày sự thực là ông đã làm nước Mỹ cô lập và yếu đi đến nỗi không giải quyết gọn nhẹ được một vấn đề đáng lẽ đã có thể giải quyết dễ dàng và nhanh chóng. Việc Donald Trump tái cử nhiệm kỳ hai không còn đặt ra nữa. Ông sẽ thảm bại, trừ khi bị truy tố và bãi chức trước.
Hai nhận định nền tảng
Hai nhận định lớn có thể, nên và cần được nắm chắc từ những gì đã, đang và sẽ xẩy ra tại Venezuela.
Một là, làn sóng dân chủ vẫn tiếp tục tràn tới. Từ mấy năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ, Trung Quốc bành trướng ra khắp thế giới, Putin sáp nhập Crimea và chiến thắng tại Syria v.v. Nhưng rồi sự sụp đổ của một chế độ nhỏ, chế độ Maduro, đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung Quốc và chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân chủ thứ tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh lên và đạt tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan trọng mà vì một lý do nền tảng hơn nhiều.
Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ nguyên mới trong cuộc hành trình về tự do. Các xã hội đã trở thành mạnh hơn các chính quyền. Không còn một chế độ độc tài nào, dù chủ trương toàn trị hung hăng tới đâu, có thể kiểm soát được toàn bộ và áp đặt được hướng đi của một xã hội và một dân tộc nữa. Dù có thể bị cản trở, các xã hội sau cùng vẫn tiến tới theo hướng khiến con người ngày càng tự do hơn và được kính trọng hơn, nghĩa là các quốc gia ngày càng dân chủ hơn. Chống lại dân chủ chỉ có nghĩa là mù quáng chọn sự đào thải chắc chắn. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới trong lịch sử thế giới là từ nay xã hội mạnh hơn.
Hai là, Venezuela là một nước rất được thiên nhiên ưu đãi, có khả năng khiến mọi người đều giàu có nhưng đã chỉ quằn quại trong độc tài, áp bức, bạo loạn, nội chiến và nghèo khổ vì thiếu tinh thần dân tộc và đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, điều mà chỉ có một tư tưởng chính trị lành mạnh mới có thể đem đến. Tư tưởng chính trị là thuốc phòng chống và chữa bệnh điên của xã hội. Một dân tộc không có tư tưởng chính trị chắc chắn sẽ điên, sẽ chia rẽ và xung đột để đi từ tai họa này đến thảm kịch khác, như một con tàu không la bàn, không đụng vào đá ngầm thì cũng đâm vào băng đảo. Mỹ đã hơn hẳn các nước Châu Mỹ La-tinh - dù được thành lập cùng một lúc ở cùng một trình độ - nhờ đã có hoặc đã biết thu nhận tư tưởng dân chủ của những Locke, Jefferson, Stuart Mills, De Tocqueville, James v.v.
Từ hai nhận định rất quan trọng đó người Việt Nam chúng ta có thể rút ra kết luận nào cho đất nước mình ?
Trước hết là niềm tin sắt đá rằng chúng ta nhất định sẽ có dân chủ trong một tương lai gần. Đảng Cộng sản sẽ chỉ có một chọn lựa là tích cực tham gia vào tiến trình dân chủ hóa để làm tác nhân thay vì nạn nhân của lịch sử. Sau đó là cần chuẩn bị cho hạn kỳ đó vì dân chủ chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để xây dựng một đất nước Việt Nam mà mọi người Việt Nam có thể yêu và tự hào. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và những con người mà chúng ta cần có.
Chuẩn bị nền tảng nhất là một tư tưởng chính trị mà trí thức Việt Nam cần có, nhưng rất đáng tiếc là vẫn chưa có, để đảm nhiệm vai trò hướng dẫn dân tộc trong cuộc hành trình về tương lai.
N.G.K.
Nguồn: https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/11565-venezuela-nh-ng-gi-c-n-bi-t-va-hi-u

ÔNG LÊ DUẨN ĐÃ ĐỊNH LÀM BOM NGUYÊN TỬ NHƯ THẾ NÀO ?

LÊ PHÚ KHẢI/ BVN 5-3-2018

Cũng may cho nhân dân ta có những bậc trí thức lớn, đủ trí, đủ dũng như Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện, Tạ Quang Bửu... đã can ngăn các lãnh tụ sau cơn say chiến thắng... không bán cả nước đi để trở thành một siêu cường hạt nhân! Chúng ta hãy tưởng nhớ các vị đó.

https://4.bp.blogspot.com/-k4qb2ZS4kEg/XHqoaGgoOFI/AAAAAAAAA8w/a8DrXjbPhIswSpw86j3aWpascpaUEdwbACLcBGAs/s640/IMG_0223.jpg
Bút tích của bác sỹ Nguyễn Khắc Viện
Một buổi chiều vào cuối năm 1988, tôi đang ngồi làm việc tại nhà riêng ở thành phố Mỹ Tho êm ả bên bờ sông Tiền, lúc ngửng lên, bỗng thấy một ông già đội nón lá, tay xách cái bị đứng trước cửa! Nhìn kỹ hóa ra Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện (!). Bác Viện nói: Tôi xuống xe đò, quên mất đường đến nhà cậu, một bà lão hỏi: Có phải bác là sỹ quan mới cải tạo không? Tôi nói phải, thế là bà ấy chỉ đường cho tôi đến đây.
Từ sau ngày đất nước đổi mới (1986), bác Viện hễ vào Sài Gòn là hay xuống Mỹ Tho chơi với tôi. Bác muốn qua tôi để tìm hiểu về công việc làm ăn của nông dân đồng bằng sông Cửu Long mà tôi là nhà báo của trung ương duy nhất đang thường trú tại đó. Ở chơi nhà tôi, đôi lúc bác kể những chuyện “thâm cung bí sử” của triều đình cộng sản mà một trí thức như bác, thường được can dự hoặc chứng kiến...
Một trong những câu chuyện ít ai biết đó mà bác Viện kể cho tôi nghe là, chuyện Tổng bí thư Lê Duẩn mời các trí thức đầu đàn lên bàn chuyện làm bom nguyên tử! Bác Viện kể (đại ý).
Người thứ nhất là Kỹ sư Trần Đại Nghĩa. Tổng bí thư hỏi: Có làm được bom nguyên tử không? Ông Nghĩa trả lời, không làm được! Thế là Tổng bí thư nổi giận, mắng: Trí thức mà ngu thế à!
Người thứ hai chính là Nguyễn Khắc Viện. Hỏi: Có làm được bom nguyên tử không? Trả lời: Làm được. Tổng bí thư mừng lắm, nói: Tiếp tục đi! Tiếp tục: Chỉ làm được một quả thôi! Hỏi: Tại sao? Trả lời: Làm xong một quả phải thử và sau đó thì hết vốn! Bán cả nước cũng không thể làm được quả thứ hai (!).
Người thứ ba được gọi lên là Phó tiến sỹ Nguyễn Đình Tứ, học ở Đúp-na về, đứng đầu Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia (trong đó có Viện hạt nhân Đà Lạt). Tổng bí thư hỏi, nhưng Nguyễn Đình Tứ cứ ngồi yên, không nói gì cả... Cứ như thế cho đến lúc... được ra về!
Trong cơn say chiến thắng sau 1975, các lãnh tụ cộng sản mắc bệnh vĩ cuồng. Chính tai tôi, tác giả bài viết này, đã được nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo trong một hội nghị khoa học toàn quốc vào cuối năm 1978 rằng, Việt Nam phải đi tắt đón đầu, đuổi kịp và vượt phương Tây trong vòng mươi mười lăm, hai mươi năm! Ông còn dặn các nhà khoa học cả hai miền Nam Bắc rằng, làm khoa học ở Việt Nam phải như Cù Chính Lan, chạy tắt rừng, đón đầu xe tăng địch mà đánh!!!
Lũ trí thức hoạn quan có mặt trong Nhà hát lớn Hà Nội lúc đó đã vỗ tay rào rào!
Cũng may cho nhân dân ta có những bậc trí thức lớn, đủ trí, đủ dũng như Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện, Tạ Quang Bửu... đã can ngăn các lãnh tụ sau cơn say chiến thắng... không bán cả nước đi để trở thành một siêu cường hạt nhân! Chúng ta hãy tưởng nhớ các vị đó.
https://3.bp.blogspot.com/-c532HL2SfVc/XHqon7uAcOI/AAAAAAAAA80/VS2DLnXFFF4hD6QTAwQzLaoKa8cBnonAACLcBGAs/s400/IMG_0224.jpg
Luận chứng của Trần Tích Cảnh
Với nước ta, năng lượng hạt nhân được nghiên cứu để ứng dụng trong nông nghiệp kỹ thuật cao và y tế là đúng đắn nhất. Và, chúng ta đã làm tốt điều này. Năm 1985, “Luận chứng kinh tế- kỹ thuật trung tâm chiếu xạ TP. Hồ Chí Minh” của Phó tiến sỹ Trần Tích Cảnh đã được thực thi ở cả hai miền Bắc Nam để bảo đảm chất lượng cho các sản phẩm xuất khẩu nông-sinh-y. Tác giả Trần Tích Cảnh đã tặng người viết bài này một văn bản của luận chứng đó làm kỉ niệm mà tôi còn giữ!
L.P.K. Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét