Thứ Năm, 21 tháng 1, 2016

20160121. BÀN VỀ LỐI MÒN TƯ DUY

ĐIỂM BÁO MẠNG
LỐI MÒN TƯ DUY
NGÔ THẾ BÍNH
 
“Lối mòn” được hiểu là con đường do vết chân nhiều người đi qua tạo nên, thường thấy trong rừng, trên đồi núi. Có thể hiểu đó là con đường mới khai phá, sử dụng tạm thời vì chưa đủ điều kiện xây dựng thành con đường thênh thang, được sử dụng thường xuyên cho nhiều người. Đó là nghĩa đen. Trong hoạt động tư duy của con người, nhất là trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học thì “lối mòn” còn có nghĩa bóng  là “lối mòn tư duy”, như tên bài. Lối mòn tư duy là một kiểu lỗi của phương pháp tư duy, chủ yếu rập khuôn theo kết quả tư duy cũ đã được tạo ra bởi những người đi trước, chưa hẳn đã đúng đắn. Bất cứ ai (kể cả tôi) cũng có thể mắc phải “lối mòn tư duy” chừng nào còn có tư duy. Tư duy về bản chất  là quá trình nhận thức hiện tượng, sự vật từ cảm tính đến lý tinh mà cái đích là chân lý (sự thật). Lối mòn tư duy là trở ngại khiến người ta không nhận ra sự thật, mất khả năng sáng tạo, đưa ra các quyết định sai lầm trong hoạt động. Tác hại của lối mòn tư duy sẽ phụ thuộc vào vai trò của người ra quyết định trong xã hội. Đối với người bình thường thì tác hại chủ yếu ảnh hưởng đối với chính họ. Đối với người lãnh đạo thì tác hại lại ảnh hưởng đến nhiều người, thậm chí cả xã hội về niềm tin và lối sống, trì trệ mọi mặt. Đối với người nghiên cứu khoa học thì tác hại được tiềm ẩn trong các tác phẩm và sẽ ảnh hưởng đến nơi áp dụng.
  Những biểu hiện của “lối mòn tư duy” có thể nêu ra rất nhiều. Là người tham gia đào tạo các thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, tôi xin nêu 2  biểu hiện cơ bản như sau:
- Mặc nhiên coi những công trình nghiên cứu có trước là những tác phẩm hoàn hảo không có sự phân tích phê phán, chọn lọc những gì giúp ích cho nhiệm vụ nghiên cứu. Các nguồn tài liệu sử dụng thường là tài liệu thứ cấp chứ không phải tài liệu gốc.
- Mặc nhiên coi những văn bản chỉ đạo kinh tế của Đảng CSVN và Chính Phủ, ý kiến của người lãnh đạo, như là tiền đề, xuất phát điểm cho những luận cứ về tính cấp thiết nghiên cứu, hướng nghiên cứu, đề xuất giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu.
  Nguyên nhân của những biểu hiện trên là:
- Mặc dù các học viên và ngiên cứu sinh  đều đã được học môn “Phương pháp nghiên cứu khoa học” nhưng hình như họ vẫn thiếu kiến thức, kỹ năng để tránh lối mòn tư duy.
- Có xu hướng lười biếng, ngại khó, “an toàn”  trong suy nghĩ nên  luôn chọn cách sao chép, miễn sao đạt được mục tiêu bằng cấp, chứ không phải mục tiêu sáng tạo tìm ra chân lý, điều mới;
- Thiếu quy trình hợp lý, tự chủ bảo đảm thầy và trò cùng tạo ra những sản phẩm tư duy sáng tạo, bao gồm: chương trình học, duyệt đề tài, hướng dẫn và kiểm tra công tác nghiên cứu, bảo vệ và đánh giá kết quả nghiên cứu…
 Để khắc phục những nguyên nhân trên, thiết nghĩ chìa khóa của vấn đề  nằm ở chỗ tạo cho trường đại học một không gian tự do học thuật mà rất nhiều nhà giáo dục tâm huyết đã đề xuất. Viết đến đây tình cờ đọc đươc bài “Đại hội- Những điều trái khoáy” của GS Nguyễn Đình Cống (Trường Đại học Xây Dựng), tôi tự hỏi: phải chăng những điều mà ông nêu là biểu hiện của lối mòn tư duy trong các đại hội?

ĐẠI HỘI-NHỮNG ĐIỀU TRÁI KHOÁY
Bài NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 20/1/2016



GS Nguyến Đình Cống và phu nhân trong lễ trao giải thưởng Kova 2013
Nhân đại hội 12 ĐCSVN tôi muốn bàn đến một số điều trái khoáy thường diễn ra trong các đại hội đảng hoặc các đoàn thể theo thể chế cộng sản.
1- Chủ tịch đoàn
Theo hiểu biết thông thường thì chủ tịch đoàn là để điều khiển các hoạt động của đại hội, như vậy chỉ  từ 3 đến 7 người là đủ, cần gì đông? Không biết đại hội của các đảng lớn trên thế giới như Cộng hòa, Dân chủ của Mỹ, Bảo thủ của Anh… chủ tịch đoàn có đông không, chứ như ở VN thì phải đến vài chục người, ngồi kín cả sân khẩu. Điều trái khoáy là rất nhiều trong số họ chẳng làm gì từ đầu cho đến cuối, nếu thay vào đó một cái tượng cũng chẳng sao. Hình như người ta cho rằng ngồi ở chủ tịch đoàn là một vinh dự chứ không phải là một nhiệm vụ. Năm 1974, có lần tôi được dự họp trù bị cho đại hội CNVC ở trường Đại học Xây dựng. Ban tổ chức dự kiến chủ tịch đoàn gồm 9 người, đại diện cho mọi thành phần trong trường, từ Đảng ủy đến chị em cấp dưỡng. Tôi đã vừa thuyết phục vừa đấu tranh để chỉ chọn 3 người, ý kiến đó được chấp nhận, nhưng rồi chỉ áp dụng một lần cho đại hội ấy.
2- Đề cử và rút lui
Ở các nước dân chủ, các ứng viên để bầu vào chức danh nào đó thường do ứng cử, tranh cử, hầu như không thấy đề cử. Tại VN có chuyện đề cử. Điều trái khoáy xảy ra khi người được đề cử xin rút khỏi danh sách. Xin rút là quyền của đại biểu nhưng cho rút hay không lại là quyền của người giới thiệu, của chủ tịch đoàn, của đại hội. Nghe qua thì tưởng như thế là dân chủ tập trung, nhưng nghĩ lại thì thấy nhân quyền bị vi phạm một cách quá đáng.  Có lần tôi ngồi chủ tịch đoàn một đại hội chi bộ. Đến mục bầu chi ủy. Không có ai ứng cử. Trong số 6 người được đề cử để bầu 3, có 5 người xin rút và đều được chủ tịch đoàn cho rút trên tinh thần tôn trọng quyền của mỗi người. Sau đó Chủ tịch đoàn đề nghị đại hội thảo luận và thông qua báo cáo lên trên xin giải tán chi bộ, chuyển các đảng viên sang sinh hoạt tại các chi bộ khác vì không thể nào bầu được chi ủy. Đến lúc ấy thì mới có vài người nhận đề cử để bầu.
3- Phiếu không hợp lệ
Khi bầu, ban bầu cử phát phiếu cho đại biểu và công bố cách ghi phiếu. Điều trái khoáy là trong các phiếu được phát ra cho đúng người có quyền bầu, khi thu về có phiếu hợp lệ và bất hợp lệ. Thông thường người ta cho những phiếu sau là bất hợp lệ: a- Phiếu không do ban bầu cử phát ra (phiếu giả); b- Phiếu viết thêm tên người ngoài;  c- Phiếu bầu số người nhiều hơn quy định; d- Phiếu trắng. Theo tôi  tất cả các phiếu do ban bầu cử phát, người viết phiếu là người có quyền bầu đều hợp lệ, đều phải được kiểm, không có phiếu bất hợp lệ.
Thử hỏi, mục tiêu của bầu cử là gì. Phải chăng là để chọn ra người có số phiếu cao hơn. Thế thì, trừ trường hợp a (đã bị loại từ đầu), các trường hợp còn lại không hề ảnh hưởng đến mục tiêu bầu cử, không ảnh hưởng đến sự chính xác của kết quả. Điều vừa viết chạm vào thói quen của hàng chục triệu người trong thời gian dài, vì thế chắc sẽ có nhiều ý kiến phản đối. Tôi chỉ muốn nêu ra một suy nghĩ để bạn nào có quan tâm thì cùng suy nghĩ và trao đổi, chỉ xin đừng xem mọi thứ do con người đề ra đều là hoàn toàn đúng. Có lập luận cho rằng  phải loại bỏ các phiếu  b, c, d vì chúng do những đại biểu vô trách nhiệm hoặc cố tình vi phạm quy chế. Tôi nghĩ khác, cho rằng đó là một cách thể hiện ý kiến cá nhân mà không thể phát biểu công khai hoặc một sự do dự trong việc lựa chọn giữa vài người nào đó.
4- Phiếu bầu một người
Phiếu bầu một người cũng là một dạng trái khoáy thường xảy ra ở các chế độ độc tài. Trong trường hợp này phiếu trắng cũng phải xem là hợp lệ và được kiểm. Thế nhưng có vài nơi người ta vẫn cho phiếu trắng là bất hợp lệ, chỉ kiểm những phiếu hợp lệ, việc này đẩy sự độc tài và sự bịp bợm lên đỉnh cao chót vót.
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN


"THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP" (! ?)
Bài của BÙI VĂN BỒNG/ BVB 20/1/2016

Ngày mai (21-1-2016), khai mạc Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 12 (ĐH 12). Vậy là 86 năm qua, (đảng CS Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, nay là đảng CSVN) đã 12 lần khai mạc, rồi bế mạc đại hội. Trong mỗi nhiệm kỳ lại có hàng chục lần Hội nghị. Cái cụm từ chốt đáy: “Thành công tốt đẹp” không biết có tự bao giờ. Nhưng mấy thập niên vừa qua, các hội nghị, đại hội từ cấp xã, phường trở lên, cấp đảng bộ, chi bộ cơ quan, bộ ngành, đến Trung ương đều bế mạc (xong, kết thúc) bằng câu “chốt’ đã quá quen, xem ra có vẻ ‘đầy tự hào, phấn khích’ đó. Riêng cái nếp quen có chủ đích ấy quả là không trung thực, cố tình nói trái, đánh lừa dư luận!
          Làm bất cứ việc gì ai cũng mong thành công. Lại được “thành công tốt đẹp” thì quá tuyệt vời. Nhưng trong thi đua, tổng kết, hội nghị, đại hội, người ta đã làm méo xẹo sự tuyệt vời ấy. Đua nhau diễn trò, bắt chước nhau ‘tự huyếnh’, nâng cao để tự sướng, bệnh thành tích, họ đã làm mất nghĩa của ngôn ngữ, đánh tráo khái niệm. Dù biết rằng việc chính chưa xong, còn cãi nhau ầm xòe tóe loe chày cối, thống nhất chưa cao, còn phải họp nữa, nhưng bao giờ vẫn không quên chốt lại: “thành công tốt đẹp”.
            Các nước tiên tiến người ta lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật, bằng những hành động, biện pháp thiết thực; người lãnh đạo dám nghĩ, dám làm, tự đột phá, tự chịu trách nhiệm, nói là làm, có khi làm xong mới nói. Tổng thống các nước đã quyết định làm việc gì tự mình tổ chức thực hiện, nếu cần thì bàn qua, trình ‘lưỡng viện’ quyết, rồi làm, không cần tập thể lãnh đạo nào cả. Như nước Mỹ, tổng thống quyết định làm gì là tự chịu trách nhiệm. Không bao giờ phải chờ đợi đảng Cộng hòa, đảng Dân chủ bàn bạc để ‘lãnh đạo tập thể’ rồi tổng thống mới được triển khai cho đúng ‘ý định, chủ trương lãnh đạo’. Có như thế người lãnh đạo mới tự chủ, sáng tạo, độc lập, không bị cái ‘vòng kim cô’ nào xiết lại cả, không chịu sức ép đè, dội, khống chế từ trên xuống. Nhưng với cung cách, lề lối làm việc của lãnh đạo Việt Nam (mọi cấp) chỉ có nói, phán, đưa ra ý định, rồi phải qua ‘tập thể lãnh đạo’ thảo luận, ra văn bản, chỉ đạo cho chính quyền, thủ trưởng cơ quan thực thi. ‘Tập thể lãnh đạo’ chỉ có nói, bày vẽ, nặng về chủ quan, ra chủ trương, coi như xong việc, còn làm là những người khác, là toàn dân.
Vai trò trực tiếp nói đi đôi với làm theo cung cách thành nền nếp của đảng cộng sản hoàn toàn xa lạ, khác kiểu với các nước tiên tiến. Nguyên tắc đó, cung cách đó tự tách ra nói và làm khác nhau. Sự ỷ lại vào tập thể của ‘cá nhân phụ trách’ đã triệt tiêu những quyết tâm, sáng tạo. Khuôn phép, quy trình, kế hoạch lúc đó trở thành những vành đai ngầm trói buộc vai trò của lực lượng hành động. Quan liêu từ đó phát sinh và ngày càng nặng nề, trở thành lực cản sự phát triển; bảo thủ, giáo điều, khô cúng, rập khuôn, công thức cũng từ đó mà phát sinh, tự tại và có sức trì kéo ghê gớm, mất nhiều thời cơ, bế tắc.
            Suy cho cùng, cái gốc rối bung, lằng nhằng, lùng tùng ‘tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách’ đã  tự mình tạo những má phanh vô hình kìm hãm mọi phát triển. Cái ‘tập thể lãnh đạo’ (vua Tập Thể) đưa ra thành nguyên tắc quản lý, điều hành xã hội chẳng qua là sự ôm đồm, cái gì cũng phải qua tập thể cấp ủy, thường vụ. Cố tình duy trì cung cách đó chẳng qua để phục vụ cho sự độc quyền, toàn trị của đảng: ‘Lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện’. Dẫm chân lên nhau, đá lộn sân, bỏ trống trận địa, nhiều khi bỏ ngỏ khung thành, cũng do cái nguyên tắc ‘cà khêu’ kiểu đó.
            Vậy, cứ cho là thống nhất cao về nghị quyết, vỗ tay, rồi “thành công tốt đẹp”, nhưng khi triển khai thực hiện thì phần nhiều chủ trương, kế hoạch, ý định, mục tiêu vẫn chỉ nằm trên giấy. Đảng ra nghị quyết, đề chủ trương xong thì coi như cơ bản xong việc, phủi tay, hoàn thành nhiệm vụ,  thực hiện là của chính quyền và nhân dân.
            Với những tồn tại khách quan và không biện chứng ấy, lần này Đại hội 12 cần thay đỏi hẳn nguyên tắc ‘tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách’, vốn mấy thập niên qua đã sai cả về mặt  logic, không khoa học và xa rời thực tế và chất lượng, hiệu quả rất thấp.
            Để “thành công tốt đẹp”, Đại hội 12 cần bứt phá khỏi sự khuôn sáo, máy móc, cứng đờ, lý luận suông như các kỳ đại hội trước. Phải làm rõ ‘phân công, phân quyền, chịu trách nhiệm rõ ràng’, không thể để xảy ra sai lầm rồi cả cái ‘tập thể lãnh đạo’ không ai chịu trách nhiệm, thằng cơ chế đứng ra gánh tội hết, còn cá nhân cũng có cớ mà thoái thác, không phải chịu trách nhiệm gì cả. Nên thay "Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách"  bằng "Bàn bạc tập thể, giao cho cá nhân chịu trách nhiệm thực thi".
            Để “thành công tốt đẹp”, Đại hội 12 cần đưa vào nghị quyết, kèm các biện pháp, phân công thực hiện cụ thể  những chủ trương thiết thực sau đây:
- Đảng cần có tự trọng với vai trò lãnh đạo đất nước có chủ quyền, độc lập, tự chủ. Đảng của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn, điều kiện khả năng cụ thể và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và Tổ quốc Việt Nam, phù hợp, theo kịp xu thê thơi đại để đề ra đường lối, chủ trương lãnh đạo phù hợp; chứ không ai bắt, và cũng không việc gì phải thề thốt "kiên định mục tiêu lý tưởng, trung thành vô hạn" với luận thuyết, chủ nghĩa của ông Tây, ông Tàu nào cả.
- Đội ngũ lãnh đạo (Bộ chính trị, Ban bí thư, Ban chấp hành Trung ương, thường vụ, cấp ủy các cấp) phải trẻ, khỏe, có đạo đức và trình độ, động cơ vì dân vì nước.
- Đưa ra phân tích làm rõ lợi và hại, đúng và sai của Hội nghị Thành Đô 9-1990, xem xét lại ‘16 chữ vàng, 4 tốt’ trong quan hệ Việt-Trung có thực sự hữu nghị, tôn trọng nhau hay chỉ là khẩu hiệu đánh lừa, viễn vông? Xác định rõ thực chất những hù dọa của Giang Trạch Dân tại Hội nghị Thành Đô về “thế lực thù địch”, “Diễn biến hòa bình”, qua đó làm rõ chủ đích và âm mưu Trung Quốc ngăn cản Việt Nam quan hệ với các nước phương Tây, chỉ biết có TQ và chỉ có TQ mà thôi!
- Đi sâu kiểm điểm làm rõ: Tại sao nhiệm kỳ khóa 11 vừa qua lãnh đạo đảng, nhà nước không kiên quyết đấu tranh với bành trướng bá quyền Trung Nam Hải để bảo vệ chủ quyền biển đảo, còn nhu nhược, nhũn nhặn, nhường nhịn, quá tin vào TQ, còn đàn áp người biểu tình bảo vệ chủ quyền biển đảo, cho Trung Quốc mượn cớ 'hợp đồng kinh tế', 'trúng thầu đầu tư" ở 26 điểm trên cả nước, từ lạng Sơn đến Cà Mau, tại hầu khắp các địa bàn trọng yếu về quốc phòng- an ninh?
- Khẳng định rõ ràng Kinh tế thị trường là mục đích, là hướng đi, cần dứt khoát bỏ hẳn cái đuôi bảo thủ, giáo điều, khẩu hiệu ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’.
- Chủ trương cụ thể, dứt khoát về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nhất là biển-đảo, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, giữ vững độc lập tự chủ, không để bị lệ thuộc ‘ý thức hệ’ siêu hình, viễn vông. Không để TQ dễ dàng dùng chiến lược ‘xâm lược mềm’ để thôn tính Việt Nam.
- Tôn trọng dân chủ, nhân quyền, có mục tiêu, chính sách về nâng cao dân trí, thiết thực bảo đảm dân sinh,  bảo đảm dân ý, dân nguyện, dân quyền
- Phân biệt rõ, không lẫn lộn bạn-thù, địch-ta, đối tác, đối tượng…, mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại trung thực, có hiệu quả đích thực.
- Đảng phải nằm ngoài Hiến pháp, không được dùng ‘quyền lãnh đạo” của đảng để đứng trên mọi Hiến pháp, pháp luật. Nếu cần, Quốc hội phải ban hành “Luật về đảng phái ,  thể chế chính trị”, do Quốc hội đại diện cho toàn dân thực thi. Quốc hội phải là cơ quan quyền lực cao nhất, độc lập, không bị đảng lãnh đạo, chi phối. Đảng không xứng vai trò lãnh đạo, suy thoái, biến chất, tiêu cực , tham nhũng, mất uy tín với dân, Quốc hội có quyền dẹp bỏ. Tỉ lệ đảng viên trong QH không nên quá 30%.
- Không ai có quyền tự ý làm trái, hoặc sửa lại nguyên tắc điều lệ đảng chỉ nhằm mục đích cá nhân và phe nhóm…
- Đảng lãnh đạo và quyết định sớm ban hành Luật biểu tình, sửa lại, bổ sung Luật tự do báo chí, tự do ngôn luận…
            Còn nhiều nội dung cần thiết. Nhưng Đại hội 12 giải quyết được những vấn đề cơ bản trên đây, thì có thể đĩnh đạc mà nói:“Đại hội thành công tốt đẹp”!

BVB
KỲ VỌNG GÌ Ở ĐẠI HỘI 12 ĐCSVN ?
Bài của LÊ QUẾ LÂM/ BVN 20/1/2016
Đảng CSVN đã chính thức thông báo Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XII sẽ diễn ra từ ngày 20 đến 28/01/2016. Theo thông lệ, để duy trì sự lãnh đạo liên tục của Đảng, việc chuẩn bị đại hội kéo dài khoảng một năm. Thời gian đó cần thiết để khóa cũ ấn định thành phần lãnh đạo cho khóa mới. Tổng bí thư viết dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (BCH/TƯ). Thủ tướng viết dự thảo báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm qua (2011-2015) và đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm tới (2016-2020). Sau đó, đảng bộ các cấp trực thuộc họp đại hội, góp ý với các dự thảo báo cáo của trung ương và bầu đại diện tham dự đại hội toàn Đảng để hợp thức hóa vai trò của Tổng Bí thư và thông qua Báo cáo chính trị của Đảng.
Việc chuẩn bị Đại hội Đảng lần này có sự bất thường vì sự trì trệ xuất phát từ sự bất đồng trong nội bộ về nhân sự lãnh đạo tức Tổng bí thư tương lai. Ngày 21/12/2015 Hội nghị Trung ương (HNTƯ) 13 của BCH/TƯ bế mạc mà vẫn chưa ấn định được thành phần lãnh đạo, họ quyết định “Giao cho Bộ chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư TƯĐ khóa XI quá tuổi, tái cử, để đảm nhận chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình HNTƯ 14 xem xét quyết định”. Ngày 11/01/2016 HNTƯ 14 nhóm họp. Ba ngày sau, trong diễn văn bế mạc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, hội nghị “đã tập trung thảo luận, thống nhất cao về chủ trương ký kết, phê duyệt Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)…”. Hội nghị cũng đã “biểu quyết thông qua nhân sự đề cử bổ sung một số Ủy viên TƯĐ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử khóa XII và danh sách đề cử các đồng chí ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước”.
Sau HNTƯ 14, nhiều người đồn đoán Nguyễn Tấn Dũng đã “hết cửa” trong cuộc chạy đua tranh chức tổng bí thư với Nguyễn Phú Trọng. Hội nghị đã biểu quyết: Nguyễn Phú Trọng -Tổng Bí thư, Trần Đại Quang -Chủ tịch Nước, Nguyễn Xuân Phúc -Thủ tướng và Nguyễn Thị Kim Ngân -Chủ tịch Quốc hội. Như vậy, ba nhân vật trong “tứ trụ” là Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Sinh Hùng sẽ rời khỏi chức vụ sau Đại hội XII…Nhưng dựa vào lời ông NPT mô tả kỳ họp ba ngày vừa qua là “dân chủ, đoàn kết, tập trung”, ông Trọng cũng không nêu ra bất cứ một tên tuổi nào được “đặc biệt tái cử”, người viết suy luận: đến giờ phút chót Bộ Chính trị vẫn chưa nhất trí được ai sẽ là Tổng Bí thư, nên tạm thời hòa hoãn bày tỏ sự đoàn kết nội bộ bằng cách tiếp tục duy trì thành phần cũ. Và HNTƯ 14 đã biểu quyết thông qua quyết định của Bộ Chính trị: duy trì chức danh lãnh đạo của bốn ông Trọng Sang Hùng Dũng để Đại hội XII xem xét và quyết định.
Đại hội XII sẽ thừa kế cái di sản nặng nề của khóa XI để lại. Đó là sự chia rẽ trầm trọng không thể nào hàn gắn được trong giới lãnh đạo chóp bu xuất phát từ sự đối đầu giữa Tổng bí thư Đảng và Thủ tướng Chính phủ vì sự bất đồng về đường lối, chính sách quốc gia. Đây là một sự kiện chính trị lớn chưa bao giờ xảy ra: Chính phủ không còn phục tùng Đảng. Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn kiên trì với chủ nghĩa xã hội với Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong khi ông Nguyễn Tấn Dũng chủ trương thay đổi thể chế để giúp VN hợp tác sâu rộng về kinh tế mậu dịch với thế giới giúp đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu, đồng thời cũng là cách để VN thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Thật ra, Khóa XI sắp chấm dứt cũng đã thừa kế những di sản nặng nề của 10 Khóa trước kể từ khi Đảng được thành lập. Khóa XI không giải quyết được nay bàn giao cho Đại hội XII. Đó là sứ mạng quan trọng của Đại hội Đảng lần này.
Đại hội Đảng CSVN I hay Đại hội đại biểu lần thứ Nhất của Đảng CS Đông Dương diễn ra ở Ma Cao năm 1935. BCH/TƯ cử ông Hồ Chí Minh làm đại diện Đảng CSĐD tại Quốc tế III. Đại hội Đảng lần thứ II ở Tuyên Quang năm 1951 đã quyết định tách Đảng CSĐD để thành lập ở mỗi nước Đông Dương, các Đảng Mác-Lênin riêng. Ở VN Đại hội thành lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai. Trong Đại hội này, tư tưởng Mao Trạch Đông được ghi vào điều lệ của Đảng. Nhờ đó, Trung Cộng tích cực ủng hộ CSVN trong kháng chiến chống Pháp. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: “củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Từ đó, cả LX lẫn TQ đều tận tình ủng hộ CSVN đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đề ra mục tiêu “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Tên nước đổi thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gia nhập khối Comecon, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô. TC coi những hành động này là thái độ phản bội của CSVN nên mở cuộc tấn công “dạy cho CSVN một bài học” khi Hà Nội đưa quân sang Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot thân Bắc Kinh. Từ đó Hiến pháp 1980 của VN lên án bọn bành trướng Bắc Kinh là kẻ thù của dân tộc. Vì thế để bảo vệ đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng lần thứ V (1982) đề ra mục tiêu “Gắn bó chặt chẽ và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược, đồng thời là tình cảm cách mạng”.
Sau khi TBT Lê Duẩn qua đời (10/7/1986) Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã thú nhận “Trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy, đã dẫn đến nhiều sai lầm "trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế". Vì thế Đại hội VI đã đề ra “đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế”. Đến cuối thập niên 1980, LX và khối CS Đông Âu bước vào giai đoạn thoái trào, CSVN quay về hợp tác với Trung Cộng qua Thỏa ước Thành Đô (9/1990), Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa theo khuôn mẫu của Đặng Tiểu Bình.
Trong thời điểm này, Võ Văn Kiệt làm thủ tướng, ông vận động Mỹ bãi bỏ cấm vận, sau đó tiến tới bình thường hóa bang giao với VN (7/1995). Trước đó VN đã gia nhập khối ASEAN và hợp tác giao thương với Cộng đồng Âu Châu (EU). Từ giữa năm 1995 VN chuẩn bị tổ chức Đại hội lần thứ VIII, ông Võ Văn Kiệt được coi là nhân vật sáng giá nhất trong vai trò tổng bí thư. Phó thủ tướng Phan Văn Khải lúc đó nhận xét: Ông Kiệt làm tổng bí thư, VN đổi mới nhanh lắm vì ông Kiệt chán ngán chủ nghĩa xã hội đến tận cổ. Nhưng con đường tiến của ông Kiệt bị chận lại vì ông Đỗ Mười lúc bấy giờ đã ngấp nghé 80 tuổi vẫn còn muốn tiếp tục làm Tổng bí thư. Nhóm cán bộ bảo thủ giáo điều quyết định giữ nguyên vị trí của bộ ba lãnh tụ TBT Đỗ Mười 79 tuổi, Chủ tịch nước Lê Đức Anh 76 tuổi và Thủ tướng Võ Văn Kiệt 74 tuổi trong Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996. Đến cuối năm sau (1997), nhóm bảo thủ thân TQ đưa ra lý do các ông Mười, Anh, Kiệt đều tuổi cao và áp lực họ về hưu để làm cố vấn cho BCH/TƯĐ. Thượng tướng Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư. Từ đó, mối quan hệ VN/TQ ngày càng chặt chẽ thêm với phương châm 16 chữ và 4 tốt. Hai hiệp ước về lãnh thổ trên bộ và vịnh Bắc Bộ được ký với TQ năm 1999 và 2000. Hậu quả là Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan cùng nhiều vùng đất khác cũng như hơn 10 ngàn cây số vuông ở vịnh Bắc Bộ mất về tay TQ so với các hiệp ước mà thực dân Pháp đã ký với triều đình nhà Thanh hồi cuối thế kỷ 19.
Ngày nay, với việc duy trì vai trò lãnh đạo của “tứ trụ” hoặc  2 cột trụ NPT và NTD từ khóa XI sang khóa XII, có thể nhóm bảo thủ thân TQ muốn tái diễn trò chính trị hồi năm 1996, lần này là ngăn chận không cho Nguyễn Tấn Dũng làm tổng bí thư. Nhóm “tứ trụ” lãnh đạo nửa nhiệm kỳ, đến giữa năm 2018 họ sẽ bị áp lực phải từ nhiệm vì quá tuổi qui định. Khóa XII sẽ kết thúc vào năm 2020. Đó là thời điểm VN sáp nhập vào TQ theo cam kết Hội nghị Thành Đô. Tờ Hoàn Cầu Thời Báo –cơ quan ngôn luận bán chính thức của TC đã công khai phổ biến các điều khoản trong thỏa thuận ký kết bởi cấp lãnh đạo tối cao hai nước. Theo đó “Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương… Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. 
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) chủ trương tiếp tục hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn này ông Nguyễn Tấn Dũng làm Phó Thủ tướng thường trực. Rút kinh nghiệm từ  thất bại của ông Kiệt, dù xuất thân từ Mặt trận GPMN song Phó TT Nguyễn Tấn Dũng tỏ ra “bảo hoàng hơn vua” trong việc xây dựng tổ quốc XHCN, nên được lòng hai “thái thượng hoàng” Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Đến Đại hội Đảng lần thứ X (2006) ông Dũng làm thủ tướng, được sự ủng hộ mạnh mẽ của thế lực “tư bản đỏ”. Thế lực này nổi lên nhờ nghị quyết của Đại hội X cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân kể cả kinh tế tư bản tư nhân. 
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) quyết định tiếp tục xây dựng CNXH nhưng theo “đặc trưng mới dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Dựa vào đó TT Nguyễn Tấn Dũng đề xuất Bộ CT thành lập các Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động đa ngành, đa lãnh vực; bổ nhiệm đảng viên cao cấp giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ sở quốc doanh này. Thế lực của TT Nguyễn Tấn Dũng càng vững mạnh thêm khiến nhóm bảo thủ trong Bộ CT tìm cách hạ bệ Dũng. Họ nêu lý do để kỷ luật Dũng vì “một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, điển hình là Vinashin, Vinalines hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, với hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và ảnh hưởng lớn đến uy tín vai trò kinh tế nhà nước”. Để phản bác, ông Dũng quy trách nhiệm cho tập thể Bộ CT vì đó là chủ trương lớn của Đảng. Do đó Bộ CT và Ban Bí thư “xin nhận lỗi và đề nghị BCH/TƯ có hình thức kỷ luật về trách nhiệm chính trị đối với tập thể Bộ CT và một đồng chí trong Bộ CT”. BCH/TƯ quyết định không kỷ luật cả hai, và cũng “xin nhận lỗi trước toàn Đảng vì trách nhiệm của mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua” (Trích thông báo của HNTƯ6 tháng 10/2012).
Không thuyết phục được HNTƯ 6 kỷ luật TT Nguyễn Tấn Dũng, uy tín của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuống thấp. Tập thể Bộ CT, Ban Bí thư và BCH/TƯ đều nhận lỗi trước toàn Đảng. Trong Đảng chức vụ Tổng Bí thư là cao cấp nhất, đáng lẽ ông NPT cũng phải nhận lỗi và xin chịu kỷ luật. Dư luận thường đề cập đến “đồng chí X” ám chỉ TT Dũng, nhưng nhân vật đó phải là đồng chí Tổng bí thư, chớ không phải đồng chí thủ tướng. Từ đó, tên tuổi của TT Nguyễn Tấn Dũng ngày càng nổi bật nhờ khôn khéo, biết biến khuyết điểm và trách nhiệm của mình thành khuyết điểm và trách nhiệm của Đảng.
Năm 2014 TQ đưa giàn khoan HD 891 vào hải phận VN, Dũng là người duy nhất trong bộ máy lãnh đạo Đảng lên tiếng phản kháng quyết liệt nhất. Trong khi đó, tờ Hoàn Cầu Thời Báo của TQ lại biện minh: Hoàng Sa và Trường Sa là của VN nhưng Công hàm năm 1958 của TT Phạm Văn Đồng đã thừa nhận thuộc chủ quyền của TQ. Tờ báo còn đề cập số tiền 870 tỷ Mỹ kim mà CSVN nợ của TQ trong hai cuộc kháng chiến. Việc này làm hoen ố thanh danh của Đảng, nhưng uy tín Dũng lại lên cao. Trong HNTƯ 10 hồi đầu tháng Giêng 2015 chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XII, ông được BCH/TƯ bỏ phiếu tín nhiệm cao nhất.
Trước triển vọng Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng bí thư trong Đại hội XII, các phần tử chống Dũng phải tìm cách hạ đối thủ của mình. Họ tung tin NTD sẽ là Tổng bí thư và ông ta sẽ giải tán Đảng, chuyển đổi thể chế từ độc tài cộng sản sang độc tài cá nhân gia đình trị. Một số cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu đã gởi thư lên Tổng bí thư và BCH/TƯ cáo buộc NTD có nhiều khuyết điểm không xứng đáng làm tổng bí thư. Mối ưu tư lo lắng của các đảng viên lão thành về việc Đảng CS bị giải tán là thường tình, chính đáng. Họ sợ mất sổ hưu, cho thấy họ chẳng giàu có gì, chỉ có những đảng viên đầy thủ đoạn biết luồn lọt chớp thời cơ mới có được tài sản khổng lồ. Suốt cuộc đời của họ gắn liền với hai cuộc kháng chiến do Đảng CS lãnh đạo, anh em con cháu họ đã trở thành liệt sĩ được bằng khen của Đảng treo đầy nhà… Nếu Đảng CS bị giải tán là điều đau buồn, uất hận nên họ lên tiếng chống NTD, tuy nhiên những lập luận họ đưa ra lại tạo sự tranh luận sôi nổi.     
Việc ông Dũng có sui gia là cựu quân nhân VNCH theo Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh, một giảng viên đã nghỉ hưu ở Sài Gòn đã nói với BBC là điều rất tốt, là dấu hiệu tốt cho sự hòa giải. Bà nói “Tôi là người không ủng hộ chính sách lý lịch một chút nào vì tôi đã từng là nạn nhân của nó, con em của bên thua cuộc đã bị ảnh hưởng rất nhiều”. Bà chỉ thắc mắc:Thủ tướng VN có sui gia như vậy là sự thật xảy ra từ nhiều năm rồi. Nếu điều đó rất có hại cho an ninh quốc gia hay chế độ thì ông Dũng đã và đang ở vị trí quan trọng, tại vị hơn 10 năm rồi, tại sao lâu nay không đặt vấn đề? Có phải vì hiện nay muốn ngăn cản ông Dũng?
Nhà báo Huy Đức nhận xét “Chủ nghĩa lý lịch là một chính sách vô nhân đạo mà hàng triệu đảng viên khác đang bị ràng buộc, ngay cả các cháu học sinh vẫn bị lý lịch cản trở khi thi vào một số ngành”. Vì thế ông “Đánh giá cao việc Thủ tướng đã vì hạnh phúc của con gái, ủng hộ một cuộc hôn nhân mà biết chắc sẽ gây phiền phức đến ông. Nhưng tôi còn đánh giá cao hơn, ông Dũng -với tư cách là một người quyền lực nhất trong đảng tuy về danh nghĩa không phải là người cao nhất lúc đó- đấu tranh để Đảng sửa đổi những quy định lỗi thời về lý lịch”. 
Về việc gia đình Nguyễn Tấn Dũng giàu có, tài sản khổng lồ là vì Đảng đã dành cho cán bộ đảng viên quá nhiều đặc quyền đặc lợi, nay Đảng lại cho phép họ được làm kinh tế tư bản tư nhân. Vì thế không riêng gì Nguyễn Tấn Dũng mà hầu như gia đình của những đảng viên có chức có quyền đều trở thành đại gia, đại phú. Còn việc ông Dũng có mưu đồ làm tổng bí thư cũng là lẽ thường của những người làm chính trị. Không riêng gì thủ tướng mà có lẽ các vị trong “tứ trụ” và các ủy viên Bộ CT đều ngấp nghé ngôi vị này? Nhưng có ai dám đòi thay đổi thể chế để có lợi cho dân cho nước?
Về độc tài cá nhân, ông Nguyễn An Dân - một nhà tư vấn về pháp lý đang sinh sống tại Sài Gòn chia sẻ ý kiến này với BBC: “Những người dân chủ hay quần chúng có chính kiến hãy nhớ rằng độc tài cá nhân là con của độc tài tập thể. Nếu sợ đứa con độc tài cá nhân ra đời mà chúng ta “vô tình ủng hộ” cho bà mẹ độc tài tập thể thì e rằng chúng ta sai lầm trong hướng đi của mình”.
Nói gì thì nói, giờ đây vận mạng dân tộc đang chờ sự quyết định của 1510 đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu Toàn Đảng lần thứ XII sẽ khai diễn trong hai ngày tới đây. Đặc biệt lần này, Bộ Công an đã có kế hoạch ra quân với quyết tâm bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn cho đại hội”. Cuộc xuất quân thực tập đã diễn ra ngày 9/01/2016 tại khu vực sân vận động Ba Đình Hà Nội với lực lượng hùng hậu gần 5200 binh lính gồm cảnh sát đặc nhiệm và cơ động, bộ đội đặc công, một bộ phận của Sư đoàn Phòng không Không quân, chiến xa bọc thép chống đạn, xe tác chiến điện tử…
Trước đó, đã có những đồn đoán sẽ có đảo chánh bằng quân sự trong thời gian diễn ra Đại hội XII, một đại hội máu sẽ xảy ra là một điều không thể tránh khỏi. Nay với việc điều động quân tại thủ đô trong thời điểm cuộc tranh giành quyền lực “một mất một còn” giữa nhóm canh tân và bảo thủ đã đến hồi quyết liệt, khiến người viết liên tưởng đến cuộc đảo chánh Gorbachev ngày 19/8/1991. CSVN xuất phát từ Liên Xô và sự kết liễu của nó cũng sẽ giống như LX. Tuy nhiên người viết mong rằng vai trò của Đảng CSVN sẽ được giải quyết theo kiểu VN. Trong những ngày sắp tới, trước hơn 1500 đại biểu tham dự Đại hội XII, TBT Nguyễn Phú Trọng hoặc TT Nguyễn Tấn Dũng sẽ đại diện BCH/TƯ Khóa XI báo cáo các thành quả của Đảng trong nhiệm kỳ 2011-2015 với vài nét nổi bật như:
- Luật Biển VN được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2012 khẳng định chủ quyền của VN trên hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Luật Trưng cầu Ý dân được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015. Ngoài ra VN còn ký các Hiệp định FTA (Thương mại tự do) với Đại Hàn, với EU (Công đồng Âu Châu) và TPP. Ngày 31/5/2013, hội nghị An ninh châu Á diễn ra tại Diễn đàn Đối thoại Shangri-La (Shangri-La Dialogue. Ban tổ chức mời thủ tướng VN làm diễn giả chính, đọc diễn văn khai mạc. Trong bài diễn văn tựa đề “Niềm tin chiến lược” TT Nguyễn Tấn Dũng đã phác hoạ triển vọng tươi sáng của khu vực Á Châu/Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và phát triển dựa vào khối ASEAN và sự hợp tác của HK và TQ.
Bên cạnh các thành tựu trên, VN còn gặp nhiều khó khăn trong mối bang giao với TQ. Bắc Kinh không chấp nhận Luật Biển của VN, gây hấn bằng cách đưa giàn khoan HD 981 vào hải phận VN ở Hoàng Sa năm 2014 và mới đây ở Vịnh Bắc Bộ. Về việc xây dựng CNXH, một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước được coi là chủ trương lớn của Đảng, như đã trình bày ở trên bị đánh giá là hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, với hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và ảnh hưởng lớn đến uy tín vai trò kinh tế nhà nước”. Vì thế, toàn thể Bộ CT, Ban Bí thư và BCH/TƯ đã xin nhận lỗi trước toàn Đảng. Nạn tham nhũng ngày càng phát triển, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ví von, nhận xét tham nhũng như bầy sâu và lên tiếng báo động: “Không phải một con sâu, mà một bầy sâuMột con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ đất nước này”.
Trên đây là thực trạng đất nước đã đưa đến việc tranh chấp về đường lối, chính sách quốc gia trong thượng tầng nội bộ của Đảng. Các đối thủ đã tung ra những nét xấu xa của nhau để hạ thủ nhau được lan truyền sâu rộng trong thời đại tin học. Nhờ đó người dân hiểu được “thế nước” nhưng “lòng dân” thể hiện như thế nào? Qua đài BBC, ông Nguyễn An Dân ở Sài Gòn đã phát biểu: “Dù nhiều người nói “quần chúng ngoài đảng” có nói gì thì cũng không ảnh hưởng vào đảng thì tôi e rằng không phải. Khi mạng xã hội chưa phát triển, nên đảng ít bị dư luận soi mói do dễ bưng bít thông tin. Nay, dù ít dù nhiều, với tác dụng của mạng xã hội hiện nay, cũng gây tác dụng phần nào đó vào quyết định của đảng. Nếu không có tác dụng thì vì sao có nhiều thông tin lọt lộ ra để dùng “quần chúng bên ngoài” gây sức ép cho nhau lên các phe phái bên trong đảng?”. Như vậy, hai phe đối nghịch đã lợi dụng lòng dân để gây sức ép tấn công nhau.
Trong kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 13, ông Lê Như Tiến Đại biểu Quảng Trị có nói đến thời điểm “hoàng hôn của nhiệm kỳ” các quan chức nhà nước chạy đua nước rút để thực hiện những chuyến tàu vét cuối cùng trước khi hạ cánh. Sau đó Quốc hội nhất trí thông qua Luật Trưng Cầu Ý Dân, theo người viết thì việc Quốc hội tôn trọng ý dân là phương cách giúp các đảng viên cộng sản hạ cánh an toàn trong buổi hoàng hôn, ngày tàn của chế độ. Người viết kỳ vọng trong Đại hội Đảng lần này, Đảng sẽ quyết định chấm dứt việc xây dựng CNXH vì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến cuối thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở VN hay chưa”. Mục tiêu của Đảng là xây dựng CNXH không còn nữa thì Đảng sẽ từ bỏ quyền độc tôn lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Thực hiện hai mục tiêu trên là để thay đổi thể chế, không phải giải tán Đảng CSVN mà thành lập chế độ cộng hòa, dân chủ. Nguyên thủ là tổng thống sẽ tổ chức bầu cử Quốc hội, thảo ra Hiến pháp xây dựng chế độ mới, đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập. Người viết kỳ vọng đó sẽ là quyết định của Đại hội Đại biểu Toàn Đảng CSVN lần thứ XII. Lịch sử sẽ ghi công Đại hội này đã giúp Đất nước hồi sinh, mở ra thời kỳ phát triển huy hoàng của Dân tộc. Tiếp sau Đại hội XII là Tết Bính Thân 2016 mở đầu Mùa Xuân của Dân tộc, đất nước bước vào kỷ nguyên mới Dân Chủ Tự Do Độc Lập Phú Cường.
Sydney 19/01/2016
L.Q.L.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét