Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

20160105. BÀN VỀ NGUY CƠ TRONG ĐẢNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
NHẬN DIỆN VÀ ĐỘT PHÁ CẤP BÁCH CÁC NGUY CƠ TRONG ĐẢNG HIỆN NAY
Bài của  NHỊ LÊ/ TCCS 22/12/2016

TCCS - Kinh nghiệm 85 năm lãnh đạo, trong đó có hơn 70 năm cầm quyền của Đảng ta khẳng định, một trong những bài học thành công là, luôn cảnh giác, chủ động dự báo và kiên quyết khắc phục có hiệu quả những thách thức, nguy cơ đối với cách mạng, trước nhất từ trong nội bộ Đảng. Trong bối cảnh mới hết sức phức tạp, có mặt diễn biến khôn lường, hiện nay, cùng với những vận hội mới, thời cơ mới, Đảng đứng trước những hiện trạng đáng cảnh báo, những thách thức mới.
Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh... Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt”(1). Tới Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(2).
Và chúng ta thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trong tình hình đáng lo ngại thách thức: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(3).
Qua bốn năm, từ việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, phát hiện những hiện trạng nóng bỏng, với những “tầng chìm thực thể”, như C. Mác nói, tinh vi, giảo quyệt hơn, đặt ra những thách thức ngày càng cấp bách, thật sự là nguy cơ. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền...; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Nhận diện những nguy cơ có thể làm băng hoại Đảng
Xuất phát từ đó, theo thời gian, nhận diện từ tổng hòa những hiện trạng, thách thức từ trong Đảng và tới toàn xã hội hiện nay, có thể khái quát nổi bật mấy loại nguy cơ chủ yếu:
1- Nguy cơ chệch hướng trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị
Kỳ thực, gần 100 năm trước, V.I. Lê-nin đã dự cảm, luôn luôn cảnh báo điều đó đối với các đảng cộng sản và công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn căn dặn, nhắc nhở và Đảng ta luôn đề phòng sự xuất hiện và diễn biến của nguy cơ, thách thức này đối với mình. Vì, sự chệch hướng trong hoạch định đường lối và sự đổ vỡ về thực thi đường lối đồng nghĩa với sự cáo chung về vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng. Bài học xương máu của một số đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cách đây hơn hai mươi năm đã cảnh báo hết sức nghiêm khắc điều đó.
Sự lường trước một lần nữa về vấn đề này vào tháng 1-1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, có ý nghĩa cảnh báo cực kỳ nghiêm khắc. Đó là sự tiên liệu đúng đắn trong tiến trình tổng kết nghiêm khắc về thực tiễn cầm quyền, sự phát triển sáng tạo với tinh thần tự phê bình trong xây dựng, phát triển lý luận cầm quyền và sự dũng cảm chính trị về trọng trách cầm quyền ngày càng phức tạp, khó khăn mà Đảng được lịch sử và nhân dân trao cho trọng trách lãnh đạo xã hội và đất nước.
Trước hết, tình trạng cơ hội chính trị, thực dụng chính trị về tư tưởng chính trị và hành động chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ở các cấp, nhất là một số người tham gia trên phương diện hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, đang tồn tại rất tinh vi, trên không ít lĩnh vực... Tệ “địa phương hóa”, “cục bộ hóa”, “cát cứ hóa” đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước bằng kiểu lợi dụng cái gọi là “sự đặc thù” để ban hành cái gọi là “chính sách riêng”, “chính sách đặc thù” nhằm mưu đồ phục vụ “lợi ích nhóm” và tụ lại thành những “nhóm lợi ích”... đi ngược lại đường lối chung; thậm chí để lọt lộ thông tin, bán thông tin, làm lộ bí mật quốc gia... đã diễn ra ở một số phương diện, tạo nên tình trạng vừa vô tổ chức, vô kỷ luật, vừa cát cứ, khép kín, cục bộ... trong sự thống nhất của Đảng.
Thứ hai, tình trạng bảo thủ, trì trệ, tụt hậu, đổi mới vô nguyên tắc về lý luận chính trị trong hoạch định đường lối chính trị đã và đang tồn tại trong không ít người, ở không ít nơi. Sự “đóng cửa”, “khép kín” trong tư duy, ngại đổi mới hay nói chính xác hơn, không chịu thâm nhập vào thực tiễn, đã hạn chế họ. Mặt khác, một số tự cho mình là “đúng đắn”, rồi tự bằng lòng và tự ràng buộc mình vào những định đề có sẵn nhưng đã lạc hậu, quẩn quanh trong những nhận thức đã trở thành cố hữu, lỗi thời, đã bị cuộc sống vượt qua và vô hình biến thành trở lực đối với công cuộc đổi mới. Đồng thời, một bộ phận nhân danh đổi mới, xa rời các nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, “tự chuyển hóa” đòi xét lại đường lối chính trị của Đảng.
Thứ ba, tình trạng cố tình làm biến dạng đường lối chính trị, dưới mọi hình thức trong việc thực hiện; tệ hại hơn, họ nhân danh đổi mới, sáng tạo một cách vô nguyên tắc, cố tình làm sai lạc việc hoạch định và thực hiện đường lối chính trị cũng đang xuất hiện ở đây đó, thậm chí không ít nơi. Họ coi nhẹ những vấn đề có tính nguyên tắc, bất chấp nguyên tắc, kỷ luật, luồn lách tìm và lợi dụng những sơ hở của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thậm chí có người, có tổ chức cố tình làm trái ở quy mô tập thể những quy định chung đó để mưu lợi cho họ, cho phe nhóm của họ, phá rối tình hình...
2- Nguy cơ buông lỏng, làm trái những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
Sức mạnh vô địch của Đảng là sự thống nhất của ý chí và hành động theo những nguyên tắc, những quy định và cao nhất là Điều lệ của Đảng đã được toàn thể cán bộ, đảng viên nhận thức và thực thi tuân thủ một cách tự giác, dân chủ và nghiêm minh.
Thế nhưng, ở không ít nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ bị không ít người, tổ chức đảng lợi dụng, cắt xén hoặc trương lên thành tấm bình phong để che đậy mưu đồ cá nhân và hành động phá rối tổ chức hoặc vô hiệu hóa tổ chức, thành “con dao hai lưỡi” để mưu đoạt lấy lợi ích cho bản thân, phường hội, thậm chí nhằm “chui sâu, leo cao” vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Nguy hại hơn, mượn hoặc nhân danh nguyên tắc này để đối phó với cấp trên, cô lập và vô hiệu hóa cấp dưới, biến tổ chức đảng nơi họ phụ trách thành “bầu trời riêng”, với “tôn ty riêng”... để thực thi mưu đồ cá nhân, phe nhóm, phường hội....
Mặt khác, không ít người biến việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình thành cái gọi là “vũ khí” rất màu nhiệm để tâng bốc, tán dương nhau nhưng lại nhân danh “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương”(V. I. Lê-nin) thực thi mưu đồ loại bỏ những người không cùng cánh với họ, để gây rối nội bộ Đảng nhằm “vinh thân phì gia”, “đục nước béo cò”... Kỷ luật của Đảng, Điều lệ của Đảng là pháp luật của Đảng bị không ít người ở một số tổ chức đảng biến thành “thanh kiếm phường chèo” với phe cánh họ, nhưng lại là “lưỡi gươm oan nghiệt” đối với đồng chí, nhất là những người trung thực, dũng cảm đấu tranh với các tệ nạn trong Đảng, mà họ là thủ phạm. Núp dưới chiêu bài “giữ nghiêm kỷ luật”, họ “thanh lọc đội ngũ” một cách có lợi cho họ. Thực chất, họ đã vô hiệu hóa sức mạnh của kỷ luật đảng, của Điều lệ Đảng, biến tổ chức đảng thành “vương quốc” riêng nhằm thực thi những mưu đồ cá nhân, vô hình tạo nên nạn bè phái, cát cứ ngay trong tổ chức đảng, trong cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, với sự hành xử như vậy, hai nguyên tắc đó của Đảng đã bị bóp méo, cắt xén; và cách họ đã tự biến mình thành những người tha hóa, làm công cụ phá hỏng đoàn thể và phá hoại tổ chức; biến những tổ chức đảng nơi họ phụ trách và sinh hoạt thành hoặc là tổ chức “hữu danh vô thực” hoặc bị tê liệt, mất sức chiến đấu.
3- Nguy cơ một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó đáng lo ngại là người đứng đầu suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, sa sút về phẩm hạnh và lối sống
Đây là một thực trạng báo động, đang gây những hậu quả khôn lường. Nhưng điều đáng lo ngại là, tình trạng đó đang lan rộng, tỏa sâu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng và leo cao, chui vào cả trong một số bộ phận của bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng. Tệ cơ hội chính trị, thực dụng chính trị, thói vô chính trị, sự băng hoại về phẩm hạnh đạo đức chính trị, về phong cách, lối sống... của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, đang gây nhức nhối đối với toàn Đảng, gây bất bình, oán thán trong nhân dân.
Điều đáng lo ngại là, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để làm những việc đồi bại, táng tận lương tâm: tham nhũng, ăn cắp của công, bòn rút của cải của Nhà nước, của nhân dân, mua quan bán chức, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội... Tình trạng “phai Đảng”, “nhạt Đảng”,... đang lan nhiễm trong không ít cán bộ, đảng viên. Họ đối xử với nhau “lạnh tanh máu cá”, thậm chí chà xéo cả lên tình người, tình đồng chí để giành đoạt cho mình quyền lực, lợi lộc cá nhân và cho phường hội. Một số người không còn cả liêm sỉ, mà nói như người xưa: Không có liêm sỉ thì không thành người được nữa!
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bè phái, tệ tham nhũng - những “giặc nội xâm” - đang làm một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít người giữ trọng trách “thoái Đảng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm không ít tổ chức đảng mất sự thống nhất, mất khả năng lãnh đạo và mất sức chiến đấu. Nếu chậm trễ, không kiên quyết chủ động ngăn chặn một cách kịp thời, căn cơ và hiệu quả, cái hiểm họa “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ” sẽ cận kề và lan rộng, như đã từng xảy ra đối với một số đảng cộng sản cầm quyền.
4- Nguy cơ xa rời cơ sở xã hội - chính trị của Đảng
Nguồn gốc làm nên sức mạnh vô địch của Đảng là sống và trưởng thành trong lòng nhân dân và dân tộc. Đó là bản chất của Đảng ta. Hơn nữa, Đảng là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”, “một lòng một dạ tận tụy phụng sự nhân dân”, vì “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”, “không thiên tư thiên vị” nên sinh thành, sống trong lòng và trưởng thành từ trong lòng nhân dân là lẽ tự nhiên, sự sống còn của Đảng suốt hơn 85 năm lịch sử của mình.
Nhưng hiện nay, không ít tổ chức đảng, đảng viên đi ngược lẽ tự nhiên ấy. Họ sống và làm việc theo kiểu “bề trên” quan liêu, cách bức với cơ sở, xa lạ với nhân dân. Họ là những “ông quan cách mạng”, “ông tướng, bà tướng”, “công thần cách mạng”, “hạng người nói suông”,... trong Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán. Một số người hành xử vô văn hóa, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của nhân dân, gây bao nỗi ưu phiền, bức xúc, thậm chí phẫn nộ trong nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng. Một số tổ chức đảng, dưới sự chi phối hoặc cầm đầu của một số người hoặc bị vô hiệu hóa hoặc đã đánh mất vai trò lãnh đạo của mình, không còn xứng đáng với sự tin cậy của tập thể, của nhân dân. Sự tự đánh mất vị thế, vai trò cầm quyền và tự sụp đổ của một số đảng cộng sản cầm quyền ở một số nước có nguyên nhân bắt đầu từ sự vi phạm lẽ tự nhiên xương máu này.
Ai không còn chỗ đứng trên nền nhân dân, không sống trong lòng nhân dân và dân tộc, không có trách nhiệm với nhân dân là không còn xứng đáng là “đứa con nòi của nhân dân lao động”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy, khi ấy nhất định thất bại và đổ vỡ.
5- Nguy cơ vừa cát cứ, cục bộ, vừa phân ly, phá vỡ thống nhất, mà một số người đứng đầu là sự “kết tụ” dưới đủ hình thức và cấp độ, có thể làm xuất hiện “lợi ích nhóm” và những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng
Đó là con đường ngắn nhất tự thủ tiêu mình và làm tê liệt sức mạnh tập trung của toàn Đảng. Rất tiếc, không ít người, không ít tổ chức ở không ít nơi mắc phải điều tệ hại và hết sức nguy hiểm đó. Đây là hậu quả trực tiếp của các thách thức trên. Tệ “anh hùng nhất khoảnh”, “trên có chính sách, dưới có đối sách”, thói tự cho mìnhđồng nhất tổ chức đảng với người đứng đầu bộ máy đảng... không còn là sự hiếm hoi. Một số người sử dụng chức vụ mà Đảng trao cho họ thành vật sở hữu (!) để ban ơn, để kéo bè kéo cánh, tham nhũng tập thể, kể cả thủ đoạn tham nhũng quyền lực... Vô hình điều đó thổi phồng và làm trầm trọng hơn tệ cục bộ, bè phái, gia trưởng phong kiến, “quan cách mạng”... trong không ít tổ chức đảng, biến tổ chức đảng thành “của riêng”, thậm chí thành “đảng kiểu phong kiến”, thủ tiêu sự thống nhất trong Đảng; làm xuất hiện những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức một cách ngấm ngầm và nguy hiểm.
Điều hết sức đáng lo ngại là, sự phân ly về tư tưởng, lỏng lẻo, rệu rã về tổ chức, coi thường các nguyên tắc hoạt động của Đảng diễn ra trong một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên và ngay trong lòng một số tổ chức đảng, ở một số nơi tới mức không thể xem thường. Thứ “đạo đức ba mặt” (trước cấp trên, với công luận, trước cấp dưới), thói hành xử “lá mặt lá trái” (trong cuộc họp đối lập với ngoài hành lang), tệ “bằng mặt nhưng không bằng lòng”; cấp dưới không phục tùng cấp trên: sự chia rẽ, thậm chí “đối trọng” giữa các khuynh hướng về tư tưởng và lợi ích làm nảy sinh các “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm” hết sức nguy hiểm... đang tồn tại trong không ít cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên giữ trọng trách của cấp ủy; bộ phận không phục tùng toàn thể, thậm chí đi ngược lại tập thể,... đang diễn ra ở một số tổ chức đảng, đang phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, xâm hại tình đồng chí, thủ tiêu vai trò, sức mạnh chiến đấu của tổ chức đảng; đến lượt nó, tổ chức đảng bị vô hiệu hóa, bị tước bỏ, bị thủ tiêu sức mạnh của một tổ chức lãnh đạo và chiến đấu.
Quan điểm cơ bản, ba khâu đột phá và năm giải pháp chủ yếu và cấp bách phòng, chống, đẩy lùi các nguy cơ trong Đảng
Có thể nói, hiện nay với vị thế là một đảng cầm quyền, tình hình trong Đảng đã khác trước, nên không thể giải quyết vấn đề giống trước, từ quan điểm, nhận thức tới chủ trương và giải pháp đối với việc phòng ngừa, đẩy lùi những nguy cơ trong Đảng. Dù cách đây 46 năm, nhưng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người vẫn nguyên giá trị lúc này: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG... Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(4).
Nói cách khác, hơn lúc nào hết, cần một sự đột phá đủ mạnh để giải quyết tình hình đại cục, nhưng phải phù hợp, cụ thể và hiệu quả, không chung chung, nói nhiều làm ít, hay “bắt cóc bỏ đĩa”, “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”...
1- Về quan điểm và phương châm 
a- Về quan điểm
Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan tới sinh mệnh, sự tồn vong của Đảng, sự mất còn của chế độ, sự thăng trầm của đất nước, sự an nguy của dân tộc, nên không thể trì hoãn giải quyết. Ở đây, từ nhận thức về đảng cầm quyền tới biện pháp xử lý các nguy cơ của một đảng cầm quyền càng không thể giống trước, trước yêu cầu đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới. Vì, tình trạng bất bình thường đòi hỏi phải được giải quyết một cách bất bình thường và chữa trị cho bằng được, nếu Đảng muốn tiếp tục cầm quyền ngang tầm trách nhiệm với dân tộc, với lịch sử.
b- Về phương châm
Chúng ta không tưởng tượng hoặc tự dựng nên nguy cơ. Đó là sự thật, ở mức độ này hay hình thức kia, và chúng nguy hiểm không thể coi thường.
Vì vậy, phương châm bao trùm là, không hoang mang, dao động nhưng cũng không nóng vội, nửa vời; kiên quyết, dứt điểm và có lộ trình phù hợp, cụ thể; thống nhất, đồng bộ, đồng thời chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể; phát huy dân chủ rộng rãi và bảo đảm tập trung cao độ, giữ nghiêm kỷ luật đủ mạnh ở mức cao nhất... quyết làm chuyển biến tình hình toàn cục.
2 - Về ba khâu đột phá
Thứ nhất, đột phá đổi mới tư duy về Đảng Cộng sản cầm quyền làm mở đầu và làm nền tảng căn cơ nhưng cấp bách.
Hơn lúc nào hết, phải coi đổi mới tư duy về đảng cầm quyền là khâu đột phá về lý luận làm cơ sở, nền tảng, tiêu chí và động lực cho các khâu đột phá khác. Không giải quyết những vấn đề chung, nhất định vấp ngã trên những vấn đề cụ thể. Nói cách khác, toàn bộ công việc cầm quyền trước hết của Đảng phải được tập trung thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn, với tinh thần cách mạng và khoa học.
Thứ hai, xây dựng và đổi mới đội ngũ cốt cán, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị, cơ quan, tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Đột phá xây dựng cho kỳ được đội ngũ người đứng đầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, đồng thời là đội ngũ thủ lĩnh ở các nơi này gánh vác trách nhiệm cầm quyền của Đảng là khâu đột phá then chốt. Cán bộ là gốc của công việc. Vì, đường lối chính trị phải được thực hiện trực tiếp và trước hết bởi đội ngũ người đứng đầu - thủ trưởng đồng thời là thủ lĩnh một cách xứng đáng và ngang tầm, với tư duy mới về đảng cầm quyền. Đến lượt khâu đột phá xây dựng đội ngũ người đứng đầu, phải nhằm tạo dựng kỳ được đội ngũ cốt cán chung quanh người đứng đầu - thủ trưởng - thủ lĩnh, và tổ chức bộ máy chuyên môn, chức năng... cốt yếu tạo nên sức mạnh tổng thể của đội ngũ lãnh đạo nói riêng và cán bộ của hệ thống chính trị nói chung phù hợp với đường lối chính trị.
Khi đã có đường lối chính trị đúng, việc cơ bản tiếp theo là chọn đúng người “có gan phụ trách”, vì “chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo”(5) (và những người cộng sự và bộ máy chuyên môn, chức năng của họ), như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói.
Thứ ba, đột phá đổi mới về thể chế, cơ chế vận hành thể chế và siết chặt kiểm tra, giám sát trong Đảng phù hợp với pháp luật giữ vị thế thượng tôn và truyền thống quản lý xã hội.
Về thể chế, trong rất nhiều việc, cần hoàn thiện hệ thống quy chế, lấy đó làm quy phạm chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động của bộ máy đảng (cố nhiên bao hàm cả mỗi đảng viên giữ chức vụ hay không giữ chức vụ trong Đảng) trên cơ sở Điều lệ Đảng, phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, bao quát trên tất cả mọi phương diện, mọi lĩnh vực và công việc của một đảng cầm quyền. Tổ chức bộ máy đảng các cấp gọn nhẹ, thông suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong kiểm tra, giám sát công việc và con người, gắn bó với nhân dân... một cách tự nhiên và dân chủ.
Đổi mới cơ chế vận hành thể chế theo hướng đề cao quyền hạn cá nhân, bảo vệ trách nhiệm cá nhân và kiểm soát quyền hạn gắn với trách nhiệm cá nhân; mở rộng, cạnh tranh một cách dân chủ và bình đẳng gắn chặt với trách nhiệm giải trình minh bạch và kịp thời về quyền hạn và trách nhiệm. Xây dựng và thực thi văn hóa trong chính trị một cách chuẩn mực của một đảng cầm quyền.
Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng. Không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt ra ngoài sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Siết chặt nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ.
3- Thực thi năm giải pháp chủ yếu và cấp bách
Kinh nghiệm từ 85 năm lãnh đạo cách mạng, trong đó có 70 năm cầm quyền của Đảng, cho thấy, có lý luận cầm quyền đúng - cương lĩnh cầm quyền khoa học, phù hợp, được đông đảo nhân dân ủng hộ và thực hiện - có bộ máy cầm quyền hiệu quả và đội ngũ cán bộ cầm quyền giỏi, không việc gì không thành công. Theo hướng đó, để đột phá phòng ngừa các nguy cơ trong Đảng hiện nay, cấp bách thực thi tối thiểu năm giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới tư duy về Đảng cầm quyền, trọng tâm là những vấn đề mang tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện mới là vấn đề căn bản trước hết.
Mục tiêu của công việc này là xây dựng, nâng cao chất lượng, nhất là trình độ hoạch định xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng để đường lối chính trị xứng đáng là một cương lĩnh chính trị - cương lĩnh chỉ đạo hành động xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với bối cảnh mới và điều kiện mới. Đây là vấn đề quyết định hết thảy toàn bộ thành bại công cuộc cầm quyền của Đảng, nhân tố căn bản quyết định vị thế, năng lực và trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Chung quanh vấn đề này, tối thiểu có 11 loại vấn đề mang tính quy luật cần giải quyết vừa cấp bách, vừa lâu dài một cách đồng bộ và cụ thể về Đảng cầm quyền, bao gồm:
1- Quy luật cầm quyền; 2- Mục tiêu cầm quyền; 3- Nguyên tắc cầm quyền; 4- Nội dung cầm quyền; 5- Phương thức cầm quyền; 6- Cơ chế cầm quyền; 7- Cơ sở cầm quyền; 8- Điều kiện cầm quyền; 9- Nguồn lực cầm quyền; 10- Môi trường cầm quyền; và 11- Nguy cơ đối với sự cầm quyền. Đây là nguồn gốc chính trị - tư tưởng thực tiễn quyết định vị thế, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện nay.
Xuyên suốt và là linh hồn các vấn đề mang tính quy luật trên, xây dựng kỳ được và thực thi thống nhất và sâu sắc văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại nói chung và văn hóa cầm quyền của Đảng nói riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Sứ mệnh của văn hóa cầm quyền của Đảng là tẩy trừ cho kỳ được ba thứ kẻ thù: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cơ hội, dưới mọi hình thức, mà cấp bách nhất là ba loại tệ nạn: nạn hối lộ, lợi ích nhóm và xa rời nhân dân đang có nguy cơ làm phân rã Đảng hiện nay; đề cao đạo đức, liêm sỉ đảng viên của Đảng. Mỗi đảng viên phải là một nhân cách văn hóa, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, của hệ thống chính trị phải là một tấm gương văn hóa.
Rường cột tổ chức và trọng trách thực thi công việc này trước hết thuộc về đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp, các nhà khoa học trên các phương diện, lĩnh vực mang tầm chiến lược, phải được xây dựng với cơ cấu hợp lý, thực sự là tinh hoa của Đảng, của dân tộc.
Hai là, tiếp tục chỉnh đốn hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ; sửa đổi, hoàn thiện cơ chế vận hành bộ máy và phương thức lãnh đạo của Đảng một cách hữu hiệu.
Tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng hệ thống tổ chức bộ máy đảng và cơ chế vận hành bộ máy đảng vẫn tồn tại không ít vướng mắc, thậm chí là trở ngại trong việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp. Tình trạng chồng chéo, cồng kềnh, cách bức, thậm chí cắt khúc khép kín, gây ách tắc, làm tổn hại mối liên hệ hữu cơ giữa các tổ chức đảng với nhau, với chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội và với nhân dân diễn ra ở không ít nơi; bộ máy nặng nề, tình trạng “đông mà không mạnh”, “chín người mười ý”... diễn ra trên không ít lĩnh vực của đời sống trong Đảng và xã hội.
Để làm “tan những cục nghẽn mạch đau đớn” ấy, về phương châm, phải bảo đảm sự liên thông mang tính chỉnh thể, trước hết của bộ máy tổ chức và cán bộ của Đảng, của hệ thống chính trị, mà mối quan hệ cơ bản nhất là giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân:
Trước hết, thu hút vào bộ máy đảng những nhân tố ưu tú nhất, tinh hoa nhất và đãi ngộ, bảo vệ họ một cách xứng đáng. Tiếp tục rà soát, kiên quyết cắt bỏ những những khâu trung gian; sáp nhập những bộ phận trùng chéo trong bộ máy, giữa bộ máy đảng và bộ máy đảng và bộ máy nhà nước theo hướng Đảng hóa thân một cách khoa học, phù hợp và thận trọng.
Thứ hai, trong việc cấu trúc lại bộ máy của Đảng, kiên quyết cắt bỏ những bộ phận ít tác dụng hoặc cùng làm chức năng, nhiệm vụ với bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy, Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn một cách phù hợp với tình hình mới; nhất thể hóa một số chức danh đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước theo hướng trao quyền đồng thời kiểm soát quyền, theo trách nhiệm đối với người đứng đầu và tập thể cốt cán chung quanh người đứng đầu kết hợp với phân quyền hợp lý và minh bạch hóa quyền, trách nhiệm đối với các bộ máy thực thi và tham mưu... bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, dân chủ và thông suốt đối với hệ thống chính trị, trước hết là giữa các tổ chức trong hệ thống của Đảng.
Thứ ba, kiên quyết chỉnh đốn và đổi mới đội ngũ cán bộ, rường cột là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (thông qua thi tuyển, tranh tuyển, tiến tuyển, ứng tuyển, bổ tuyển, bầu tuyển, cử tuyển và người đứng đầu chọn tuyển... một cách minh bạch, trách nhiệm và dân chủ) sao cho thật đồng bộ, tinh hoa, gọn nhẹ và trong sạch; hết sức coi trọng đội ngũ chuyên gia, nhất là ở những lĩnh vực then chốt. Điều nhấn mạnh là, trong việc kiến tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, luôn thấu triệt phương châm sử dụng nhân tài: “tài không đợi tuổi”, “tài không kể tuổi” và “tài không nệ tuổi”, dỡ bỏ mọi khuôn sáo cơ học cứng nhắc về vấn đề này; đồng thời, ngăn chặn thứ tệ nạn “công tác cán bộ trong hội trường là chiến trường, ngoài hội trường là thị trường”, như dư luận cảnh báo, nhằm kiện toàn kỳ được đội ngũ gồm đa thế hệ, thực sự tinh nhuệ, đồng bộ, hiệu quả và mang tầm chiến lược. Định kỳ và không định kỳ thực thi khảo thí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm sàng lọc, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ... theo công việc, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Việc thành bại của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc quyết định một phần căn bản vào phương lược xử lý vấn đề này.
Trong việc đổi mới cơ chế vận hành bộ máy đảng, cần thiết tiếp tục pháp chế hóa hoạt động, đổi mới phương thức và phong cách cầm quyền thật sự dân chủ từ Trung ương tới cơ sở, từ cấp ủy cao nhất tới từng chi ủy một cách thống nhất, phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm không ngừng liên thông từ trong Đảng tới ngoài xã hội, gắn bó chặt chẽ với nhân dân theo mục tiêu Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ và làm chủ thật sự, vì hạnh phúc tối cao của nhân dân. Dành mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức đảng ở cơ sở theo phương châm: Tất cả hướng về cơ sở, vì cơ sở, cho cơ sở và phụng sự nhân dân là thước đo về phẩm chất chính trị, phẩm hạnh đạo đức và sự cống hiến của mọi cán bộ, đảng viên; lấy đó làm bổn phận, đề cao danh dự và lương tâm của mỗi người trong bộ máy chỉnh thể của Đảng nói riêng, của hệ thống chính trị nói chung nhằm phát triển vững chắc cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền của Đảng.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra của tổ chức, sự giám sát của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, ở bất cứ đâu, trên bất cứ phương diện hoạt động, trên lĩnh vực công tác và địa bàn sinh sống nào... Phát huy dân chủ một cách đúng hướng và thật sự rộng rãi là điều tối cần thiết, nếu không nói là nhân tố quyết định thành công.
Thiết lập định chế xử lý kịp thời cho tất cả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của bộ máy đảng, của nhân dân đối với mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Cùng với việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức, các cấp ủy, các tổ chức đảng hết sức chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, sự phát hiện của công luận về cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên thuộc quyền quản lý của mình một cách toàn diện, theo hướng chặt chẽ, minh bạch. Dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Đổi mới chế độ sinh hoạt đảng, cơ chế kiểm tra, giám sát đảng viên, nhất là cơ chế bảo đảm và mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình, trong kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảng viên ngay từ chi bộ, từ cơ sở, nhằm trước hết “tống cổ” “những ông quan cách mạng”, những “ông tướng, bà tướng”... trong Đảng ra khỏi Đảng, như V. I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. Gắn chặt sinh hoạt của tổ chức đảng với sinh hoạt các đoàn thể, sống trong lòng nhân dân ở cơ sở nhằm không để lọt sự giám sát đảng viên - với tư cách là công dân - của nhân dân ngay tại nơi cư trú. Vì, tai mắt nhân dân là tinh tường và thấu suốt nhất. Như thế mới giữ được ổn định từ trong nội bộ Đảng, xây dựng môi trường chính trị - pháp lý - xã hội lành mạnh bảo đảm vững chắc cho mọi sự phát triển một cách dân chủ, tập trung và vững chắc của Đảng, ngay từ cơ sở xã hội - chính trị. Vì, mất niềm tin từ trong Đảng chỉ là mất từ nội bộ, mất từ điều chủ yếu đã nguy hiểm nhưng nhân dân ngoảnh mặt và mất niềm tin trong nhân dân là mất cả nền tảng xã hội - chính trị và có nguy cơ mất hết.
Bốn là, dân chủ hóa việc thực hiện kỷ cương, siết chặt kỷ luật của Đảng, đồng thời thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước.
Không có ngoại lệ cho bất cứ ai trong việc chấp hành và thực thi kỷ luật của Đảng, cơ bản trước hết là Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Càng không thể chấp nhận tệ “khoanh vùng kỷ luật, pháp luật”, tình trạng “nhẹ đối với trên, nặng dành cho dưới” ở bất cứ cấp nào. Điều lệ Đảng, kỷ luật của Đảng chỉ có một. Theo đó, sự thực thi một cách dân chủ nhưng phải thống nhất, tập trung và kiên quyết, không có ngoại lệ hay sự miễn trừ nào, đối với bất tổ chức nào và bất cứ ai.
Đó là nguyên tắc.
Định chế, siết chặt và nâng cao chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu bộ máy ở các cấp ủy gắn chặt với chế độ tập thể chịu trách nhiệm, trong việc thực thi đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Đảng và bảo vệ kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đồng thời, khen thưởng một cách kịp thời và thỏa đáng cho những tổ chức, cá nhân làm tốt công việc này; và ngược lại, kỷ luật thật nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, dù là ai, là tổ chức nào. Kỷ luật nghiêm khắc và kịp thời những ai gây mất đoàn kết nội bộ, kéo bè kéo cánh trong Đảng. Cấp ủy viên càng cao, cán bộ giữ trọng trách càng lớn càng phải gương mẫu, nghiêm cẩn, càng phải đề cao và giữ gìn liêm sỉ, nhân cách văn hóa... trước cấp dưới, trước toàn Đảng và toàn dân.
Chỉnh đốn đội ngũ những người làm công tác kiểm tra, thanh tra các cấp theo hướng tinh hoa, trong sạch, trung thành, nghiêm cách và thạo việc. Đối đãi xứng đáng với họ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Sử dụng và trọng đãi sao cho xứng đáng!
Bài học lịch sử xương máu cho thấy: Thưởng phạt không kịp thời và phân minh, tất sẽ rối loạn!
Năm là, tổng rà soát, phân loại, nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức đảng, trước hết là tổ chức cơ sở đảng và toàn thể đội ngũ đảng viên là giải pháp căn cơ quyết định nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Chọn thời điểm thích hợp, tiến hành cuộc tổng kiểm kê, rà soát, phân loại một cách hệ thống, toàn diện, đúng thực chất đội ngũ đảng viên và tổng thể hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở tất cả các cấp trong toàn Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có gần 4 triệu đảng viên sinh hoạt ở hơn 53.300 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 11.118 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường... Tình trạng không ít tổ chức cơ sở đảng “trong mà không sạch”, vững mạnh chỉ là hình thức, “đảng viên tuy đông mà không mạnh”... đang báo động. Không nắm đúng tình hình sẽ không có giải pháp xử lý phù hợp và hiệu quả. Trước đây, chúng ta đã rất cố gắng làm, nhưng chưa triệt để, thậm chí không ít cấp, không ít nơi “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”, “đầu voi đuôi chuột”... nên sự đánh giá, phân loại không chính xác, thậm chí có mặt, có nơi còn làm cho tình hình phức tạp thêm. Phải cần kíp khắc phục tình trạng đó.
Phải thật sự coi trọng phương châm phù hợp và hiệu quả, trên cơ sở phân loại đúng tổ chức đảng và đảng viên, tiếp tục tìm tòi các giải pháp kiện toàn phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện tiêu chuẩn và phân loại, sàng lọc đội ngũ đảng viên gắn chặt với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi đảng viên và toàn Đảng, nhằm làm trong sạch mỗi tổ chức đảng và toàn Đảng. Bổ sung lực lượng mới, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết và tập trung là đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp là quy luật phát triển của Đảng.Bình quân mỗi nhiệm kỳ Đại hội (từ VIII tới X), đội ngũ đảng viên được bổ sung hơn 20 vạn người, nâng tổng số đảng viên của Đảng hiện nay lên gần 4 triệu người. Đó là điều ghi nhận. Nhưng sắp tới, quyết không câu nệ và chạy theo số lượng trong phát triển Đảng. Cùng với việc tiếp tục kết nạp những người đủ tiêu chuẩn vào Đảng theo hướng trẻ hóa, trí thức hóa, kiên quyết tiếp tục cuộc tự chỉnh đốn từ mỗi đảng viên nhằm làm trong sạch Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Đồng thời, đặc biệt chú trọng lựa chọn phương án tốt nhất nhằm cơ cấu lại mô hình các tổ chức đảng phù hợp với tổ chức hành chính, mô hình các tập đoàn, nhất là các tập đoàn, doanh nghiệp chủ chốt... gắn chặt với việc phát triển Đảng. Tuyển lựa, xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao làm công tác hoạch định chính sách ở tầm chiến lược tại các cơ quan tham mưu, nhất là các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của quốc gia. Qua sàng lọc, việc cơ cấu lại phải bảo đảm sự cân đối đội ngũ đảng viên đủ mạnh ở các vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, ở vùng biên giới và hải đảo, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - xã hội; vùng trọng điểm về an ninh - quốc phòng, các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... trên cơ sở xây dựng, củng cố, kiện toàn mô hình các tổ chức đảng một cách đồng bộ và phù hợp.
Phải làm một cách kiên quyết, toàn diện và cơ bản vấn đề có tính nền tảng này.
Cải cách chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, theo hướng kiên quyết phải bỏ hẳn lối học theo từ chương, hết sức coi trọng học theo từ hành, quan trọng nhất là rèn luyện kỹ năng xây dựng tầm nhìn chính trị xa rộng và khả năng hoạch định quyết sách chính trị kịp thời, sáng tạo, đúng đắn; thành thục kỹ năng xử lý công việc cầm quyền; tư cách một người làm chính trị,... phù hợp với từng loại cán bộ, trên từng phương diện cầm quyền của Đảng. Trang bị kiến thức toàn diện, phù hợp, thiết thực và cụ thể cho đội ngũ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, không chung chung, chồng chéo, cào bằng và không thiết thực, chấm dứt tình trạng “tiền bổ hậu học”, “học bù”, “học... chạy”, thậm chí cả sự “học... mượn”; chỉ dạy những gì mà công việc của họ cần phải có trong công việc cầm quyền./.

TS Nhị Lê, Phó TBT Tạp chí Cộng Sản
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 65 - 66
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172 - 173
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22
4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 621 - 622
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 325
VÌ SAO ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ THỂ LỘNG HÀNH TRONG ĐẢNG VỀ NHÂN SỰ ?
Bài của NGUYỄN ĐÔNG SƯƠNG/ BVB 5/1/2016
Tại HNTW 8, ông Nguyễn Phú Trọng đã ban hành được Nghị quyết:
 Người không được Bộ Chính trị giới thiệu ứng cử thì khi ra Hội nghị TW
hoặc Đại hội có ý kiến đề cử thì người đó phải rút (!?)
Ban Biên tập ĐH12.com tiếp tục nhận được ý kiến của ông Nguyễn Đông Sương, cán bộ nghỉ hưu về tình hình nhân sự cấp cao của Đảng trước thềm Đại hội XII. Những lời tâm huyết của ông Sương đọc qua dù đau đớn nhưng đó lại là sự thật đang diễn ra ngay trong nội bộ Đảng ta. Chúng tôi thống thiết đề nghị các vị trong Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương phải có tiếng nói để giải quyết vấn đề dân chủ trong Đảng, từ đó thống nhất ý kiến, đoàn kết đưa đất nước đi lên.
Đọc bài “Ông Nguyễn Phú Trọng đang lựa chọn nhân sự chức danh chủ chốt như thế nào?” của ông Nguyễn Quốc Huy tôi thấy đánh giá của ông Huy không thể thêm được gì nữa bởi vì ai cũng nhận thấy ông Trọng đang cướp đi quyền dân chủ của Bộ Chính trị và ban chấp hành TW rất nghiêm trọng. Có một điều mà ông Huy không biết (không biết cũng phải thôi vì chúng ta không còn sinh hoạt trong TW nữa), gần đây tôi gặp nhiều đồng chí trong Ban chấp hành TW, họ cho biết từ Hội nghị TW 8 ông Nguyễn Phú Trọng đã thành công thuyết phục được các ông trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành TW chấp nhận ra một Nghị quyết rất mất dân chủ mà thực chất là cướp quyền của Ban chấp hành TW về vấn đề ứng cử và đề cử. Nghị quyết này tôi không biết rõ số mấy, chỉ nhớ nội dung quy định là những người không được Bộ Chính trị giới thiệu ứng cử thì khi ra Hội nghị TW hoặc Đại hội có ý kiến đề cử thì người đó phải rút. Nghe đâu nghị quyết này ban hành sau khi không kỷ luật được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và quyết định này chỉ dành được hơn 50% tán thành trong Ban chấp hành TW có nghĩa là gần ½ ban chấp hành TW không ủng hộ.
Bài viết của ông Lương Thanh Sở và ông Nguyễn Quốc Huy đã phân tích rõ ý đồ của ông Trọng và nhóm cơ hội chiếm quyền lãnh đạo của Đảng tại Đại hội XII là quá rõ, song một câu hỏi chưa ai đặt ra là nhiều người trong Bộ Chính trị và TW biết ông Nguyễn Phú Trọng có ý đồ như thế nhưng không ai phản đối. TW thì rõ hơn về chính kiến bằng chứng là có gần 50% Ủy viên TW không tán thành với nghị quyết ông Trọng đưa ra về nhân sự và có 2 lần TW không chấp nhận ý kiến của Bộ Chính trị như tán thành kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và không chấp nhận bầu ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ chính trị giữa nhiệm kỳ. Nhìn vào thành viên Bộ chính trị khóa XI có nhiều người từng vào sinh ra tử, dám đấu tranh, được coi là có bản lĩnh. Có người còn hơn ông Nguyễn Phú Trọng về nhiều mặt, thậm chí vào Bộ Chính trị trước ông Trọng nhưng những gì diễn ra vừa qua cho thấy họ đã mất những đức tính tốt ấy, dư luận Đảng viên đang có nhiều ý kiến rất thất vọng về họ.Sau Hội nghị TW 8, một số ủy viên TW mới bừng tỉnh thấy rằng do không suy xét kỹ nên đã tự đánh mất quyền của mình. Chưa dừng lại đó, ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục bàn bạc trong nhóm cơ hội nếu chỉ dựa vào Nghị quyết trên thì chưa đủ để loại Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì biết rằng ông Dũng qua các đợt thăm dò gần đây đều đạt tín nhiệm rất cao, ông Trọng phải đưa ra thêm một Nghị quyết nữa với nội dung là không chấp nhận phương án Đại hội bầu trực tiếp Tổng Bí thư mà thực hiện phương án: Ban chấp hành TW bầu Bộ Chính trị rồi lựa chọn những người trong Bộ chính trị để bầu Tổng Bí thư. Nghị quyết này là một sự tính toán của ông Trọng để phòng ngừa ông Nguyễn Tấn Dũng chiếm ưu thế và được giới thiệu làm Tổng bí thư. Có thể nói việc mất dân chủ trong Đảng còn có ở nhiều chỉ thị nữa. Nhưng 2 nghị quyết nói trên là cơ bản nhất. Dựa vào đó ông Nguyễn Phú Trọng thực hiện sự phong tỏa đối thủ.
Thứ nhất, nhiều thành viên trong Bộ Chính trị đã quá tuổi, nhưng còn nuối tiếc thời kỳ vang son bổng lộc, phần lớn đều xác định trong đơn: “tuy quá tuổi nhưng còn sức khỏe, trí tuệ còn minh mẫn, còn phục vụ được đất nước” nếu được tái cử. Căn cứ vào đây ta có thể thấy sự im lặng của họ là để đổi lấy sự ủng hộ của TBT Nguyễn Phú Trọng, theo đó, mặc nhiên họ đã bị khống chế và mọi vấn đề bề ngoài đều phải tỏ ra ủng hộ Nguyễn Phú Trọng và những phần tử cơ hội, không còn biết phải trái là gì nữa! Từ đó có thể nhận thấy trong Bộ Chính trị khóa XI là một tập thể yếu kém, không chỉ riêng vấn để chuẩn bị nhân sự hiện nay mà vấn đề bảo vệ chủ quyền Biển Đông là một kiểm nghiệm thực tế. Thử hỏi ông Nguyễn Phú Trọng và những người có vị trí quan trọng trong Đảng đã nói gì và không dám nói gì khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 ở vùng biển nước ta? Chẳng những họ không dám nói gì mà còn bàn nhau cử người đi làm lành với Trung Quốc. Gần đây ông Nguyễn Sinh Hùng đi gặp Tập Cận Bình cũng là theo chỉ đạo của ông Nguyễn Phú Trọng để nhằm báo cáo cho giới lãnh đạo Trung Quốc biết Bộ Chính trị Việt Nam chủ trương đại cục “tình hữu nghị” để giải quyết tình hình. Điều đó chẳng khác nào là chịu sự tuân phục Tập Cận Bình. Ngoài ra Sinh Hùng có thể còn tìm kiếm sự ủng hộ cho bản thân ông từ cuộc đi thăm này. Sự bạc nhược này kéo theo ảnh hưởng đến các công việc khác của Đảng đến nay có thể điểm huyệt đạo nguyên nhân dẫn đến thủ tiêu đấu tranh trong Bộ Chính trị là:
Thứ hai, trong cuộc sống anh nào cũng có tật phải che nhưng anh nào cũng khéo đậy. Muốn giữ được mình thì không dại gì tấn công người khác. Trong thời điểm đang bàn tới tái cử thì lại càng phải che dấu. Kết quả thực hiện NQTW4 như đánh giá của ông Nguyễn Phú Trọng có tác dụng rất lớn là răn đe và mặt khác lại càng sợ là từ các vụ án Nguyễn Phú Trọng đã biết tật của anh này anh khác, nên hậu quả là Nguyễn Phú Trọng muốn gì đều phải theo để được yên thân.
Thứ ba, số ít những người được xem là nổi trội hơn thì còn lo chống đỡ những đòn tất công vu cáo, suốt ngày phải giải trình, thanh minh chẳng còn đầu óc đâu nghĩ tới việc đấu tranh các việc làm sai trái của ông Trọng, thậm chí chấp nhận phương án rời bỏ chính trường, bỏ mặc các động thái của ông Trọng và nhóm cơ hội của ông ta.
Những diễn biến trong Bộ Chính trị trên đây có ảnh hưởng lớn đến các Ủy viên TW, họ đang lựa chọn phương án nào an toàn nhất cho bản thân. Một số ý lên tiếng phản biện thì các ban của Đảng và các đồng chí cấp cao cho là người của ông này ông kia. Việc họ chấp nhận thông qua một số Nghị quyết mất dân chủ do ông Nguyễn Phú Trọng áp đặt cũng là do tình trạng nêu trên.
Đến đây thì ta có thể hiểu được vì sao ông Nguyễn Phú Trọng và số cơ hội trong Đảng thao túng được tình hình nhân sự trong Đảng theo ý đồ của họ. Vậy làm thế nào để ngăn chặn được những việc làm mất dân chủ của ông Nguyễn Phú Trọng? Tôi hoàn toàn tán thành với những kiến nghị được nêu trong các bài viết góp ý với Đảng với Đại hội của các cá nhân và tổ chức về cần một thái độ đúng đắn của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TW nhưng như thế vẫn chưa đủ. Theo tôi, Ban Chấp hành TW cần thảo luận để kiên quyết kiến nghị việc cho phép giới thiệu thêm nhân sự cho các chức danh quan trọng tại các kỳ Hội nghị Trung ương và Đại hội, như thế mới đảm bảo sự dân chủ trong bầu cử, ứng cử đã được xác định trong điều lệ Đảng. 
Ủy ban Kiểm tra TW là cơ quan độc lập với Ban chấp hành TW và Bộ Chính trị thì phải cần thể hiện hết trách nhiệm của mình trong công tác kiểm tra, theo đó, phải tiến hành kiểm tra ngay quy trình làm nhân sự của ông Nguyễn Phú Trọng, đồng thời yêu cầu những nhân sự có quá nhiều vấn đề tiêu cực dư luận đã nêu ra phải kiểm điểm giải trình như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm và công bố cho Ban Chấp hành biết trước khi vào Đại hội.
Nguyễn Đông Sương (Cán bộ nghỉ hưu)/ĐH12.com

NỘI BỘ ĐẢNG: TỪ MŨI DÙI ĐẾN BẠO LỰC
Bài của ÂU DƯƠNG THỆ/ BVB 10/1/2016
Ngày 21.12.15 Hội nghị trung ương (HNTU) 13 bế mạc, nhưng vấn đề nhân sự ở cấp cao nhất “tứ trụ”, đặc biệt là ghế Tổng bí thư (TBT), vẫn hoàn toàn bế tắc và lại phải khất tới HNTU 14, mặc dù Đại hội (ĐH) 12 đã được quyết định khai mạc vào ngày 20.1.16. Ngay ngày hôm sau, 22.12.15 trên Tạp chí CS, cơ quan lí luận của Trung ương đảng, Phó Tổng biên tập TS Nhị Lê đã viết bài “Nhận diện và đột phá cấp bách các nguy cơ trong Đảng hiện nay”. Sau khi lập lại nội dung nhận định của Nguyễn Phú Trọng khi gặp cử tri Hà nội đầu tháng 12.15 “nguy cơ đối với cách mạng, trước nhất từ trong nội bộ Đảng”, Nhị Lê đã kết luận “tình trạng bất bình thường đòi hỏi phải được giải quyết một cách bất bình thường và chữa trị cho bằng được!”  Và “chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể”. Bài này sau đó cũng phổ biến trên tờ CA điện tử.[1].
Ngay hai ngày đầu năm 1. và 2.1.16 người cầm đầu chế độ Nguyễn Phú Trọng đã thân hành thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà nội và Bộ tư lệnh lực lượng cảnh sát cơ động. Tại Bộ Tư lênh Thủ đô đứng cạnh Nguyễn Phú Trọng là hai đại tướng Phùng Quang Thanh đương kim Bộ trưởng Quốc phòng và Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị và được coi là người kế nhiệm ông Thanh. Tại Bộ tư lệnh lực lượng cảnh sát cơ động Bộ trưởng công an Trần Đại Quang đã trải thảm đỏ để ông Trọng duyệt binh. [2]
Ngày 29.12.15 tại Hội nghị Công an toàn quốc tổng kết công tác năm 2015 và bàn công tác năm 2016 do Trần Đại Quang chủ trì, nhưng người chỉ đạo hội nghị lần này lại là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.[3] Mặc dầu từ trước tới nay ngành Công an thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đầu năm 2015 ông Dũng còn gởi “Thông điệp năm mới” hứa hẹn dân chủ cuội, nhưng đầu năm nay hoàn toàn vắng bóng. Thay vào đó nhiều báo lề đảng phổ biến bài phỏng vấn ông Sang.[4] 
Trước, trong và sau HNTU 13 các phe đang tung ra hàng loạt tin tố cáo, kết tội và mạt sát nhau, trong đó trích cả những tài liệu thuộc loại “tuyệt mật”. Khiến ngay cả Bộ trưởng Công an cũng phải nhìn nhận là “rất nghiêm trọng”.[5]
Tại sao chỉ ít ngày trước ĐH 12 Nguyễn Phú Trọng phải chứng tỏ cho dư luận trong đảng và ngoài xã hội là, ta đang nắm được cả quân đội lẫn công an? Vì sao Nguyễn Tấn Dũng không chỉ đạo ngành Công an như thường lệ? Tuy đang thắng thế, nhưng tại sao phe Nguyễn Phú Trọng vẫn phải lên tiếng đe dọa phe Nguyễn Tấn Dũng và sau hai HNTU liên tiếp chức TBT về tay ai cũng chưa rõ? Tất cả những sự kiện chính trị, quân sự và an ninh rồn rập sau HNTU 13 nêu trên đây nói lên điều gì? Tín hiệu gì?
Trong bài này người viết không làm công việc dự đoán hay phỏng đoán ai đi ai ở lại, hay ai thắng ai thua. Vì ngay cả những nhân vật chính trong cuộc vào giờ phút này chính họ cũng chưa biết số phận chính trị của họ sẽ ra sao. Mục đích chính của bài là căn cứ trên những dữ kiện chính trị, phân tích cách sử dụng quyền lực của họ trong các mưu đồ và thủ đoạn giành giựt các ghế cao, quyền lớn, tiền nhiều của một số người chính. Bài này đặt trọng tâm phân tích các tính toán và sách lược của TBT Nguyễn Phú Trọng chống các đối thủ trong đảng. [Các bài phân tích của cùng tác giả về các mưu đồ và thủ đoạn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể xem trên Web DCvaPT] Họ đã và đang toan tính giở những đòn ma giáo quỉ quyệt và tàn bạo như thế nào nhằm thanh toán giữa các “đồng chí” với nhau? Nhân dân ta, đi đầu là trí thức, thanh niên, kể cả những đảng viên tiến bộ có thể tin vào “đạo đức” “nhân cách” và lòng liêm sỉ của họ nữa không? Hay vẫn hi vọng  là đồ tể sẽ thành bồ tát, an tâm gửi trứng cho ác?
Hội nghị Trung ương 13 vẫn bế tắc tại các ghế “Tứ trụ”
Theo thông báo đầu tiên, HNTU 13 kéo dài từ 14 tới 22.12.15 để bàn về “tiếp thu ý kiến đóng góp” của các đảng bộ, Mặt trận tổ quốc, đảng viên và nhân dân về hai văn kiện Dự thảo Báo cáo chính trị và Kinh tế-xã hội; “tổng kết thực hiện Nghị quyết trung ương 4 khóa 11 về xây dựng đảng”; nhân sự Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị (BCT), Ban bí thư (BBT) và Ủy ban kiểm tra trung ương (UBKTTU) khóa 12; “Qui chế bầu cử tại ĐH 12”. Trong đó then chốt nhất là nhân sự BCT và “Tứ trụ”.[6]
Chủ đề nhân sự đã được HNTU 13 bàn chính thức từ ngày Thứ 6, 18.12 tới sáng 21.12. Vì chiều 21. 12 HNTU 13 đã chấm dứt đột ngột, sớm hơn một ngày theo chương trình ban đầu.
Về nhân sự ở cấp cao, trong diễn văn khai mạc ông Trọng đã cho biết, HNTU 13 sẽ thảo luận và quyết định 4 vấn đề[7]:
  1. Bỏ phiếu biểu quyết danh sách các Ủy viên trung ương (UVTU) khóa 11 “trong độ tuổi” được tái nhiệm vào Khóa 12. Đây chính là cách tự bầu!
  2. Bỏ phiểu biểu quyết các UVTU khóa 11 thuộc trường hợp “đặc biệt” tái cử vào khóa 12.Tức những người đã quá tuổi qui định nhưng đòi vẫn muốn ở lại để tiếp tục nắm các chức vụ cao.
  3. Bỏ phiếu biểu quyết đề cử các đồng chí đủ tiêu chuẩn, điều kiện trong độ tuổi tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII và UBKTTU (trong số các UVTU khóa 11 được tái cử và các UVTU mới vừa được bầu vào)
  4. Các UVTU khóa 11 (chính thức & dự khuyết) “viết phiếu giới thiệu” các ủy viên BCT và BBT khóa 11 –”đủ tiêu chuẩn, điều kiện trong độ tuổi”- ứng cử 4 chức danh lãnh đạo chủ chốt. Đây là cách gianh ghế cho phe mình!
Trong Thông báo kết thúc của HNTU 13 ngày 21. 12 cho biết, về chủ đề nhân sự đã đi tới các quyết định.[8]:
  1. “Thông qua danh sách các đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nhất trí giới thiệu ứng cử Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII”. Tức là Ban chấp hành trung ương Khóa 11 chọn trước các Ủy viên chính thức và dự khuyết Ban chấp hành trung ương Khóa 12. Tại HNTU 12 (10.15) “Trung ương [mới chỉ] bỏ phiếu biểu quyết danh sách nhân sự lần đầu được giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XII (cả chính thức và dự khuyết)”[9] 
  2. “Thông qua danh sách các đồng chí đủ điều kiện, trong độ tuổi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nhất trí giới thiệu ứng cử Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII.Tức là Ban chấp hành trung ương 11 chọn sẵn các người làm ứng cử vào BCT, BBT và UBKTTU cho Khóa 12 để ĐH thông qua.
  3. Giao Bộ Chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI quá tuổi, tái cử, để đảm nhiệm chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình Hội nghị Trung ương 14 xem xét, quyết định.
 Về Điểm ba này trong diễn văn bế mạc, Nguyễn Phú Trọng nói hơi khác: “Các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa XI (cả chính thức và dự khuyết) cũng đã viết phiếu giới thiệu các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong độ tuổi ứng cử 4 chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. “[10] Nếu hiểu cách này thì cả Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và một số ủy viên BCT khóa 11 đã quá tuổi qui định theo Điều lệ đảng đều không được xét. Nhưng Thông cáo chung lại nói rõ, tiếp tục xét các “trường hợp đặc biệt là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI   “quá tuổi, tái cử” để nắm các ghế “tứ trụ”. Nếu trường hợp này đúng thì cả Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và một số ủy viên BCT vẫn ngấp nghé tiếp ghế TBT và 3 ghế cao khác!
Kết quả HNTU 13 dẫn tới một số kết luận:
  1. Các phe nhóm có quyền lực nhưng đối nghịch nhau trong Trung ương đảng như Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, vì lợi ích riêng của mỗi phe, đã thỏa thuận ngầm với nhau cướp quyền của ĐH, từ một cơ quan có quyền lực cao nhất theo Điều lệ đảng, ĐH 12 sắp tới trở thành một cuộc họp chỉ để thông qua các quyết định của các phe trước đó tại các HNTU. Việc này đã diễn ra từ HNTU 9 (5.14) với Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 9.6.2014 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng do Nguyễn Phú Trọng kí.[11] Nghĩa là, vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm, họ chỉ lợi dụng đảng như một bình phong để tranh quyền, giữ ghế và chia tiền.
  2. Như vậy là xuyên qua cả hai HNTU 12 và 13 nhưng các phe phái, các nhóm trong Trung ương đảng vẫn bất đồng sâu sắc với nhau về những ai sẽ làm TBT, Chủ tịch nước,Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội trong ĐH 12 sẽ diễn ra vào 20.1.16. Điều này tự chứng tỏ uy tín rất yếu của những người thuộc các “trường hợp đặc biệt” hiện còn đang ngồi ghế “tứ trụ” và BCT đã quá tuổi qui định, nhưng vẫn đòi chia phần tiếp, không ai nổi trội để được đa số HNTU tán thành, mặc dù họ đã ngấm ngầm và công khai vận động trong các năm qua.
  3. Họ vỗ ngực tự nhận là đảng cầm quyền, phục vụ quyền lợi nhân dân và thề thốt là để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Nhưng trong việc chọn lựa nhân sự ở cấp cao nhất có liên quan trực tiếp tới sinh mạng và đời sống của nhân dân cũng như tương lai của đất nước, họ đã cố tình khóa cửa lại, không cho nhân dân được biết và đóng góp ý kiến. Các cuộc họp của HNTU 12, 13 với chủ đề nhân sự cấp cao nhất cho Đảng và Nhà nước đã được cố tình tổ chức tù mù, che đậy, lấp liếm với các thông cáo họp hằng ngày chỉ vài dòng, không cho biết nội dung và kết quả. Vì các phe đánh phá nhau bằng nhiều thủ đoạn: “Họ đối xử với nhau “lạnh tanh máu cá”.[12] Câu này của Nhị Lê kết án lòng dạ của phe Nguyễn Tấn Dũng, nhưng thực tế cũng là tâm địa của phe Nguyễn Phú Trọng. 
Giành nhau các ghế cao trong HNTU không xong, lôi nhau ra bên ngoài đánh tiếp.
Như phần đầu đã nói, sau 8 ngày họp HNTU 13  nhưng thắng bại giữa hai phe vẫn chưa ngã ngũ, nên chỉ một ngày sau trên Tạp chí CS đã phổ biến bài “Nhận diện và đột phá cấp bách các nguy cơ trong Đảng hiện nay” của Phó Tổng biên tập TS Nhị Lê đã tấn công trực diện vào phe cánh của Nguyễn Tấn Dũng, tuy trong cả bài không nêu danh ông trực tiếp. Tạp chí CS vẫn được coi là cái miệng của TBT Nguyễn Phú Trọng. Nhị Lê đã tỏ ý cho biết là, từ sau HNTU 4 (12.11) mở màn cuộc thanh trừng chống “một bộ phận không nhỏ” trong đảng thất bại, nên nó đang mạnh lên và trở thành nguy cơ tồn vong cho chế độ:
“Qua bốn năm, từ việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, phát hiện những hiện trạng nóng bỏng, với những “tầng chìm thực thể”, như C. Mác nói, tinh vi, giảo quyệt hơn, đặt ra những thách thức ngày càng cấp bách, thật sự là nguy cơ.”\Nhị Lê liệt kê một loạt những âm  mưu phá hoại của họ đang dẫn tới các nguy cơ cho chế độ:
-”Nguy cơ chệch hướng trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị”
-”Nguy cơ buông lỏng, làm trái những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”.
-”Nguy cơ một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó đáng lo ngại là người đứng đầu suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, sa sút về phẩm hạnh và lối sống”
-”Nguy cơ xa rời cơ sở xã hội - chính trị của Đảng”
-”Nguy cơ vừa cát cứ, cục bộ, vừa phân ly, phá vỡ thống nhất, mà một số người đứng đầu là sự “kết tụ” dưới đủ hình thức và cấp độ, có thể làm xuất hiện “lợi ích nhóm” và những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng”.
Các “nguy cơ” nêu trên của Phó Tổng biên tập Tạp chí CS, phản ảnh những nguồn dư luận cả trong đảng và ngoài xã hội là, Nguyễn Tấn Dũng đang có âm mưu nắm cả ghế TBT lẫn Chủ tịch nước để trở thành Tổng thống!  Phó Tổng biên tập Tạp chí CS còn kết án gay gắt những người này là:
“Họ đối xử với nhau “lạnh tanh máu cá”, thậm chí chà xéo cả lên tình người, tình đồng chí để giành đoạt cho mình quyền lực, lợi lộc cá nhân và cho phường hội. Một số người không còn cả liêm sỉ, mà nói như người xưa: Không có liêm sỉ thì không thành người được nữa! “
Từ đó Nhị Lê đòi hỏi phải ra tay trừng trị sớm:
“Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan tới sinh mệnh, sự tồn vong của Đảng, sự mất còn của chế độ, sự thăng trầm của đất nước, sự an nguy của dân tộc, nên không thể trì hoãn giải quyết.”
Nhị Lê còn ví von ám chỉ âm mưu và tham vọng của Nguyễn Tấn Dũng như cục máu đông có thể làm con người chết bất tử; vì thế, theo ông phải có biện pháp  làm “tan những cục nghẽn mạch đau đớn” ấy” bằng cách “chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể”. Và “Vì, tình trạng bất bình thường đòi hỏi phải được giải quyết một cách bất bình thường và chữa trị cho bằng được”.
Để thực hiện mục tiêu này, Nhị Lê đã hùng hổ bảo vệ cho giải pháp “tài không nệ tuổi”, dỡ bỏ mọi khuôn sáo cơ học cứng nhắc về vấn đề này.” [13] Qua đó Phó Tổng biên tập Tạp chí CS đã ủng hộ và bênh vực tham vọng của Nguyễn Phú Trọng vẫn nằng nặc đòi giữ ghế TBT tiếp, mặc dù đã 71 tuổi và là người cao tuổi nhất trong BCT hiện nay. Để thực hiện tham vọng này phe Nguyễn Phú Trọng sẵn sàng đạp lên Điều lệ đảng, mặc dầu chính họ đã dựng lên! 
Việc HNTU 13 chấm dứt đột ngột một ngày theo chương trình dự tính, thay vì ngày 22.12 nhưng chiều 21.12 đã kết thúc, vẫn còn là một câu hỏi cho các quan sát viên theo dõi chính trị VN. Người ta ghi nhận một số sự kiện có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp tới việc này. Theo “Thông cáo báo chí” của Hội nghị thì sáng 21.12 HNTU 13 còn bàn tiếp “công tác nhân sự”. Buổi chiều “họp phiên bế mạc”. Vẫn theo Thông cáo, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chủ trì và điều hành phiên họp. Những nhân vật đóng vai chính và các vấn đề giải trình tại phiên họp bế mạc là: 
  1. UV BCT, Thường trực BBT Lê Hồng Anh giải trình: 
  2. a) “ đọc Báo cáo trả lời chất vấn của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 13 khoá XI.” 
  3. b) “đọc Báo cáo  tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị về ý kiến của Trung ương thảo luận về”: kiểm điểm sự lãnh đạo của BCThủ tướngU Khóa 11; “thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá XI”; “tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng.” 
  4. c) đọc Báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị về ý kiến của Trung ương thảo luận về thời gian, nội dung và chương trình Đại hội XII. Ủy viên BCT kiêm Trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa “đọc Báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị về ý kiến của Trung ương thảo luận về  Dự thảo Quy chế làm việc của Đại hội XII; Dự thảo Quy chế bầu cử tại Đại hội XII của Đảng.” Đặc biệt là ủy viên BCT kiêm Trưởng ban tuyên giáo trung ương Đinh Thế Huynh không chỉ đọc báo cáo của BCT tiếp thu và giải trình ý kiến của Trung ương đảng về Dự thảo Báo cáo chính trị, mà còn đọc cả “ Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI trình Đại hội XII của Đảng.” Đúng ra phần này thuộc thẩm quyền và lãnh vực của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sau đó Ban chấp hành trung ương “đã biểu quyết thông qua Nghị quyết  Hội nghị lần thứ 13”.[14]
Cuối cùng TBT Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn bế mạc. Đáng chú ý là trong Điểm 2 của diễn văn khi nói tới những thành quả trong kinh tế-xã hội, ngoại giao, an ninh…5 năm qua trong nhiệm kì Khóa 11, Nguyễn Phú Trọng đã coi đó là công lao “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư”.[15] Cụm từ này được Nguyễn Phú Trọng lập đi lập lại tới ít nhất 4 lần. Trong khi đó không một lần nào nhắc tới Chính phủ. Nhưng ông Trọng đã chỉ trích mạnh những khó khăn và thất bại trong kinh tế-xã hội:
“Kinh tế vĩ mô chưa ổn định vững chắc; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện. Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết vẫn là khâu yếu. Việc triển khai thực hiện chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm, chưa có những chuyển biến cơ bản. Lãnh đạo, chỉ đạo một số lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội còn hạn chế.”[16]
Tuy không một lần nào nhắc tới Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ai cũng biết, những việc nêu trên Nguyễn Phú Trọng đã chĩa mũi dùi chỉ trích thẳng vào ông Dũng, vì đây là lãnh vực thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Thủ tướng. Cả trên truyền hình tường thuật lễ bế mạc HNTU 13 cũng cho thấy giọng nói và dáng điệu tỏ ra tự tin, phấn khởi của Nguyễn Phú Trọng, trái với cách nói buồn tẻ của ông trong buổi bế mạc HNTU 12 hai tháng trước. Trong khi đó ngồi ở hàng ghế đầu lần này Nguyễn Tấn Dũng đã tỏ ra ưu tư, lo lắng khác hẳn với cử chỉ cười ruồi bữu môi nửa miệng của ông tại buổi bế mạc HNTU 12. [17]
Ngoài ra, đúng vào ngày HNTU 13 bắt đầu thảo luận về nhân sự cấp cao (18.12) thì một thư dược gọi là “Thư của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi TBT Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị” đề ngày 10.12.15 được phổ biến rộng rãi trên nhiều báo điện từ lề dân.[18] Trong Thư 9 trang nêu ra 12 vấn đề liên quan tới trách nhiệm trực tiếp của Thủ tướng, lí lịch gia đình của Nguyễn Tấn Dũng; song song có trích dẫn các phần giải trình thanh minh và biện  hộ cho Nguyễn Tấn Dũng của UBKTTU và nhiều cơ quan trong đảng và chính phủ. Đáng chú ý nữa là, trong Thư này đánh lớn mấy chữ “TÔI XIN KHÔNG TÁI CỬ” ( điểm 8, tr.8).
Thực giả của Thư này vẫn còn là vấn đề tranh luận. 12 điều nêu ra trong Thư không có gì mới, đều đã được đồn đãi trong dư luận từ nhiều năm. Đáng nói ở đây là các phần trích các văn kiện của các cơ quan cao của đảng được coi là tối mật thực hay giả? Đặc biệt quan trọng nữa, có phải chính ông Dũng đã viết và phổ biến Thư này, hay phe đối thủ chính trị của ông đã viết và tung ra vào đúng dịp bàn về nhân sự cấp cao nhất của ĐH 12, với dụng ý làm hoang mang và làm tê liệt phe Nguyễn Tấn Dũng? 
Vì nếu ông Dũng rút ra khỏi cuộc tranh đua ghế TBT thì sẽ làm đổi hướng theo dõi của dư luận và thay đổi chương trình làm việc của HNTU 13, vì thế Hội nghị này đã nghỉ sớm một ngày ? Các tài liệu “tối mật” của các cơ quan cao nhất của đảng bị tung ra bên ngoài làm cho ủy viên BCT, Bộ trưởng công an tướng Trần Đại Quang đã phải lên tiếng báo động “tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với 63 tỉnh thanh” ngày 28.12 là “tình hình lộ lọt bí mật nhà nước xảy ra rất nghiêm trọng.” [19]
Sau khi lá Thư gởi TBT và BCT được coi là của ông Dũng thì có nhiều “kiến nghị” và thư tố cáo khác gởi cho BCT và Trung ương đảng liên quan tới việc tuyển chọn “Tứ trụ” từ bênh vực cho tới chống đối Nguyễn Tấn Dũng hoặc Nguyễn Phú Trọng.
Dường như những thắng lợi ban đầu trong HNTU 13 phe ông Trọng đang giở các đòn chiến tranh tâm lí để biểu giương lực lượng. Nguyễn Phú Trọng đã xuất hiện liên tiếp trong nhiều dịp. Đáng kể như ông đã chọn thăm Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà nội và Bộ tư lệnh Lực lượng cảnh sát cơ động ngay trong hai ngày đầu năm. Đứng cạnh ông trong hai dịp này là các Ủy viên BCT, Bộ trưởng quốc phòng đương nhiệm Phùng Quang Thanh, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị và được coi là người kế nhiệm ông Thanh và Bộ trưởng Trần Đại Quang, như nói ở phần đầu.[20] Nguyễn Phú Trọng muốn để cho các đối thủ và dư luận biết là, cả quân đội lẫn công an đang đứng đằng sau ông. Trong dịp kỉ niệm 70 năm bầu cử Quốc hội đầu tiên (6.1.1946- 6.1.2016) trước sự hiện diện đông đủ của các ủy viên BCT và cả hai cựu TBT, cựu Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội…người đọc diễn văn chính là Nguyễn Phú Trọng chứ không phải Nguyễn Sinh Hùng.[21]
Tại Hội nghị Công an toàn quốc ngày 29.12.15 Nguyễn Tấn Dũng đã vắng mặt, tuy rằng lãnh vực này thuộc thẩm quyền của Thủ tướng. Người đọc diễn văn chỉ đạo lại là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Bộ trưởng công an Trần Đại Quang đã trải thảm đỏ cùng duyệt binh với ông Sang và đã giành những lời trang trọng cám ơn sự có mặt và chỉ đạo của Trương Tấn Sang:
“Lực lượng CAND rất vinh dự, tự hào được đồng chí Chủ tịch nước ghi nhận, biểu dương, đánh giá cao những chiến công, thành tích xuất sắc đạt được trong năm qua. Những ý kiến chỉ đạo của đồng chí là những định hướng quan trọng của Đảng, Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội thời kỳ hội nhập sâu rộng, phát triển mới của đất nước. “[22]
Kế hoạch bao vây và phá hoại dài hạn đối thủ của Nguyễn Phú Trọng
Ai theo dõi sát tình hình nội bộ ĐCSVN dưới thời Nguyễn Phú Trọng làm TBT đều thấy một số điểm chính sau: 
  1. Để Nguyễn Phú Trọng nắm ghế TBT Khóa 12 (1.2011) cánh ông Trọng đã phải thỏa thuận ngầm với cánh ông Dũng bằng cách bỏ qua vụ Vinashin vào 2010, không kết án ông Dũng mà còn để cho làm Thủ tướng tiếp. 
  2. Nhưng sau khi nắm chắc ghế TBT, Nguyễn Phú Trọng bắt tay thanh toán Nguyễn Tấn Dũng, mở đầu với phong trào chỉnh đảng từ HNTU 4 (12.2011) với khẩu hiệu “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”, với điểm cao là  “Hội nghị Cán bộ toàn quốc” cuối tháng 2.12 phát động phong trào Tự phê bình và Phê bình rộng lớn chưa từng có. HNTU 5 (5.12) ông Trọng giành chức Trưởng ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng của Nguyễn Tấn Dũng.  HNTU 6 (10.12) tính dùng Ban chấp hành trung ương ép Nguyễn Tấn Dũng phải từ chức Thủ tướng, nhưng đã thất bại. Ông Trọng buồn bực phát khóc. 
  3. Sau đó cánh “Đồng chí X” còn quật lại bẻ gẫy danh sách các ứng cử viên vào BCT của phe Nguyễn Phú Trọng và đưa Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân vào BCT tại HNTU 7 (5.13) .4. Tại HNTU 10 (1.15), trong cuộc “lấy phiếu tín nhiệm” các ủy viên BCT,  Nguyễn Phú Trọng lại tụt lại đằng sau, trong khi ấy Nguyễn Tấn Dũng lại được đa số lớn Trung ương đảng tín nhiệm.[23]
Từ những thất bại đau đớn này phe Nguyễn Phú Trọng đã thay đổi chiến lược từ trong nội bộ đảng tới ngoại giao với những trọng tâm chính: 
  1. Tái lập các Ban kinh tế và Nội chính trung ương để nắm lại túi tiền và điều động nhân sự. 
  2. Sử dụng phương thức “ tập trung dân chủ “ để sửa đổi Điều lệ bầu cử trong Trung ương đảng, BCT và ĐH đảng để vô hiệu hóa phe Nguyễn Tấn Dũng. 
  3. Chuẩn bị nhân sự ở “cấp chiến lược”  để đưa vây cánh vào Trung ương đảng nhằm nắm lại đa số trong các HNTU.[24] 4. Cải thiện bộ mặt ngoại giao, đặc biệt với Hoa kì, để gây uy tín lại trong đảng và xã hội.
Trong hoạt động ngoại giao, chuyến thăm Mĩ tháng (6-10.7.15) là một “động tác giả chuyển trục” của Nguyễn Phú Trọng.[25] Chiêu thuật ngoại giao “đồng sàng dị mộng” giúp phe ông Trọng cải thiện bộ mặt bị kết án là “bảo thủ và cúi đầu trước Bắc kinh” trong đảng và ngoài xã hội nhằm tạo lại thanh thế đang bị phe Nguyễn Tấn Dũng đe dọa.   Việc chấp nhận một số điều kiện để VN trở thành thành viên tương lai của TPP (Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái bình dương) vào đúng dịp HNTU 12 cũng là chiến thuật nhằm phá vỡ sự công kích của phe Nguyễn Tấn Dũng và qua đó mở rộng vây cánh.[26]
Cùng với các thủ pháp ngoại giao, phe Nguyễn Phú Trọng còn thực hiện một loạt các biện pháp gài thân tín vào Trung ương đảng khóa 12. GS Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng lí luận trung ương, liền sau HNTU 13 đã cho biết, trong thời gian qua Ban tổ chúc trung ương và Ban tuyên giáo trung ương -hai cánh tay mặt của phe Nguyễn Phú Trọng- “ mở tới 6 lớp đào tạo lý luận đặc biệt. Tất cả ứng viên vào TW khóa XII bắt buộc phải qua những lớp đó.”[27] Nhiều “cán bộ cấp chiến lược” này hiện nay đã trở thành ủy viên Trung ương khóa 12, hoặc là cán bộ chủ chốt ở trung ương và nhiều địa phương. Quan trọng nhất và cũng là độc tài gian hiểm nhất là “Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng” do Nguyễn Phú Trọng kí sau HNTU 9 (5.14).
Khoản 3 trong Điều 13 của Quyết định này ghi rõ: “Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.” [28]
Nghĩa là dưới danh nghĩa “tập trung dân chủ”, nắm đa số trong BCT nên phe Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng BCT làm cơ quan độc quyền thao túng ĐH 12 trong việc cử và bầu các người vào các ghế “tứ trụ”.  Sự  độc tài, lộng quyền thao túng của phe Nguyễn Phú Trọng đã đến mức không thể tưởng tượng được, vì tại HNTU 13 Nguyễn Phú Trọng đòi bắt trên 1500 đại biểu dự ĐH 12 phải “viết bằng tay đề cử những người vào BCH Trung ương hoặc vào 4 chức vụ cao nhất, chủ chốt trong Đảng”.[29]
Khi mỗi đại biểu phải viết bằng tay những người mình muốn đề cử thì đã để lộ rõ, liền sau đó có thể diễn ra những cuộc tiếp xúc trực tiếp với những đại biểu muốn bầu người không thuộc cánh của Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu này sẽ phải chịu nhiều áp lực từ mua chuộc tới đe dọa để thay đổi quyết định. Nghĩa là nguyên tắc dân chủ bầu cử kín đã hoàn toàn bị thủ tiêu tại ĐH 12!
Như vậy là rút kinh nghiệm từ những thất bại đau đớn từ HNTU 6 tới HNTU 10, nên phe Nguyễn Phú Trọng lập kế hoạch phản công và lần này đi tới quyết định, sẵn sàng ra tay dùng cả các biện pháp đe dọa đến bạo lực đối phó với các “đồng chí” chống lại.
Hội nghị trung ương 14 và Đại hội 12 đi về đâu ?
HNTU 14 (11-13.1.16) sẽ được coi là trận đánh quyết định cho phe Nguyễn Phú Trọng trong việc giành ghế trong Tứ trụ, nhất là chức TBT. Nhưng chưa có nghĩa là đạt tới chiến thắng dứt khoát. Các phe -tuy miệng vẫn gọi nhau là đồng chí-  tiếp tục dùng mọi thủ đoạn từ hạ cấp tới nham hiểm từ công khai tới ngấm ngầm, trong đó dùng cả tiền bạc và quyền lực làm vật trao đổi, thậm chí cả đe dọa và bạo lực để tranh thủ trên 1500 đại biểu tại ĐH 12 từ 20-28.1.15 .
Trong suốt nhiệm kì 5 năm (1. 2011-1.2016) thay vì BCT và Ban chấp hành trung ương đoàn kết để tập trung tâm trí, sức lực và tiền của xây dựng đất nước theo tiêu chí chính họ hứa là, “làm cho dân giầu, nước mạnh, dân chủ, văn mnh”.  Nhưng thay vì thế, suốt 5 năm qua hai phe Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng lại chỉ lợi dụng danh nghĩa đảng và nhà nước dùng quyền lực, phương tiện và tiền bạc của nhân dân để thanh toán và phá hoại lẫn nhau, giành dựt ghế cao và tự do tham nhũng, lập phe nhóm lợi ích và gia đình trị! Chính vì thế VN đang thua cả Cambod và Lào! Nhiều chuyên viên VN và quốc tế, nêu câu hỏi, tại sao VN không muốn tiến lên!
Quyền và tiền đã làm các đồng chí hại nhau, giết nhau; cho nên nhân dân, đi đầu là trí thức và thanh niên, và cả đảng viên tiến bộ đều bị cả hai phe Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng càng khinh thường và thẳng tay đàn áp. Những tiếng nói chân thành, các thư thúc giục dân chủ và canh tân của trí thức, chuyên viên và thanh niên đều bị nhóm cầm đầu toàn trị bỏ ngoài tai hay vứt vào sọt rác. Tờ Công an nhân dân ngày 21.12 kết án gay gắt “Thư ngỏ” của 127 người gồm nhiều đảng viên tên tuổi kêu gọi phải dân chủ hóa đảng. Lợi dụng Mĩ và Liên minh Âu châu phải tập trung giải quyết chiến tranh ở Syrien, Irak và làn sóng tị nạn, chế độ toàn trị ở VN đang mở các cuộc khủng bố các luật sư, trí thức và thanh niên; nuốt chửng những lời cam kết quốc tế, cụ thể như các tiêu chuẩn về tôn trọng các tổ chức dân sự, các nghiệp đoàn công nhân và nhân quyền…Họ cũng đang chụp mũ và đe dọa các đảng viên tiến bộ là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trong khi đó cả Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng trước sau như một vẫn quị lụy, cúi đầu trước Tập Cận Bình. Họ không hổ thẹn hay ngượng ngùng long trọng tiếp đón, vồ vập họ Tập như trong dịp ông ta sang Hà nội vào đầu tháng 11.15 để vảnh tai nghe những lời ca “16 chữ vàng và 4 tốt”[30]; hay chuyến đi của Nguyễn Sinh Hùng tới Bắc kinh và thăm lăng Mao -một bạo chúa từng giết hàng chục triệu người Trung quốc, kể cả các đồng chí thân cận nhất- vào cuối tháng 12 vừa qua.[31] 
Giữa khi ấy Tập Cận Bình tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự trên biển Đông, biến cải các đảo chiếm được của VN thành các căn cứ quân sự, mở thao diễn quân sự lớn ngay trên biển Đông. Trong khi đó, nhiều tầu đánh cá của ngư dân VN tiếp tục bị săn đuổi, giết hại và gây thương tích. Họ tôn thờ một chế độ toàn trị Bắc kinh, mù quáng đến nỗi không nhận ra là chế độ này đang rơi vào khủng hoảng trầm trọng cả trong chính trị lẫn kinh tế. Cụ thể như cuộc khủng hoảng tài chính chứng khoán lại đang tái bùng nổ trong những ngày vừa qua!
Họ đang trát bùn lên mặt nhau, tự đánh mất tư cách lãnh đạo. Cho nên dù ông Trọng hay ông Dũng ở hay đi cũng không thay đổi được tình thế. Một người thì tham quyền, cực kì bảo thủ, giáo điều, muốn kéo đất nước trở lại thời kì đầu của Thế kỉ 20. Người kia thì ham quyền, hám danh, gia đình trị. Cả BCT hiện nay cũng thế, đều xôi thịt, cá mè một lứa, đồng lõa. Họ đã đánh mất tư cách. Thực tế thì ĐCS không còn nữa, chỉ còn một vài cá nhân và nhóm lợi ích núp bóng đảng để giữ quyền, tham nhũng và đàn áp nhân dân. Vì thế chế độ này không thể tồn tại được!
Ngay cả cựu đại sứ và đảng viên Nguyễn Trung đã đưa ra kết luận về “tình đồng chí” ở đỉnh cao trước ĐH 12 giữa những người có quyền lực cao nhất:
“ Đất nước chỉ còn lại là miếng mồi ngon cho lợi và quyền để giằng xé nhau giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa nhóm lợi ích này và nhóm lợi ích kia.”
Và “Đại hội XII có thể sẽ đi vào lịch sử là Đại hội tồi tệ nhất kể từ sau 30-04-1975 cho đến nay!”[32].
Âu Dương Thệ/Vietbao
--------------
* Ghi chú:
[1] . Tạp chí CS, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/36787/Nhan-dien-va-dot-pha-cap-bach-cac-nguy-co-trong-Dang.aspx
[2] . Quân đội nhân dân (QĐND) và Công an nhân dân (CAND) 1-2.1.16
[3] . CAND 29.12
[4] . Phỏng vấn đầu năm, Vietnamnet (VNN) 30.12
[5] . VNN 28.12
[6] . Nguyễn Phú Trọng diễn văn khai mạc, Cộng sản (CS) 14.12
[7] . Như trên
[8] . CS 21.12
[9] . Cùng tác giả, Cuộc biến thể thoái hóa của ĐCS: Từ đảng trị sang nhóm trị và nay đang trở thành gia đình trị  http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2015/adt2510.htm
[10] . Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc, CS 21.12
[11] . Toàn văn Quyết định này xem Infonet 22.12.15
[12] . Như 1
[13] . Như 1
[14] . CS 21.12
[15] . Như trên
[16] . Như trên
[17] .Như 9,
Video diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng HNTU 12: http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Media/Media.aspx?cm_id=6153&type=1&co_id=0
[18] . Blog Basam 18.12
[19] . VNN 28.12
[20] . Như 2
[21] . CS 6.1.16
[22] . CAND 29.12.15
[23] . Cùng tác giả, 2 năm làm TBT của Nguyễn Phú Trọng phần 2 và 3:  http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2013/adt2.htm)
[24] . VOV 3.1.16
[25] . Cùng tác giả, Nguyễn Phú Trọng đi Mĩ: Đồng sàng dị mộng, mượn gió bẻ măng
Con đường của chúng ta, những người dân chủ vững bước tiến lên  (http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2015/adt317.htm)
[26] . Như 9
[27] . VOV 3.1.16
[28] . Infonet 22.12.15
[29] .PGS, TS Phạm Xanh, Khoa Lịch sử, trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội. -nói cùng với Hoàng Chí Bảo trong cuộc phỏng vấn của VOV 3.1
[30] .Họ Tập xỏ mũi Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng,nhưng không đánh lừa được nhân dân VN!  http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2015/adt1411.htm
[31]. Nguyễn Tấn Dũng thăm Trung quốc, Đài Bắc kinh 24.12 và VNN 26.12

[32] . Nguyễn Trung, Ngày đầu năm 2016, ước mong gì cho tổ quốc? Viet-Studies 2.1.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét