Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2024

20240226. BÀN VỀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ

   ĐIỂM BÁO MẠNG


KHI TIẾNG CHUÔNG 'THỂ CHẾ' GIÓNG LIÊN HỒI
ĐINH ĐỨC SINH/ TVN 20-2-2024

Nền tảng thể chế của đất nước, trước hết là hoạt động lập pháp của Quốc hội, trong đó có thể chế kinh tế, cần được nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường đa dạng và hội nhập.

Công cuộc Đổi Mới đã đi được một chặng đường dài gần 38 năm (1986-2024). Qua thống kê chưa đầy đủ, riêng về lĩnh vực kinh tế, Quốc hội đã ban hành được 211 luật, bộ luật, bình quân hơn 5,7 luật/năm.

Trong đó, luật đầu tiên được ban hành là Luật Đất đai năm 1987; số được ban hành nhiều nhất là 14 luật vào năm 2014; Số được ban hành dưới dạng luật sửa đổi, bổ sung là 42 luật, bình quân 1,2 luật/năm. Đặc biệt, năm 2018 đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung đối với 37 luật có liên quan đến qui hoạch.

Trong số những luật đã phải sửa đổi, bổ sung có luật chỉ sửa đổi, bổ sung một lần như Luật Thống kê; có luật hai lần (như Bộ luật Lao động), có luật ba lần (như Luật Hàng không dân dụng Việt Nam), có luật bốn lần (như Luật Hợp tác xã)...

Đặc biệt, Luật Đất đai đã qua 6 lần sửa một số phân khúc, và 3 lần sửa tổng thể mà vẫn chưa xong, phải làm tiếp vào năm 2024.


Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) sáng ngày 18/01/2024

Có một trường hợp “đặc biệt”, đó là Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật luật này chỉ sửa một lần duy nhất, sau đó nhập vào làm một để tạo thành Luật Doanh nghiệp.

Vẫn biết việc ban hành luật sửa đổi, bổ sung là cần thiết, nhưng cần đặt ra câu hỏi: Vì sao việc sửa đổi, bổ sung luật lại diễn ra liên tục với cường độ mỗi năm một tăng khiến công tác lập pháp đứng trước những áp lực “tăng cường, đẩy mạnh, nâng cao” ngày càng lớn và Quốc hội đã phải kéo dài ngày làm việc tại mỗi kỳ họp, thậm chí mở thêm nhiều phiên họp bất thường trong năm.

Đất nước đặt mục tiêu về phát triển ổn định, tốc độ cao, hiệu quả lớn nhưng các kỳ vọng đó hầu như đã vượt tầm thể chế, thậm chí nhiều vấn đề đều đổ cho thể chế. Thể chế đã và đang được gọi tên mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực. Vậy đâu là lý do, đâu là giải pháp cho thực trạng này?

Quy trình lập pháp

Luật kinh tế phần lớn đều do cơ quan hành pháp khởi thảo rồi trình Quốc hội xem xét, chỉnh sửa, thông qua.

Nói là cơ quan hành pháp, nhưng trên thực tế, Chính phủ giao cho Bộ quản lý ngành đứng ra chủ trì nghiên cứu, rồi dự thảo thành dự án luật, đưa ra lấy ý kiến các tổ chức, chuyên gia có liên quan, sau đó hoàn thiện dự án, trình Thủ tướng xem xét trước khi trình ra Quốc hội.

Tại cơ quan lập pháp, các Ủy ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm định dự án luật do Thủ tướng trình để Chính phủ hoàn thiện lần cuối trước khi đưa ra thảo luận tại một hoặc hai, ba... kỳ họp Quốc hội cho đến khi được đa số đại biểu biểu quyết thông qua.

Cuối cùng, Quốc hội trình Chủ tịch nước ký ban hành thành Luật, có giá trị thi hành trong cả nước.

Qui trình như vậy là không còn kẽ hở nào đủ để gây ra tiêu cực cho một luật được ban hành và đưa vào cuộc sống.

Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh ở chỗ cơ quan lập pháp lại không làm dự án luật mà chỉ làm các công việc để dự án luật chuyển thành luật có giá trị thi hành.

Qui trình này có thể là chấp nhận được đối với một vài trường hợp cá biệt nào đó, nhưng không thể trở thành qui trình áp dụng cho mọi trường hợp làm luật kinh tế như lâu nay và hiện nay.

Cơ quan lập pháp không làm dự án luật kinh tế, tất cả đều do cơ quan hành pháp làm thay thì tránh sao khỏi những khiếm khuyết, bất cập, thậm chí sai sót, sai lầm trong luật bởi nhiều lẽ.

Dễ thấy nhất là thế mạnh của Chính phủ là làm các văn bản dưới luật chứ không phải là làm luật; Bộ máy của Chính phủ là bộ máy hành pháp chứ không phải bộ máy lập pháp. Trong khi đó, hệ thống hành pháp đã bận với công cuộc cải cách thủ tục hành chính với hàng núi công việc, luôn gây quá tải lên hệ thống hành chính bốn cấp.

Quốc hội là cơ quan lập pháp. Làm luật là công việc của Quốc hội, trong đó dự án luật cũng phải do Quốc hội làm, nếu cần thì mời bên Hành pháp, Tư pháp tham gia. Nếu các Ủy ban của Quốc hội thiếu người để làm dự án luật thì 500 đại biểu Quốc hội sẽ là nguồn lực cần được huy động để vào cuộc. Thậm chí, nếu vẫn thiếu người làm dự án luật thì có thể cho phép các Ủy ban của Quốc hội được thuê chuyên gia để tăng cường nhân sự cho khâu còn yếu này trong qui trình lập pháp.

Thiếu thiết chế giám sát tối cao

Mặc dù trong qui trình ban hành luật kinh tế đã chứa đựng trong đó các nguy cơ mắc phải những khiếm khuyết, bất cập, sai sót nhưng cho tới nay, trong nhận xét, phản biện, Việt Nam mới chỉ đưa ra những ý kiến về khiếm khuyết, bất cập, chưa có ý kiến về những sai sót, sai lầm của luật đã được ban hành.

Do vậy trong nhiều thập kỷ, Quốc hội mới chỉ tiến hành việc sửa đổi, bổ sung luật để giải quyết các khiếm khuyết, bất cập của luật. Việc sửa đổi, bổ sung này không đủ liều lượng để loại bỏ những sai sót, sai lầm của luật. Đây là lý do của những luật dù đã phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần mà vẫn chưa xong.


Người dân kỳ vọng vào thể chế kinh tế sớm ở tầm cao hơn, theo đó Quốc hội cần có thêm những năng lực mới hơn, cao hơn, toàn diện hơn về làm luật kinh tế. Ảnh: Nam Khánh

Đã đến lúc phải ban hành qui trình giám sát tối cao đối với các luật kinh tế đang có giá trị thi hành để phân định luật nào có khiếm khuyết, bất cập để sửa đổi, bổ sung; luật nào có sai sót, sai lầm để sửa sai, ban hành luật thay thế.

Đối tượng để thực hiện giám sát tối cao đối với một đạo luật nào đó có thể có nhiều nhưng dễ thấy nhất là với luật nào có nhiều khúc mắc, trục trặc nhất trong thi hành; luật nào có nhiều kẽ hở bị lợi dụng để tham ô, tham nhũng, lãng phí nhiều nhất; luật nào tạo ra khiếu kiện, tố cáo nhiều nhất...

Chính thực tiễn thi hành luật và kết quả do luật mang lại cho nhân dân, cho nhà nước là thước đo đối với một đạo luật. Không giám sát tối cao, hoặc buông lỏng đối với loại giám sát này sẽ tạo ra môi trường hình thành những luật không có sai sót, sai lầm, chỉ có khiếm khuyết, bất cập.

Những kỷ lục của Luật Đất đai

Luật Đất đai là một điển hình, đã năm lần bẩy lượt được sửa đổi bổ sung, kéo dài hết thập kỷ này sang thập kỷ khác.

Nếu sớm thực hiện giám sát tối cao đối với luật này thì ngô đã ra ngô, khoai đã ra khoai từ lâu. Có nhiều căn cứ để viện dẫn cho vấn đề này, trong đó nổi lên là những “cái đầu tiên” của Luật Đất đai.

Thứ nhất, công cuộc Đổi Mới được khởi động năm 1986 đến năm 1987, Luật Đất đai đã được ban hành. Đây là đạo luật sớm nhất được ra đời trong thời kỳ Đổi Mới.

Thứ hai, lần đầu tiên việc “cấm mua bán đất” đã được công bố tại luật này.

Thứ ba, lần đầu tiên quyền sử dụng đất được tách ra khỏi quyền sở hưu đất tại Luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai năm 1993, và từ đây thị trường Quyền sử dụng đất được thiết lập thay cho thị trường Đất đai.

Thứ tư, lần đầu tiên toàn bộ đất đai được qui định đều thuộc Sở hữu toàn dân tại Luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai năm 2003.

Thứ năm, lần đầu tiên Nhà nước được giao làm Đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai tại Luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai năm 2003 và được ghi vào Hiến pháp năm 2013.

Những cái đầu tiên đó đã đẻ ra ngày càng nhiều đầu tiên khác như thu hồi đất, đền bù thu hồi đất, khuyến khích thu hồi đất, thêm hệ số K vào giá đất, giải phóng mặt bằng, sổ hồng, sổ đỏ...

Do chưa có giám sát tối cao đối với Luật Đất đai nên chưa có kết luận nào về sai sót, sai lầm của luật này. Việc sửa đổi, bổ sung khiến Luật Đất đai năm 1987 chỉ có 6 chương, 57 điều, còn Luật Đất đai năm 2013 đã tăng lên tới 14 chương (tăng trên 2 lần), 212 điều (tăng gần 4 lần), và chưa có động thái dừng lại.

Làm dự án Luật Đất đai là cơ quan hành pháp, mà làm các dự án luật sửa đổi, bổ sung luật Đất đai vẫn là cơ quan hành pháp, rất khó tránh được những khiếm khuyết cố hữu.

Tuy nhiên, hi vọng rằng Luật Đất đai mới sẽ tránh gỡ bỏ được nhiều nút thắt cho phát triển đã được thực chứng trong thời gia dài vừa qua để tạo động lực cho phát triển.

Nền kinh tế thị trường đa dạng và hội nhập

Hàng chục năm qua, thể chế luôn được nhắc đến mỗi khi kinh tế đất nước bị giảm tốc độ phát triển; cân đối vĩ mô chưa được giữ vững; các đầu tầu kinh tế bị thiếu động lực; vùng sâu/vùng xa ngày càng tụt hậu so với đồng bằng/thành phố; năng suất lao động trong nền kinh tế vẫn ì ạch chạy sau nhiều nền kinh tế trong Đông Nam Á; tham nhũng/lãng phí đã bị phòng chống quyết liệt nhưng mỗi năm lại càng nhiều thêm về số vụ/việc và tăng cao về qui mô thất thoát tài sản/ngân sách quốc gia; nguồn nhân lực cao/trung/sơ cấp của quốc gia bị rơi rụng…

Mỗi khi được nhắc đến như vậy là mỗi lần thể chế được kêu gọi, yêu cầu, đề xuất để được cải tiến, nâng cao, hoàn thiện hay đổi mới. Tiếng chuông “thể chế” cứ gióng lên liên hồi.

Người dân kỳ vọng vào thể chế kinh tế sớm ở tầm cao hơn, theo đó Quốc hội cần có thêm những năng lực mới hơn, cao hơn, toàn diện hơn về làm luật kinh tế, giảm tối đa việc làm thay của các cơ quan khác trong hệ thống của Nhà nước Việt Nam.

Vậy nền tảng thể chế của đất nước, trước hết là hoạt động lập pháp của Quốc hội, trong đó có thể chế kinh tế, cần được nâng cao hơn nữa, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường đa dạng và hội nhập.

TS. Đinh Đức Sinh

NGUỒN: Khi tiếng chuông ‘thể chế’ gióng liên hồi  [https://vietnamnet.vn/khi-tieng-chuong-the-che-dong-lien-hoi-2250551.html]

TIN LIÊN QUAN:


ĐỘT PHÁ TƯ DUY ĐỂ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ
NGUYỄN HUY VIỆN/ TVN21-2-2024

Để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế”, mục tiêu hàng đầu trong 3 đột phá chiến lược do Đại hội Đảng XIII đề ra, trước hết cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật.

Hoàn thiện đồng bộ thể chế cần đột phá về tư duy

Từ Đại hội XI (tháng 1/2011) đến nay, Đảng ta luôn xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó “hoàn thiện đồng bộ thể chế” luôn được đặt ở vị trí đầu tiên trong các nội dung đột phá. Đồng thời, quan điểm xây dựng nhà nước kiến tạo luôn được các vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nhấn mạnh trên nhiều diễn đàn.

Tuy nhiên, sau gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi Mới, 10 năm thực hiện đột phá hoàn thiện thể chế nhưng hoàn thiện thể chế vẫn là lĩnh vực còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ XIII (tháng 1/2021) đánh giá: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển".

Nguyên nhân của tình trạng này do chúng ta chưa có đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật. Có thể nói đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất trong tiến trình Đổi Mới đất nước. Xin nêu một dẫn chứng về những hệ lụy tiêu cực của việc chậm đổi mới thể chế, pháp luật đối với nền kinh tế.


Để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế” do Đại hội Đảng XIII đề ra, cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật. 

Mặc dù từ năm 1986, Việt Nam từng bước chấp nhận nền kinh kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đến Đại hội Đảng IX (tháng 4/2001), xác định phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhưng trên thực tế, chưa có tư duy và chủ trương đồng bộ, dẫn đến sự bất cập, bất công về chính sách giữa doanh nghiệp (DN) kinh tế nhà nước với DN tư nhân, giữa DN tư nhân trong nước với DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng, sau gần 40 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng DN tư nhân ở Việt Nam vẫn vô cùng èo uột.

Hiện nay, hơn 98% DN tư nhân Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, trong đó, hơn 73% là DN tư nhân siêu nhỏ. Năm 2020, chỉ có 39,7% DN tư nhân làm ăn có lãi; 18,8% DN tư nhân kinh doanh hòa vốn và có tới 41,5% thua lỗ. Đây là vấn đề báo động về kết quả kinh doanh của khối DN tư nhân Việt Nam và những khó khăn họ đang phải đối mặt là không ít.

Còn hiệu quả kinh doanh của DN tư nhân thể hiện ở lợi nhuận trước thuế lại càng ảm đạm. Lợi nhuận trước thuế của DN tư nhân rất nhỏ bé so với thu nhập trước thuế của toàn bộ các DN trong nền kinh tế. Lợi nhuận DN tư nhân trong nước chỉ chiếm khoảng từ 0,1% - 1,2%; năm 2020 tỷ trọng này còn bị âm.

Trong 4 tháng đầu năm 2023, số DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động 78,9 nghìn, nhưng đi liền với đó có 77 nghìn DN giải thể. Như vậy, số DN giải thể, phá sản, rời khỏi thị trường bằng 97,6% số DN thành lập mới.

Hiện nay, kinh tế tư nhân Việt Nam chỉ đóng góp khoảng 43% GDP, trong đó ¾ thuộc về khu vực kinh tế hộ gia đình, ¼ thuộc về khu vực doanh nghiệp có đăng ký chính thức. Trong khi, ở các nước phát triển, khu vực kinh tế tư nhân chiếm từ 85% GDP trở lên, vì vậy kinh tế tư nhân ở các nước này là nền tảng và là trụ cột đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định, vững mạnh.

Có thể đánh giá, sự èo uột của khu vực kinh tế tư nhân trong nước là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng “Qua gần 4 thập kỷ Đổi mới, tăng trưởng GDP lại theo đường lùi dần, ‘thập kỷ sau thấp hơn thập kỳ trước “từ trên/dưới 8% xuống 7%, rồi 6%, rồi 5%”.


Chưa có tư duy và chủ trương đồng bộ, dẫn đến sự bất cập về chính sách giữa doanh nghiệp (DN) kinh tế nhà nước với DN tư nhân. Ảnh: Minh Hiền

Những bài học đột phá tư duy còn tươi mới

Những thập niên 1970 và 1980, nền kinh tế nước ta trong đó có sản xuất nông nghiệp ngày càng suy thoái và trì trệ, đất nước lâm vào tình cảnh thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng.

Trước tình thế đó, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 - NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nội dung cơ bản, cốt lõi của Nghị quyết này là hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được trao quyền sử dụng đất.

Với chủ trương đó, Nghị quyết 10 đã phá bỏ những rào cản của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Qua đó, tạo nên bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết, nước ta từ quốc gia thiếu đói kinh niên đã đứng vào hàng ngũ các quốc gia xuất khẩu gạo. Và từ đó đến nay, Việt Nam liên tục là một trong những quốc gia hàng đầu của thế giới về sản xuất và xuất khẩu gạo và nhiều nông sản, hải sản khác.

Cũng trong thời kì này, chiến tranh lạnh giữa hai khối XHCN và TBCN càng ngày càng căng thẳng. Kèm theo đó, chiến tranh nóng diễn ra ở hai đầu đất nước do các thế lực hiếu chiến của các quốc gia láng giềng gây ra. Việt Nam lâm vào tình cảnh bị bao vây cấm vận vô cùng hà khắc.

Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã vượt qua “bức tường thành” ý thức hệ và những vấn đề lịch sử để lại trong quan hệ láng giềng, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong đường lối đối ngoại. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra chủ trương kiên quyết, chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.

Quan điểm đường lối đối ngoại của Đảng tiếp tục được hoàn thiện qua các kỳ đại hội sau đó. Đến Đại hội XIII, khẳng định “Việt Nam sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

Với quan điểm trên đây, Việt Nam không những nhanh chóng thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, hiện nay trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, Đối tác Chiến lược, Đối tác toàn diện với tất cả các quốc gia phát triển và các quốc gia láng giềng trong đó nhiều quốc gia từng là cựu thù.

Thành quả đối ngoại trên đây là cơ sở mở đường cho Việt Nam hội nhập quốc tế; hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng với hầu hết các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đây là cở sở để đất nước thu được những thành tựu rất quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng.

Có thể đánh giá, những thành tựu trên đây là do từ rất sớm, Đảng ta đã có đột phá tư duy trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đường lối đối ngoại.

Đồng bộ với nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập

Xuyên sốt qua các kỳ đại hội sau Đại hội VI năm 1986, Đảng ta đã có chủ trương đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, mức độ đổi mới tư duy của từng lĩnh vực chưa đồng bộ.

Cũng vì chưa có đột phá về xây dựng thể chế, pháp luật nên còn nhiều hệ lụy tiêu cực trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Đó là chưa khắc phục được các vấn nạn ‘cơ chế xin cho’, tham nhũng, chạy chức chạy quyền; hoặc lãnh đạo các cấp, các ngành và các doanh nghiệp còn bị bó buộc về cơ chế, khó phát huy được tinh thần chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Từ thực trạng trên đây cho thấy, để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế” - mục tiêu hàng đầu trong 3 đột phá chiến lược do Đại hội Đảng XIII đề ra, trước hết cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật. 

Thể chế đó phải đồng bộ với nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nguyễn Huy Viện

NGUỒN: Đột phá tư duy để hoàn thiện thể chế (TVN 21/2/2024)-Nguyễn Huy Viện [https://vietnamnet.vn/dot-pha-tu-duy-de-hoan-thien-the-che-2251058.html]

TIN LIÊN QUAN:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét