Thứ Tư, 8 tháng 11, 2023

20231109. VỀ NHỮNG ÔNG TỔ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ

  ĐIỂM BÁO MẠNG


LINH MỤC FRANCESCO DE PINA VÀ LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES
VỚI VIỆC SÁNG TẠO CHỮ QUỐC NGỮ

NGUYỄN HOÀNG TUÂN/ FB 4-11-2023




rất nhiều người đóng góp công sức, trí tuệ vào việc sáng tạo và phát triển chữ Quốc Ngữ, trong đó, hai linh mục Francesco de Pina (người Bồ Đào Nha) và linh Alexandre de Rhodes (người Pháp) có những đóng góp rất lớn lao, đến độ có thể nói đây là những ông tổ của chữ Quốc Ngữ.
Linh mục Francesco de Pina là thầy dạy tiếng Việt đầu tiên của linh mục Alexandre de Rhodes. Nhưng linh mục Alexandre de Rhodes lại có công lớn trong việc chuẩn xác các mẹo luật của Chữ Quốc Ngữ và giới thiệu thứ chữ này trên trường quốc tế, qua hai tác phẩm “Phép Giảng Tám Ngày” và “Tự Điển Việt-Bồ-La” ấn hành tại Roma năm 1651.
Năm 1615, linh mục người Ý tên là Francesco Buzomi đến Cửa Hàn (Đà Nẵng). Năm 1617, ông bị chúa Nguyễn trục xuất, lại lâm bệnh nặng, nằm tại Quảng Nam. Ông được quan trấn phủ Quy Nhơn là Trần Đức Hòa đưa về Quy Nhơn chữa bệnh. Quan trấn phủ Trần Đức Hoà là em kết nghĩa của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nên nhiều người tin rằng việc ông đưa linh mục Buzomi về Quy Nhơn không ngoài ý của chúa Sãi, nhằm tách linh mục ra khỏi những vị quan quá khích muốn trục xuất, cầm tù hoặc xử tử ông. Năm sau (1618), chính quan trấn phủ Trần Đức Hòa đã cùng linh mục Buzomi đến Cửa Hàn đón thêm những tu sĩ Công giáo khác về Quy Nhơn, trong đó có linh mục Cristoforo Borri (người Ý) và Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha). Sau đó, quan Trần Đức Hòa cấp cho nhóm giáo sĩ này một ngôi nhà đẹp ở Nước Mặn làm cơ sở truyền giáo và sáng tạo chữ Quốc Ngữ.
Có chỗ ở an toàn và tâm trí thảnh thơi, bộ ba Buzomi, Borri và Pina đã chú tâm vào việc phiên âm tiếng Việt và sáng tạo chữ Quốc Ngữ, dựa theo các mẫu tự La-tinh. Về sau, linh mục Buzomi, là bề trên, đã tình nguyện lãnh hết trách nhiệm truyền giáo, để cho hai linh mục cộng sự của mình là Borri và Pina dồn tâm trí vào việc sáng tạo chữ Quốc Ngữ.
Linh mục Pina có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ. Ông có thể giảng đạo một cách trôi chảy bằng tiếng Việt mà không cần người thông ngôn.
Năm 1624, có bốn linh mục đến Đàng Trong. Hai linh mục Gaspar Luis (người Bồ Đào Nha) và Girolamo Majorica (người Ý) vào Nước Mặn học tiếng Việt với linh mục Buzomi. Trong khi đó, hai linh mục Alexandre de Rhodes (người Pháp) và Antonio de Fontes (người Bồ Đào Nha) đến Dinh Chiêm (Dinh trấn Thanh Chiêm) học tiếng Việt với linh mục Pina (lúc ấy linh mục Pina đã được thuyên chuyển về Dinh Chiêm.)
DẤU THANH, ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỮ QUỐC NGỮ
Ban đầu, các nhà sáng tạo chữ Quốc Ngữ đều là những nhà truyền giảng đạo Công giáo người Âu châu: Bồ-đào-nha, Ý, Pháp, v.v… Họ có một khó khăn chung là làm sao nói được tiếng Việt cho người Việt hiểu. Họ bèn nghĩ ra phương pháp dùng những mẫu tự La-tinh để ghi âm tiếng nói của người Việt. Nhưng nếu có thế thôi thì thứ tiếng Việt này chỉ là một cái xác mà không có cái hồn. Ghi âm xong, đọc lên nó ngang ngang. Trong khi đó, theo họ “tiếng Việt nghe như hát, như chim hót,” tức là có nhiều thanh độ cao, thấp khác nhau. Thế là họ tìm những dấu thanh như những ký hiệu, giúp họ có thể “lên bổng xuống trầm” để nói tiếng Việt giống người bản xứ. Nếu ví chữ là “xác” thì dấu thanh chính là “hồn.” Có “hồn” nhập vào “xác” thì xác trở nên uyển chuyển, linh hoạt, duyên dáng hẳn ra.
Trong tác phẩm “Văn Phạm Việt Ngữ” (Roma, 1651) Alexandre de Rhodes viết: “Chúng tôi đã nói rằng trong tiếng này các thanh như là hồn của các từ ngữ, và bởi thế, phải rất chuyên chú học hỏi.”
Trong hệ thống chữ Quốc Ngữ, dấu thanh dùng để ghi lại độ cao, thấp, uốn, gãy… của âm. Đây là một sáng kiến tuyệt vời của những vị sáng tạo chữ Quốc Ngữ. Tại sao? Thưa, vì ngôn ngữ nào cũng có thanh độ cao thấp, nhưng trong các văn tự dùng mẫu tự La-tinh, chỉ chữ Quốc Ngữ có những dấu thanh, giúp người đọc phát âm được những độ cao thấp đó. Lấy thí dụ tiếng “cám ơn.” Tiếng Anh là “thank you”; tiếng Pháp là “merci”; tiếng Tây-ban-nha là “gracias”; tiếng Nhật là “arigato…” Khi đọc những tiếng này bằng chữ viết trên giấy, chỉ có “cám ơn” trong chữ Quốc Ngữ là có dấu “sắc” trên chữ “a” khiến người đọc biết mà đưa cao giọng lên khi đọc chữ “cám.” Trong khi đó, “thank you” phải đọc cao giọng (như có dấu sắc) trên chữ “thank” và trầm giọng xuống (như có dấu huyền) trên chữ “you.” Nếu muốn đọc đúng những “merci, gracias, arigato…” người ta đều phải thêm những dấu thanh như thế. Nhưng chúng không có. Chỉ có chữ Quốc Ngữ là có dấu thanh ngay trên chữ viết. Chẳng phải là sáng kiến tuyệt vời thì là gì?
Đối với người mới bắt đầu học tiếng Anh, giảng viên phải vẽ những đường dây cao, thấp trên hàng chữ và chấm những điểm nhấn để tập cho người ấy đọc đúng. Như thí dụ trong "bức hình" bên dưới.
Đọc chữ Quốc Ngữ thì không cần phải căng dây, điểm chấm như thế; cứ nắm vững cách phát âm những dấu thanh là đọc đúng ngay.
LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES, CON NGƯỜI CẦU TIẾN VÀ THÀNH THỰC
Ngoài việc học chữ Quốc Ngữ với linh mục Francesco de Pina, linh mục Alexandre de Rhodes còn học tiếng Việt với một cậu bé Việt Nam mới 10, 12 tuổi. Ông thuật lại:
“Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc học viết tiếng La-tinh và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé.”
Linh mục Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên dùng mẫu tự La-tinh để ghi âm chữ Quốc Ngữ. Trong “Lời Mở Đầu” cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La, ông xác nhận: “Trong công việc nầy, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francesco de Pina người Bồ Đào Nha, thuộc hội dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng nầy, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu từ tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ-đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La-tinh…”
Một con người cầu tiến, thành thực và lương thiện như thế, chúng ta có thể tin được những gì ông nói.
SÁCH GIÁO LÝ “PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY”
“Phép Giảng Tám Ngày” là một quyển toát yếu Giáo Lý Công Giáo. Tín lý Công giáo được thu gọn nhưng đầy đủ mọi điều quan trọng để trở thành những bài giảng, giảng trong tám ngày là hoàn tất. Đây là một sự sáng tạo tuyệt vời, vì quyển sách đáp ứng đúng nhu cầu giảng và học giáo lý trong buổi sơ khai của giáo hội Việt Nam. Nó dễ dạy, dễ hiểu, dễ học, dễ nhớ và dễ áp dụng.
Cuốn giáo lý Phép Giảng Tám Ngày trình bày những điều cần thiết để giúp các Thầy Giảng đọc trước, tìm hiểu thêm và rồi đem ra dạy dỗ những người dự tòng, cũng như dùng trong các lớp giáo lý khác. Hình thức và nội dung của nó ngắn gọn, có 8 ngày, đi từ những điểm giáo lý liên hệ tới con người, nguồn gốc, số phận và cùng đích của con người; rồi bàn về sự hiện hữu của Thiên Chúa; nói tới thiếu sót của một số nền luân lý và niềm tin của con người đương thời trong xã hội Việt Nam thời đó. Tiếp theo cuốn giáo lý trình bày về cuộc đời Chúa Cứu Thế. Sau cùng sách giáo lý trình bày về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi và các sự sau (tứ chung). Hình thức giảng trong 8 ngày, có lẽ là hình thức linh thao ngắn gọn mà mỗi tu sĩ Dòng Tên theo để cấm phòng mỗi năm. Linh mục Alexandre de Rhodes ưa dùng những hình ảnh, đi từ những sự kiện trong dân gian để rồi đưa tới giáo lý của đạo Công Giáo. Ngoài ra còn có thêm các điểm cụ thể của hoàn cảnh Việt Nam thời đó, như biện minh giáo lý Công Giáo trước các điều giáo huấn của Phật Giáo, Lão Giáo hay Khổng Giáo, hay niềm tin dân gian thường ngày.
Có những người “kết tội” hai linh mục Francesco de Pina và linh mục Alexandre de Rhodes là sáng tạo chữ Quốc Ngữ để truyền đạo. Thật ra, ngoài việc truyền đạo, hai vị này và rất nhiều vị thừa sai khác đã còn dùng chữ Quốc Ngữ làm phương tiện học hỏi và trao đổi văn hóa với người Việt.
Vả lại, dùng chữ Quốc Ngữ để giảng đạo thì có gì là sai, là xấu? Những người dùng chính chữ Quốc Ngữ để làm đơn, kiến nghị nhằm phủ nhận công ơn và kết tội những vị sáng chế ra chữ Quốc Ngữ ấy mới thật sự là sai, là xấu.
LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES VÀ VẤN ĐỀ TÔN TRỌNG VĂN HÓA
Đối với linh mục Alexandre de Rhodes, khi mới tiếp xúc với miền Á Đông, mọi sự đều khác lạ. Một số người Tây phương đã tỏ thái độ miệt thị khinh bỉ dân bản xứ. Trái lại, với tâm hồn quảng đại, linh mục Alexandre de Rhodes đã quan sát kỹ lưỡng, tìm hiểu ý nghĩa cao đẹp của các tập quán. Ông đã cảm phục và nhìn nhận những tinh hoa, những điểm tốt đẹp trong thuần phong mỹ tục của Việt nam.
Linh mục rất am tường tinh thần đạo đức và tín ngưỡng đặc biệt của dân tộc Việt nam. Ông đề cao Niềm Tin cổ truyền ở một Vị Thần Siêu Việt hơn hết mọi người, mọi vật mà dân chúng thường kêu xin là “Ông Trời”. Linh mục cũng đã khen ngợi: lòng Hiếu Thảo của người Việt Nam hơn mọi dân nước trên thế giới. Có thể ông chưa có thời giờ đủ để tìm hiểu triết thuyết của Tam Giáo.
Dầu khen ngợi lòng sùng đạo của dân Việt, linh mục Alexandre de Rhodes đã chỉ trích những tập tục mang mầu sắc dị đoan mê tín như đốt vàng mã, hoặc làm tổn thương đến nhân phẩm, vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, và di hại cho sự hợp nhất của gia đình, như tục đa thê.
Theo các lời tự thuật trong các sách Du Kí, linh mục Alexandre de Rhodes đã quan sát khá tinh vi về nếp sống của dân chúng Việt nam. Ông thấy phụ nữ Việt Nam thời đó bị nam giới chèn ép, không coi trọng. Do đó, để nâng cao nhân phẩm người phụ nữ, ông đã cương quyết rao giảng chế độ “nhất phu nhất phụ”, dầu bị vua chúa cấm cách, bỏ tù, trục xuất.
TẠM KẾT
Nói rằng linh mục Francesco de Pina và linh mục Alexandre de Rhodes sáng tạo chữ Quốc Ngữ để làm phương tiện cho người Pháp xâm chiếm Việt Nam, đó là chuyện nực cười. Chữ Quốc ngữ được sáng tạo năm 1618. 240 năm sau (gần hai thế kỷ rưỡi,) tức là năm 1858, lính Pháp mới tấn công cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm chiếm và đô hộ Việt Nam. Chẳng lẽ những vị này “nhìn xa trông rộng” đến độ sáng tạo chữ Quốc Ngữ với mục đích để hai thế kỷ rưỡi sau, người Pháp dùng nó mà đặt nền cai trị lên đất nước Việt Nam?
Chúng ta mắc nợ và mang ơn những vị sáng tạo chữ Quốc ngữ nhiều lắm, thứ chữ mà học giả Dương Quảng Hàm hết lời tán tụng: “Ở trên hoàn cầu không có thứ chữ viết nào tiện lợi và dễ học dễ biết bằng thứ chữ ấy.” (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, 1944, trang 177).
Thế mà…
Thôi, chẳng muốn nói nữa!
__________________________
Các tài liệu tham khảo và trích dẫn, trích đoạn:
. Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes – bản dịch của Hồng Nhuệ
. Hành Trình Truyền Giáo, Alexandre de Rhodes – bản dịch của Hồng Nhuệ
. Tự Điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes
. Lịch Sử Giáo Hội, Linh mục Bùi Đức Sinh
. Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm
. Linh Mục Đắc Lộ, Vị Sáng Lập Chữ Quốc Ngữ Và Xây Dựng Thiên Chúa Giáo Tại Việt Nam, Linh mục Jos Cao Phương Kỷ
. Tiếp Nối Bước Chân Truyền Giáo, Lm Giuse Trần ngọc Liên & Lm Hướng Dương, Dalat
. Alexandre de Rhodes, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
. Việc dạy giáo lý thời cha Đắc Lộ, ĐÔ Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
. Cha Đắc Lộ với Xứ Thanh, Mạng lưới Giáo Phận Thanh Hóa
. Đường Lối Truyền Giáo của Cha Đắc Lộ tại Việt Nam, Mạng lưới Thánh Ca Việt Nam.
Nguồn: GIÁO XỨ CỬA SÓT đăng ngày 2/12/2019

VIỆC TÔN VINH TIẾNG VIỆT, CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHUYẾN ĐI TRI ÂN LINH MỤC FRANCISCO DE PINA TẠI GUARDA, BỒ ĐÀO NHA

GS. NGUYỄN ĐĂNG HƯNG/FB 6-11-2023


1. VÀI LỜI MINH ĐỊNH
Khi đứng ra cáng đáng việc tri ân các bậc tiền bối, nhất là các giáo sỹ, chúng tôi đã không đứng theo lập trường của người Pháp như một bộ phận quan trọng có tư duy phe phái thực dân đã ca tụng quá đáng ngài Alexandre de Rhodes. Chúng tôi chỉ là người Việt bình thường, không có tín ngưởng cơ đốc. Chúng tôi biết rõ các giáo sỹ phương Tây đặc biệt các giáo sỹ người Bồ Đào Nha, người Ý, thần dân của Đức Giáo Hoàng…, đã sang Đại Việt vào thế kỷ XVII với mục dích duy nhất là truyền đạo. Và khi bắt tay vào công việc tìm hiểu tiếng Việt, xác định đặc thù của cách phát âm của người Việt, họ chỉ có mục đích là thực hiện công tác truyền đạo một cách có hiệu quả nhất. Chúng tôi cũng ý thức là các nhà truyền đạo phương Tây chỉ là những thành viên đặc cách của đạo cơ đốc, có tư duy cực đoan đặc thù lúc bấy giờ, đặc biệt đề cao đạo mình và sẵn sàng bài bác các tôn giáo khác ngay cả tục lệ thờ cúng ông bà của dân tộc Việt.
Tuy là một kỹ sư, nhà khoa học ứng dụng, chúng tôi cũng ý thức được là khoa học lịch sử có yếu tố thời gian hoàn cảnh và mọi phán xét phải được đặt trong tình huống cá biệt tương thích của thời điểm. Sẽ không công bằng, sẽ phản bội lịch sử, nếu ta suy xét thế kỷ thứ XVII bằn nhân quan, hệ giá trị tâm lý và đạo đức của thế kỷ XX hay XXI. Điều chúng tôi có thể khẳng định không sai là các giáo sỹ sang truyền đạo là những nhà ngôn ngữ học uyên thâm, hiểu biết nhiều ngôn ngữ Âu-Á, đặc biệt những ngôn ngữ hoàn chỉnh thể hiện tính khai sáng như Hy Lạp, La Tinh, Bồ Đào Nha, Ý… Chính nhờ vốn học thuật đẳng cấp đó mà khi bắt tay vào việc tác tạo ra chữ quốc ngữ dùng ký tự roman, họ đã có được một công trình giao thoa Âu-Á, một sản phẩm tập thể nhiều tác giả đẳng cấp có tính khoa học nghiêm túc, đảm bảo cho việc ký tự âm vực cho tiếng Việt, thể hiện đầy đủ và chính xác tiếng Việt ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi chỉ là người Việt tôn trọng truyền thống uống nước nhớ nguồn, tri ân những ai đã có công tác tạo và phổ biến Chữ Quốc Ngữ mà chúng tôi và con cháu đang xử dụng rất có hiệu quả ngày nay! Tinh thần tri ân là một giá trị đạo đức đến từ lòng tự trọng, sự công nhận khách quan về việc nhận lãnh một lợi ích. Ở đây là lợi ích văn hóa, lợi ích tinh thần.
Lòng tri ân song hành với sự kính trọng! Người Việt có câu: “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Trong trường hợp chữ quốc ngữ, không phải chỉ một chữ mà một hệ thống ký âm tuyệt vời đẳng cấp có ảnh hưởng đến tương lai văn hóa cho toàn dân tộc.
H1. Hình chụp tại nhà thờ André Phú Yên tại Thanh Chiêm (2018)
Trong những động tác ban đầu tham khảo ý kiến của các bậc thức giả Việt mà tôi kính trọng. Năm 2018, tôi đã chủ động đi Hội An thăm Nhà Thờ Hội An nhà thờ đầu tiên được xây rất sớm (1616) tại Việt Nam. Đó là một buổi chiều chủ nhật! Linh mục chánh xứ tiếp tôi sau thánh lễ buổi chiều. Ngài rất hân hoan khi được tôi cho hay ý định của tôi về việc tri ân các giáo sỹ đã tác tạo ra chữ quốc ngữ. Tôi còn nhớ lời ngài :
“Việc này phức tạp mà nay được một nhà khoa học như giáo sư quan tâm là một điều may!”.
Ngài khuyến khích tôi và sẵn lòng tạo điều kiện tư liệu để tôi tham khảo. Đây là thái độ khích lệ chân thành của người trong cuộc làm tôi bắt đầu tự tin.
Sau đó tôi quyết định ra Hà Nội tham khảo ý kiến các nhân sỹ Bắc Hà. Tôi không quên bữa ăn chiều trong một nhà hàng bên Hồ Tây. Hôm có đông đảo các trí thức, học giả uyên thâm mà tôi được biết. Trên 20 người nay tôi không nhớ hết! Tôi bảo với họ: Tôi chỉ mà một người ngoại đạo, việc bảo vệ chữ quốc ngữ cần những trí thức trong cuộc có uy tín, những sỹ phu Bắc Hà. Tôi yêu cầu họ chỉ định một cá nhân uyên thâm có điều kiện bắt tay vào việc. Tôi bất ngờ là họ nhất trí bảo:
“Giáo sư đã đưa ra ý kiến trên mạng (mà họ chứng kiến) đã được tuyệt đối đa số ủng hộ. Chỉ giáo sư mới có chính danh hoàn thành nhiệm vụ”.
Tôi nhớ hôm ấy anh Nguyễn Khắc Mai ngồi bên cạnh tôi nhắc nhở tôi là trí thức Hà Nội rất ủng hộ và anh mong tôi tiếp tục công việc…
Hình 2. Lẵng hoa tri ân đặt ngày đi tiền trạm tại khu mộ ngài Alexandre de Rhodes, Isfahan, Iran (2018)
2. TỔ CHỨC LỂ TRI ÂN LINH MỤC FRANCISCO DE PINA TẠI GUARDA, BỒ ĐÀO NHA.
Francisco de Pina đã sớm từ Macao đến Hội An năm 1617 và sau một thời gian ở Nước Mặn Bình Định, năm 1621 đã chọn ở hẳn tại Thanh Chiêm, dinh trấn của Chúa Nguyễn làm địa bàn học hỏi nghiên cứu, mua một nhà ở và cái thứ hai xây dựng giáo đường, mở mang công trình kiến tạo chữ viết cho người Việt. Một lớp dạy chữ quốc ngữ đã được ông khai sinh ở đây mà môn sinh nổi tiếng ngay sau đó chính là cha Alexandre de Rhodes. Trong thư gửi về cho các cha bề trên tại Bồ Đào Nha đầu năm 1623 ta còn đọc được ý định của cha Francisco de Pina về việc biên soạn một bộ ngữ pháp tiếng Việt.
Từ ngày có công bố nghiên cứu cụ thể và chặt chẽ của GS Rolland Jacques, một linh mục người Pháp, giới ngôn ngữ học Việt Nam đã không còn nghi ngờ gì nữa. Cha Francisco de Pina được coi là người tiên phong đặt nền móng cho sự ra đời của Chữ Quốc Ngữ. Dĩ nhiên, sự ra đời này có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, Đức, Thụy Sỹ, Nhật, nhất là các cộng tác viên con chiên người Việt, tuy tên tuổi không được ghi lại một cách chính xác.
Chúng tôi cũng mang sang đây biểu tượng bề cao 3 m, bề ngang 1m 65, đúc thủ công bằng đồng. Biểu tượng này phát xuất từ ý tưởng ban đầu của ban Chủ trương Quỹ “Tôn Vinh tiếng Việt và Chữ Quốc Ngữ” và được Công ty Huy Anh ở Tam Kỳ sáng tạo, bắt đầu thực hiện ngày 15/12/2020, 395 năm sau ngày giáo sỹ Francisco de Pina chết ngoài khơi bờ biển Hội An.
Hợp đồng thực biện tượng đài với công ty Huy Anh tại Tam Kỳ lên 700 triệu! Với tài chánh hạn hẹp đến từ đóng góp trực tiếp của các thành viên, đặc biệt các thành viên tháp tùng sang Bồ Đào Nha và tiền thâu được từ việc bán sách của GS Nguyễn Đăng Hưng (Bộ sách GIẤC MƠ VIỆT NAM TÔI), chúng tôi đã chưa thanh toán hết khoản nợ. Tuy vậy, công ty Huy Anh vẫn hào phóng cho phép chúng tôi vận chuyển tượng đài kịp thời sang Guarda.
H3. Biểu tượng bằng đồng đúc tại Thanh Chiêm, Điện Bàn
Tượng đài phỏng theo hình dáng chiếc thuyền buồm vào thế kỷ thứ 16 đã được Ngài De Pina chọn làm phương tiện đi sang nước Việt, phía dưới dập nổi hình trống đồng Đông Sơn, biểu tượng của văn minh cổ Đại Việt. Buồm có 2 phần. Phần cánh buồm thẳng đứng, chúng tôi ghi lại lời tri ân của người Việt như sau : “Tấm bia này là biểu tượng tri ân cha FRANCISCO DE PINA, một trong những người đầu tiên đã tác tạo ra Chữ Quốc ngữ, chữ viết tiếng Việt dùng ký tự la tinh”.
H4. Lời tri ân được khắc bằng 3 ngôn ngữ dán trên cánh buồm biểu tượng
Phần cánh buồm no gió, chúng tôi vì không có chân dung nào để lại của cha Francisco de Pina chúng tôi cho in lại nguyên văn thủ bút của ngài, sáu khuông nhạc ghi rõ 6 thanh điệu của tiếng Việt và lời giải thích bên cạnh như sau:
H5. Thủ bút bản nhạc 6 dòng của giáo sỹ Francisco de Pina được in lại trên cánh buồm biểu tượng
Ngoài ra, chúng tôi cũng để lại dấu ấn LOGO của ‘QUỸ TÔN VINH TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ QUỐC NGỮ.
H6. LOGO của QUỸ TÔN VINH TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ QUỐC NGỮ.
Biểu tượng này sẽ được khánh thành ngày 26/11/2023 tại vuờn hoa thư viện Eduardo Lurenço, thành phố GUARDA.
H7. Tượng đài đặt tại vuờn hoa thư viện Eduardo Lurenço, thành phố GUARDA (26/11/2023)
3. LỜI KẾT
Việc đặt tượng đài tri ân ngài Francisco de Pina tại GUARDA thành phố quê hương của ngài là sinh hoạt nối tiếp việc đặt bia tri ân ngài Alexandre de Rhodes, người có công thực hiện cuốn từ điển đầu tiên quốc tế hóa Chữ Quốc Ngữ mà chúng tôi đã thực hiện cách đây đúng 5 năm (2018) tại ngôi mộ của ngài ở ISFAHAN, Iran.
H8. Ảnh lưu niệm toàn đoàn và khách nước ngoài ngày khánh thành bia tri ân giáo sỹ Alexandre de Rhodes, Isfahan, Iran (tháng 11/2018)
H9. Hình chụp tại sảnh UBNND thành phố Guarda ngày đi tiền trạm
H10. Hình chụp với Chủ Tịch UBNND thành phố Guarda ngày đi tiền trạm
H11. Hình chụp tại sân vườn thư viện thành phố Guarda ngày đi tiền trạm
H12. Hình chụp tại thư viện thành phố Guarda ngày đi tiền trạm
Chúng tôi ý thức rằng việc tri ân các bậc tiền bối đã tác tạo và phổ biến chữ quốc ngữ là việc làm hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam : “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Tri ân cha Francisco de Pina, chúng tôi cũng xin tri ân thành phố Guarda quê hương của một ân nhân của dân tộc Việt.
Cám ơn chính quyền thành phố đã dành cho chúng tôi sự đón tiếp ân cần và nồng hậu. Biểu tượng đúc bằng đồng tại Thanh Chiêm nơi ngài đã đặt chân đến nay đã hơn 400 năm sẽ giữ lại đây hơi ấm của tấm lòng con dân 100 triệu người Việt Nam, trong nước cũng như ở nước ngoài, hằng ngày nói tiếng Việt và đọc viết bằng CHỮ QUỐC NGỮ.
Thủ Đức ngày 6/11/2023
Nguyễn Đăng Hưng
GIÁM ĐỐC QUỶ TÔN VINH TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ QUỐC NGỮ, ĐIỆN BÀN, QUẢNG NAM
*****
PHỤ LỤC: Mời quý vị vừa xem cuốn phim ngắn quay NGÀY KHÁNH THÀNH, 5/11/2018

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét