Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017

20170726. VIỆT NAM TỤT HẬU BAO XA SO VỚI LÁNG GIỀNG ?

ĐIỂM BÁO MẠNG
VIỆT NAM TỤT HẬU BAO XA SO VỚI  LÁNG GIỀNG ?

TƯ HOÀNG/ TBKTSG/BVN 25-7-2017

Kết quả hình ảnh cho việt nam tụt hậu so với các nước

(TBKTSG Online) - Một báo cáo tổng hợp của Tổng cục Thống kê đã phác thảo tình trạng lạc hậu, tụt hậu của Việt Nam so với hàng loạt các quốc gia trong khu vực.
Theo đó, từ năm 2008 Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nhưng khoảng cách về GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực còn lớn và có nguy cơ bị nới rộng.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.052 đô-la Mỹ, gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ tương đương mức GDP bình quân của Malaysia năm 1988, Thái Lan năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010, và Hàn Quốc năm 1982.
GDP bình quân đầu người năm 2014 của Việt Nam bằng 3/5 của Indonesia, 2/5 của Thái Lan, 1/5 của Malaysia, 1/14 của Hàn Quốc và bằng 1/27 mức GDP bình quân của Singapore.
Xét trên giác độ GDP bình quân đầu người, Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm, sau Malaysia 25 năm, Thái Lan 20 năm, sau Indonesia và Philippines 5-7 năm.
Trong khi đó, về cân đối tài khóa, tình trạng bội chi ngân sách và nợ công đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP xếp thứ 9 trong khu vực ASEAN (năm 2001) đã tăng lên thứ 5 (năm 2013).
Thị trường tài chính của Việt Nam phát triển tương đối thấp và còn nhiều bất ổn so với một số nước trong khu vực. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu của Việt Nam năm 2012 là 32,9 tỉ đô-la Mỹ (Malaysia là 476,3 tỉ đô-la Mỹ, Singapore 414,1 tỉ đô-la Mỹ, Indonesia 396,8 tỉ đô-la Mỹ, Thái Lan 383 tỉ đô-la Mỹ, Philippines 264,1 tỉ đô-la Mỹ).
Việt Nam đã huy động được nguồn vốn lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng hiệu quả đầu tư còn thấp.
Hệ số ICOR của Việt Nam 2011-2013 là 6,99, cao hơn của Indonesia (4,64), Lào (2,59), Malaysia (5,40), Philippines (4,10), Trung Quốc (6,40), nghĩa là đầu tư của Việt Nam kém hiệu quả nhất so với các nước này.
Về xếp hạng môi trường kinh doanh 2015 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện ở vị trí thứ 78/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. So với các nước ASEAN, Việt Nam đứng sau Singapore (vị trí số 1), Malaysia (18) và Thái Lan (26); Việt Nam xếp trên Philippines (95), Bruney (101), Indonesia (114), Campuchia (135), Lào (148) và Myanmar (177).
Việt Nam có lực lực lượng lao động dồi dào nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông nghiệp, chiếm 46,3%, tương đương với tỷ lệ của Thái Lan vào năm 1995, Philippines và Indonesia đầu thập kỷ 90, gấp 2,4 lần Malaysia và 4 lần Hàn Quốc năm 1995. Tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp năm 2012 của Malaysia là 12,6%, Philippines 32,2%, Indonesia 35,1%, và Thái Lan 36,9%.
Theo vị thế việc làm, lao động Việt Nam chủ yếu làm các công việc gia đình hoặc tự làm (có thu nhập thấp, bấp bênh, không ổn định), chiếm tới 62,7% tổng việc làm 2013.
Chất lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, hiệu quả sử dụng lao động qua đào tạo chưa cao. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2014 của Việt Nam là 18,2%.
Tỷ lệ biết chữ của Việt Nam đứng sau Philippines, Thái Lan. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 95%, thấp hơn Thái Lan và Indonesia (98%).
Theo đánh giá của WB về kinh tế tri thức: Chỉ số giáo dục của Việt Nam năm 2012 là 2,99 (thấp hơn bình quân thế giới là 4,35, bình quân của khu vực 5,26), xếp thứ 113, thấp hơn so với Hàn Quốc thứ 4, Malaysia thứ 75, Philippines thứ 85, Thái Lan thứ 93 và Indonesia thứ 102.

TỪ KẾT QUẢ KHÁC BIỆT GIỮA 2 PHƯƠNG PHÁP TÍNH GDP

BÙI TRINH/ TBKTSG 24-7-2017


(TBKTSG) - GDP là một trong nhiều chỉ tiêu vĩ mô trong Hệ thống các tài khoản quốc gia của Liên hiệp quốc (System of National Accounts - SNA). Theo chuẩn mực, GDP được tính bằng ba phương pháp, bao gồm:
(1) Phương pháp sử dụng cuối cùng (từ phía cầu): GDP = tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình + chi tiêu thường xuyên của Chính phủ + chi đầu tư (tích lũy tài sản cố định và tài sản lưu động) + chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ;
(2) Phương pháp sản xuất (từ phía cung): GDP = Giá trị tăng thêm theo giá cơ bản(1) của các ngành trong nền kinh tế + Thuế sản phẩm (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) - trợ giá sản phẩm;
(3) Phương pháp thu nhập: GDP gồm thu nhập của người lao động, thặng dư sản xuất, khấu hao tài sản cố định, thuế sản phẩm trừ trợ giá sản phẩm.
Hiện nay cơ quan thống kê Việt Nam cơ bản tính GDP theo phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng cuối cùng; GDP tính theo phương pháp thu nhập hàng năm không tồn tại, GDP theo phương pháp này chỉ được biết đến khi có bảng cân đối liên ngành.
Một điều ngạc nhiên là khi nhìn vào tăng trưởng GDP theo phương pháp sản xuất và tăng trưởng GDP theo phương pháp sử dụng cuối cùng, ta thấy khác nhau khá nhiều. Có năm tăng trưởng GDP theo phương pháp sản xuất cao hơn tăng trưởng GDP theo phương pháp sử dụng cuối cùng, có năm lại thấp hơn. Trong một số năm sự chênh lệch này là rất lớn, như năm 2006, 2007, 2010, 2012. Năm 2015, tăng trưởng GDP theo phương pháp sản xuất là 6,68% nhưng tăng trưởng GDP từ phía cầu chỉ là 5,77% (xem hình). Điều này xảy ra do việc để sai số giữa hai phương pháp là tương đối tùy tiện.
Mấu chốt của vấn đề là hiệu quả đầu tư và năng suất chứ không phải tăng trưởng bao nhiêu. Tăng trưởng 1% nhưng đất nước và người dân được hưởng còn hơn tăng trưởng 10% mà làm nền kinh tế yếu đi do nợ, do bội chi, do rủi ro về lạm phát!
Về nguyên tắc, GDP tính bằng phương pháp nào (sản xuất, sử dụng cuối cùng hay thu nhập) đều phải bằng nhau. Tăng trưởng GDP về bản chất là tăng trưởng về lượng (loại bỏ yếu tố tăng do giá) nên dù giá thực tế của sản phẩm nông nghiệp hạ, giá dầu hạ, giá bán thấp hơn giá sản xuất (kinh doanh thua lỗ) vẫn làm GDP tăng. Đấy là một trong nhiều hạn chế nếu chỉ nhìn vào tăng trưởng GDP!
Theo thông báo của cơ quan thông kê, tăng trưởng GDP sáu tháng đầu năm là 5,73%, dẫn đến một làn sóng lo lắng về tăng trưởng cả năm có đạt mục tiêu 6,7% hay không. Một số chuyên gia cho rằng nếu không đạt được chỉ tiêu này thì sẽ mất cân đối vĩ mô, tỷ lệ bội chi so với GDP, tỷ lệ nợ công so với GDP sẽ vượt ngưỡng cho phép...
Nhưng nếu tính GDP theo phương pháp sử dụng cuối cùng thì có phải như vậy không? Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm của cơ quan thống kê dường như chưa bao gồm doanh thu của thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ. Theo Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, tỷ trọng của loại hình thương mại này chiếm khoảng 2% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ và tăng trưởng của loại hình thương mại này trên 20%. Như vậy, ước tính tiêu dùng của hộ gia đình ít nhất tăng trưởng trên 8% và ước tính đầu tư tăng trưởng trên 8% trong sáu tháng đầu năm nay.


 Để ý rằng theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), xuất khẩu hàng hóa theo giá FOB là 97,8 tỉ đô la Mỹ và nhập khẩu hàng hóa theo giá CIF là 100,5 tỉ đô la Mỹ. Như vậy, trong phần nhập khẩu dịch vụ phải trừ đi phần phí vận tải và bảo hiểm đã nằm trong giá CIF của nhập khẩu hàng hóa. Do đó, trong sáu tháng đầu năm, chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ là dương (xuất siêu) trên hai tỉ đô la Mỹ (xem bảng). Điều này, theo tôi, cho thấy tăng trưởng GDP theo phương pháp sử dụng cuối cùng cao hơn tăng trưởng GDP tính theo phương pháp sản xuất và tăng trưởng GDP trong sáu tháng đầu năm 2017 thực chất đã cao xấp xỉ 7%.
Cũng theo báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội của TCTK, tăng trưởng tín dụng sáu tháng đầu năm 2017 đạt 7,54%, là “mức tăng cao nhất trong sáu năm trở lại đây”, tổng phương tiện thanh toán cũng tăng xấp xỉ 6%. Tuy tỷ lệ cung tiền (M2)/GDP không được công bố nhưng ước tính cũng ở mức khá cao. Điều này cho thấy vấn đề đáng lo ngại là lạm phát quay lại chứ không phải lo về tăng trưởng. Nếu nhìn nhận GDP tăng trưởng từ phía cung thấp có thể dẫn đến những quyết sách sai lầm như một số ý kiến cho rằng tăng cung tiền M2 để hỗ trợ tăng trưởng trong nửa cuối năm 2017(2).
Ngoài ra, từ bảng cân đối liên ngành của TCTK, có thể thấy thu nhập từ sản xuất trong giá trị tăng thêm chỉ bằng 94% GDP, để có thể tiêu dùng và đầu tư, khu vực hộ gia đình cần một lượng thu nhập từ ngoài sản xuất (từ sở hữu và chuyển nhượng từ các khu vực thể chế khác). Do đó, việc tăng GDP một cách gượng ép chỉ làm nguồn lực của nền kinh tế yếu đi trong trung và dài hạn và chính nó là tác nhân gây nên những mất cân đối về vĩ mô.
Do thu nhập từ sản xuất thấp hơn mức tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, nên có thể hiểu được những kiến nghị về tăng lương cơ bản. Nhưng cũng theo bảng cân đối liên ngành của Việt Nam, hệ số co giãn về lao động đã tăng từ 64% trong giai đoạn 2007-2012 lên 78% trong giai đoạn 2012-2017, điều này đồng nghĩa với hệ số co giãn của vốn giảm từ 36% xuống 22%. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn này phải cần một lượng vốn rất lớn mới có thể tạo ra tăng trưởng, nghịch lý này xảy ra do việc tăng lương không tương ứng với tăng năng suất. Không tăng lương sẽ khiến đời sống người lao động khó khăn (làm không đủ xài), nhưng tăng lương thì lại làm doanh nghiệp và nền kinh tế yếu đi trong những chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Tôi cho rằng mấu chốt của vấn đề là hiệu quả đầu tư và năng suất chứ không phải tăng trưởng bao nhiêu. Tăng trưởng 1% nhưng đất nước và người dân được hưởng còn hơn tăng trưởng 10% mà làm nền kinh tế yếu đi do nợ, do bội chi, do rủi ro về lạm phát!
(1) Bao gồm thu nhập của người lao động, thặng dư sản xuất và khấu hao tài sản cố định.
(2) http://vietnambiz.vn/hsc-tang-cung-tien-m2-trong-nua-cuoi-nam-2017-de-dat-muc-tieu-tang-truong-gdp-22611.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét