Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

20170717. GÓC NHÌN KHÁC VỀ LÀO VÀ CAMPHUCHIA

ĐIỂM BÁO MẠNG
TRANG SỬ THEO THỰC ĐƠN KHMER ĐỎ VÀ MẠCH SỐNG TRUNG QUỐC

NGÔ THẾ VINH/ tuan's blog  9-7-2017


Tưởng niệm hai triệu vong linh đã chết trong thời kỳ Khmer Đỏ
Lời Dẫn: "History à la carte", là một thuật ngữ rất mới của Chương Lập Phàm/ Zhang Lifan một sử gia Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn báo New York Times [March, 2015], ông đã đưa ra một ví von: "lịch sử theo thực đơn / history à la carte", theo cái nghĩa nhà nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên truyền những điều thấy có lợi, trong khi cố né tránh những khía cạnh tiêu cực có thể gây chỉ trích. Mối liên hệ thắm thiết giữa Bắc Kinh và Khmer Đỏ đang là trang khuyết sử, không có trong thực đơn của Trung Quốc. (1)   
"Không có trợ giúp của Trung Quốc, chế độ Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần lễ. Without China's assistance, Khmer Rouge regime would not last a week" Andrew Mertha, Cornell University 2014. (2)
"Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc không có liên hệ chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp chỉ giới hạn trong việc cung cấp thực phẩm và nông cụ." Trương Kim Phong/ Zhang Jinfeng, đại xứ TQ tại Cambodia, 2010. (1)
*
       Dân số Cambodia 2017 hơn 16 triệu, tăng rất nhanh hơn gấp đôi so với năm 1975 chỉ có hơn 7.5 triệu, hơn 90% theo Đạo Phật Nguyên Thuỷ hay Phật giáo Nam Tông / Theravada Buddhism được coi như quốc giáo của Cambodia. Các sắc tộc thiểu số chính bao gồm: người Việt, người Chăm, người Hoa.
CHÂU ĐẠT QUAN, VÀ CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ
       Vào cuối thế kỷ 13, triều đại nhà Nguyên / Yuan một người Tàu tên Châu Đạt Quan / Chou Ta-Kuan周达观 gốc Ôn Châu / Wenzhou tỉnh Phúc Kiến, nhà hải hành Trung Hoa, đã du hành từ Biển Đông rồi theo sông Mekong lên tới Biển Hồ tới thăm Angkor (1296) vào thời vua Indravarman III, lưu lại đó gần một năm (1297). Châu Đạt Quan không phải là người Tàu đầu tiên tới xứ Chùa Tháp, nhưng ông được biết tới do cuốn hồi ký kỳ thúChân Lạp Phong Thổ Ký 真臘風土記, viết về địa lý nhân văn nước Chân Lạp tức Cambodia ngày nay; cuốn sách sau đó được dịch sang tiếng Pháp [Mémoires Mémoires sur les Coutumes du Cambodge], tiếng Anh [The Customs of Cambodia], tiếng Đức [Sitten in Kambodscha], và tiếng Việt của ký giả Lê Hương, do Kỷ Nguyên Mới xuất bản 1973. 

Hình 1: từ trái, Chân Lạp Phong Thổ Ký, bản tiếng Việt của Lê Hương, Saigon 1973; Mémoires sur les Coutumes du Cambodge, bản tiếng Pháp của Paul Pellot, Hà Nội 1902; The Customs of Cambodia, bản tiếng Anh 1993; Sitten in Kambodscha, bản tiếng Đức 1999; [nguồn: internet]   
      Học giả Tây phương như Peter Harris, người có công dịch từ nguyên bản tiếng Hán sang tiếng Anh đã đối chiếu chuyến du hành thám hiểm của Marco Polo và Châu Đạt Quan trong cùng thời kỳ này. 
      Có lẽ người Tàu đã có mặt trên xứ Chùa Tháp sớm hơn nhiều. Trường hợp Châu Đạt Quan cũng giống như Henri Mouhot sau này, tuy Mouhot (1826-1961) không phải là người Tây Phương đầu tiên tới Angkor nhưng do những trang bút ký hấp dẫn và lôi cuốn được in ra 3 năm sau khi ông mất khiến tên tuổi Mouhot đã gắn liền với khu đền đài Angkor. 
NGƯỜI TÀU TRÊN ĐẤT MIÊN
      Do người Tàu hầu như đã có mặt khắp nơi trên thế giới, nên mới có câu tục ngữ ví von: “Ở đâu có khói, thì ở đó có người Tàu! Where there's smoke, there's Chinese” 
[Bước sang thế kỷ 21, câu ví von trên mang thêm một ý nghĩa khác: “Ở đâu có khói, thì ở đó có Tàu! Where there's smoke, there's China” theo cái nghĩa, nơi nào có Tàu nơi đó có ô nhiễm, vì Trung Quốc là quốc gia hàng năm thải ra 9.7 tỉ tấn khí CO2, chiếm 1/4 tổng lượng khí thải nhà kính / greenhouse gases toàn cầu, nhiều hơn của cả hai nước kỹ nghệ Mỹ và Ấn Độ cộng lại].
      Vào khoảng cuối thế kỷ 17, đời nhà Thanh do những biến động chính trị ở Hoa lục với phong trào Bài Mãn Phục Minh nên đã có đông đảo những cộng đồng người Hoa di cư xuống các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái. Họ có gốc gác từ các tỉnh duyên hải phía đông nam Trung Quốc như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, mà người Khmer gọi một tên chung là Cambodia's Hua Chiao hay người Hoa hải ngoại / Overseas Chinese. Đặc điểm của đám di dân này đa số là đàn ông, và qua những cuộc hôn nhân hợp chủng, họ mau chóng hội nhập vào các cộng đồng cư dân bản địa.
       Không ít các cấp lãnh đạo xứ Chùa Tháp đều ít nhiều có mang huyết thống Hán tộc bước sang thế hệ thứ hai thứ ba như Lon Nol [ông ngoại là người Hoa gốc Phúc Kiến/ Fujian], Ieng Sary [sinh đẻ ở Trà Vinh, nam Việt Nam, mẹ gốc Hoa], Khieu Samphan [cũng có gốc Hoa từ bà ngoại], Nuon Chea [có cha người Hoa và mẹ người Khmer lai Hoa], Pol Pot [có cha là người Khmer gốc Hoa và Saloth Sar là một tên khác của Pol Pot, Sar có nghĩa là trắng trong ngôn ngữ Khmer, để phân biệt với nước da rất sậm của người Khmer thuần chủng]...
      Sau thời kỳ Khmer Đỏ, trong những năm gần đây, đã lại có thêm những đợt người Tàu từ Hoa Lục, Đài Loan, Mã Lai di cư vào Cambodia tìm cơ hội làm ăn lập nghiệp.  
      Người Tàu có khả năng thích nghi cao, họ tới các thành phố nhưng cũng có mặt cả những vùng thôn quê hẻo lánh. Và điều ai cũng nhận thấy là các cộng đồng người Hoa dễ dàng được đón nhận và họ không có khó khăn để hoà nhập vào xã hội người Miên. Do có tài buôn bán và cần cù chịu khó lại đoàn kết nên họ nhanh chóng trở thành những doanh nhân thế lực khống chế nền thương mại kinh tế và cả có nhiều ảnh hưởng chính trị trên quốc gia này.
      Rất khác với người Việt cho dù đã trải qua nhiều thế hệ, sinh đẻ trên đất Miên nhưng họ vẫn luôn luôn bị kỳ thị do mối thù hận lịch sử và bị người Khmer gọi một cách bỉ thử là bọn "Yuon / bọn bắc", và cả với cộng đồng người Chăm theo đạo Islam cũng bị người Khmer nghi kỵ vì bị coi như hợp tác với người Việt trong quá khứ như một lực lượng kìm kẹp. Người Việt và người Chăm sống trên đất Miên là hai cộng đồng thiểu số bị sát hại nhiều nhất qua chính sách tẩy sạch chủng tộc / ethnic cleansing trong thời kỳ Khmer Đỏ.       Không có con số chính xác về số người Tàu hiện sống ở xứ Chùa Tháp, con số 500 000 vẫn được xem là quá thấp, vì số đông người Miên gốc Hoa / Chinese Cambodian đã được coi như người Miên không nằm trong con số thống kê này.  
KHMER ĐỎ VÀ CHINA CONNECTIONS
      700 năm sau chuyến du hành thăm xứ Chùa Tháp của Châu Đạt Quan, mối liên hệ giữa Cambodia và Trung Quốc là một chặng đường lịch sử rất gập ghềnh và phức tạp. Nếu lấy dấu mốc kể từ ngày Pháp trao trả độc lập cho Cambodia (1953), thì dù với thể chế nào, từ thời ông Hoàng Sihanouk tới Lon Nol, rồi Pol Pot hay Hun Sen; mối liên hệ song phương giữa Bắc Kinh và Phnom Penh luôn luôn có một mẫu số chung: đó là "chính sách đối trọng" của Bắc Kinh đối với Việt Nam, làm sao giảm thiểu ảnh hưởng của Việt Nam trên quốc gia láng giềng này. Cho dù cả Bắc Kinh và Hà Nội vẫn rêu rao mối quan hệ khăng khít "môi hở răng lạnh" giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc với khẩu hiệu "bốn tốt và 16 chữ vàng" nhưng Bắc Kinh thì luôn luôn theo đuổi một chiến lược nhất quán và giấu mặt cốt sao làm suy yếu Việt Nam đưa quốc gia này vào vòng lệ thuộc. Cũng phải kể tới "một cuộc chiến môi sinh" không tuyên chiến của Bắc Kinh, huỷ hoại con sông Mekong cũng là huỷ hoại Đồng Bằng Sông Cửu Long, là vựa lúa cũng là nguồn sống của Việt Nam.
      Rất sớm, cấp lãnh đạo Khmer Đỏ đã được Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón tại Bắc Kinh và ca ngợi. Tháng 9, 1977 Pol Pot lại sang viếng thăm Trung Quốc và được Hoa Quốc Phong, người kế thừa Mao Trạch Đông tiếp đón trọng hậu. Pol Pot khẳng định,"Đối với Cambodia, sự giúp đỡ quý báu nhất của Trung Quốc là tư tưởng Mao Trạch Đông".

Hình 2: Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón cấp lãnh đạo Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, từ trái: Mao Trạch Đông, Pol Pot và Ieng Sary. Khmer Đỏ rập khuôn theo Mao, được hậu thuẫn và viện trợ tối đa của Bắc Kinh, đã tiến chiếm Nam Vang 17.04.1975 khởi đầu một chế độ diệt chủng với 2 triệu người chết, trong đó không ít nạn nhân là người Việt, người Chăm Islam trong khoảng thời gian từ 1975-1979. [nguồn: photo AFP]
      Vẫn còn đó những trang sử chưa được soi sáng: mức độ liên hệ giữa Trung Quốc với chế độ diệt chủng Khmer Đỏ. Cho đến nay, đối với Trung Quốc đó vẫn là điều cấm kỵ / taboo, một hộp đen / black box mà Bắc Kinh tránh nhắc tới và muốn mọi người lãng quên.
      Và cũng không ngạc nhiên để hiểu tại sao, trong bao nhiêu năm, Bắc Kinh luôn luôn chống đối việc đưa ra các lãnh tụ Khmer Đỏ ra xét xử chính vì mối e ngại những điều sẽ được phanh phui trước toà. Những sự thật ấy nếu được phô bày ra trước thế giới, đó là một hổ thẹn về thể diện quốc gia / national embarassment cho nhà nước Trung Quốc.
      Khi được hỏi và phải lên tiếng thì các viên chức Trung Quốc hoặc tìm cách phủ nhận hoặc cố giảm thiểu tầm quan trọng của mối liên hệ này. Zhang Jinfeng / Trương Kim Phong đại sứ Trung Quốc tại Cambodia, năm 2010 đã tuyên bố: "Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc không có liên hệ chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp nếu có chỉ giới hạn trong việc cung cấp thực phẩm, và nông cụ như lưỡi cào, liềm hái."
       Nhưng theo Youk Chhang người sống sót sau Khmer Đỏ, hiện là Giám đốc Trung Tâm Tài liệu Cambodia / Documentation Center of Cambodia thì sự thật không phải như vậy. Theo hồ sơ lưu trữ và những lời khai của các cựu viên chức Khmer Đỏ thì "Cố vấn Trung Quốc có mặt cả với đám cai tù / prison guards lên tới cấp lãnh đạo cao nhất của Khmer Đỏ; và Trung Quốc chưa bao giờ chịu thừa nhận hoặc xin lỗi cho sự kiện này."(1) 
      Theo sử gia Milton Osborne thì phần tham dự dính líu của Trung Quốc với Khmer Đỏ có tầm mức sâu rộng và quan trọng hơn rất nhiều. Từ trước và sau 1975, Khmer Đỏ đã được Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ trên mọi phương diện. 
      Theo Andrew Mertha, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc và Á châu Thái Bình Dương / China and Asia Pacific Studies Program tại Đại học Cornell, cũng là tác giả cuốn sách Brothers in Arms; Chinese Aid to the Khmer Rouge 1975-1979, thì chính Trung Quốc đã cung cấp 90% viện trợ cho Khmer Đỏ: từ lương thực, các thiết bị xây dựng tới trọng pháo, xe tăng và cả máy bay. Cho dù biết Khmer Đỏ đang tàn sát chính nhân dân Cambodia nhưng đám cố vấn quân sự và các kỹ sư Trung Quốc vẫn cứ tiếp tục trợ giúp cho những người bạn đồng minh cộng sản của họ. Andrew Mertha khẳng định: "Không có trợ giúp của Trung Quốc, Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần lễ." (2)
     Giới nghiên cứu cho rằng ít nhất có tới hàng chục ngàn cố vấn Trung Quốc được mệnh danh là "chuyên viên kỹ thuật" hiện diện kín đáo từ cấp lãnh đạo cao nhất của Khmer Đỏ xuống tới hạ tầng, cùng với viện trợ quân sự với đủ loại súng đạn vũ khí và cả huấn luyện. Trung Quốc còn giúp Khmer Đỏ xây dựng đường xá, cầu cống, đường sắt, nhà máy lọc dầu kể cả một phi trường lớn nơi tỉnh Kampong Chhnang cách thủ đô Nam Vang hơn 90 km, với đường bay dài 2.4 km; tới cuối năm 1978 các công trình này gần như hoàn tất. Có giả thiết cho rằng, phi đạo ấy có thể sẽ được Trung Quốc sử dụng như điểm xuất phát cho các máy bay quân sự ném bom oanh kích các tỉnh phía nam Việt Nam khi có chiến tranh. [Hình 4]


Hình 3: Bộ trưởng Quốc Phòng Khmer Đỏ Son Sen (giữa), đứng bao quanh bởi các cố vấn Trung Quốc 1977 [nguồn: Trung tâm Tài liệu Cambodia].      
      Có lẽ Hà Nội thấy trước được nguy cơ cận kề đó, lại bị quân Khmer Đỏ đồng loạt tấn công các tỉnh biên giới phía tây, nên tháng 12 năm 1978, hơn 100,000 quân đội cộng sản Việt Nam đã tràn qua Cambodia lật đổ chế độ Pol Pot và lập nên một chính phủ Phnom Penh ban đầu thân Việt Nam. Và để cứu chế độ Khmer Đỏ khỏi hoàn toàn sụp đổ, Trung Quốc cũng đã mở ngay các cuộc Chiến tranh Biên giới 1979 phía bắc Việt Nam như một áp lực trả đũa mà Đặng Tiểu Bình đã giận dữ gọi "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học".
       Những trang sử về mối liên hệ của Trung Quốc và chế độ Khmer Đỏ diệt chủng đã và đang bị kiểm duyệt, không chỉ bởi Bắc Kinh mà nơi chính quốc gia nạn nhân do những lợi lộc nhỏ nhặt trước mắt. Cho dù đó là chặng đường lịch sử đẫm máu và đen tối nhất của quốc gia Cambodia trong Thế kỷ XX nhưng vẫn không được soi sáng.

Hình 4: Phi trường nơi tỉnh Kampong Chhnang cách Nam Vang hơn 90 km của Khmer Đỏ do hàng trăm kỹ sư Trung Quốc giúp xây, với phi đạo dài 2.4 km, nhân công là hàng chục ngàn tù nhân khổ sai và phần lớn đã bỏ mạng nơi công trường này. [nguồn: Nikkei Asian Review, August 21, 2015].

Hình 5: Cán bộ Khmer Đỏ Um Sarun đứng giữa, cùng với các cố vấn quân sự Trung Quốc, đám cố vấn TQ cũng mặc pyjama đen cổ quấn khăn rằn và hiện diện rất kín đáo [nguồn: Trung tâm Tài liệu Cambodia]
      Ngay chính Hun Sen, ở cương vị Thủ tướng Cambodia cho dù không thể công khai ngăn cản việc đem ra xét xử các tội phạm Khmer Đỏ, nhưng ông vẫn đưa ra lời cảnh báo như một hăm doạ rằng: "nếu để việc điều tra và xét xử Khmer Đỏ đi quá xa, Cambodia sẽ có nguy cơ nội chiến." Trong khi đó thì Om Mak, một người dân tỉnh Banteay Meanchey thì cho rằng lo ngại của ông Hun Sen là không có cơ sở, ông ta nhận xét: "Tôi không nghĩ rằng việc mở rộng điều tra tội ác Khmer Đỏ sẽ khơi mào cho chiến tranh. Không ai trốn trong rừng cả, cũng không ai có đủ võ trang để gây bất ổn cho đất nước."
      Cũng dễ hiểu khi biết Hun Sen có gốc gác từ Khmer Đỏ, sau đó mới đào ngũ sang Việt Nam năm 1977, ban đầu thân Việt Nam nhưng nay thì đang chọn đi vào quỹ đạo Trung Quốc.     
      LỊCH SỬ THEO THỰC ĐƠN
      Chương Lập Phàm / Zhang Lifan một học giả cũng là sử gia Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn của New York Times [March, 2015] đã đưa ra một thuật ngữ ví von: "lịch sử theo thực đơn / history à la carte", theo cái nghĩa nhà nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên truyền những điều thấy có lợi, trong khi cố né tránh những khía cạnh tiêu cực có thể gây chỉ trích. (1)
      Câu chuyện kể lại, khi có đoàn du khách tới thăm Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Tuol Sleng ở thủ đô Nam Vang [Hình 6,7], trước tiên viên hướng dẫn du lịch hỏi có ai trong đoàn tới từ Trung Quốc không, không có ai lên tiếng hoặc giơ tay, khi ấy anh ta mới yên tâm thuyết trình về cuộc chiến diệt chủng của Khmer Đỏ từ 1975 với 2 triệu người chết và trong đó có vai trò của Trung Quốc.
      Sau này, anh ta giải thích thêm là nếu có người Tàu trong đoàn du khách thì "Họ sẽ rất giận dữ khi nghe tôi nói Pol Pot được Trung Quốc trợ giúp nên mới giết được nhiều người đến như vậy." Và họ đáp trả là "Điều đó không có thật, hơn nữa bây giờ chúng ta là bạn, không nhắc về quá khứ nữa." (1)

Hình 6: Cổng vào Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Toul Sleng, còn có tên S-21 [trái]; tượng Pol Pot trên nền nhà trong Viện Bảo Tàng [phải] với trên tường là vô số hình ảnh đen trắng do Khmer Đỏ chụp các nạn nhân bị tra tấn và thảm sát nơi đây. [photo by Ngô Thế Vinh]

Hình 7: Bản đồ đất nước Cambodia thời kỳ Khmer Đỏ được ghép bằng những sọ người với Biển Hồ và con sông máu Tonle Sap. [photo by Ngô Thế Vinh].

Hình 8: Brothers in Arms; Chinese Aid to the Khmer Rouge 1975-1979. Andrew Mertha. Cornell University Press, February 2014. (2)
      Chuẩn bị kỷ niệm 70 năm kết thúc Thế chiến Thứ II vào tháng 9, 2015 với cuộc diễn hành quân sự vĩ đại, Bắc Kinh không quên lên án tội ác chiến tranh của quân đội Nhật Bản, và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường/ Li Keqiang nói với báo giới: "Giới lãnh đạo Nhật Bản phải nhận lãnh những trách nhiệm lịch sử về tội ác của các thế hệ trước."
      Nhưng điều trớ trêu là chính Trung Quốc không hành xử như vậy đối với các tội ác tầy trời của chính họ trong quá khứ. Kuni Miakabe, một nhà ngoại giao Nhật hồi hưu đã mai mỉa về chính sách nước đôi / double standard của Bắc Kinh mà ông gọi là "tiêu chuẩn toàn cầu về liêm khiết trí thức / the global standard of intellectual fairness"; đó là một mặt thì yêu cầu các quốc gia khác không xoá bỏ lịch sử / whitewash the history nhưng chính Trung Quốc lại không muốn nhắc tới phần trách nhiệm về cái chết của 45 triệu người do chính sách Đại Nhẩy Vọt / Great Leap Forward của Mao Trạch Đông, cũng như tội ác về cuộc Cách mạng Văn Hoá 1966-76 gây chết chóc và chấn thương cho cả một thế hệ và rồi mới đây là vụ thảm sát sinh viên đòi dân chủ ở Thiên An Môn. Và Trung Quốc đã không hề có một Viện Bảo tàng cho những giai đoạn lịch sử như vậy." (1)
      Nhà nước Trung Quốc rõ ràng có một chính sách "uốn nắn lịch sử" khởi đầu từ trong các trường học. Các bộ sách giáo khoa về lịch sử đã tránh đề cập tới thời kỳ Khmer Đỏ, kể cả cuộc Chiến tranh Biên giới 1979 do Đặng Tiểu Bình phát động để trừng phạt Việt Nam và cứu chế độ Pol Pot cũng bị kiểm duyệt và không được nhắc tới. Chính sách kiểm duyệt lịch sử từ sách vở tới báo chí truyền thông của Trung Quốc hữu hiệu tới nỗi đa số các sinh viên đại học ở Trung Quốc hầu như không biết gì về cả hai sự kiện này.
     Nhìn về Việt Nam thì giới viết sử chính thống theo tuyên giáo của đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt bảy thập niên qua cũng tồi tệ và không hơn gì Trung Quốc. Môn sử học cũng chỉ là một công cụ chính trị cho các đảng Cộng sản và những chế độ độc tài trên thế giới.
HUN SEN ĐI VÀO QUỸ ĐẠO TRUNG QUỐC
      Sinh năm 1952 tại một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Kompong Cham bên bờ con sông Mekong, nhưng khai sinh sớm hơn [4/4/1951], để đủ tuổi gia nhập Khmer Đỏ. Học vấn qua bậc tiểu học, sau đó tham gia các phong trào tranh đấu. Có gốc là sĩ quan Khmer Đỏ, bị thương hư một mắt khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4, 1975. Sau đó đào ngũ qua Việt Nam trước 1979.
      Khi quân CS Việt Nam tràn qua Cam Bốt, lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Hun Sen được đưa lên làm Ngoại Trưởng trẻ nhất năm 27 tuổi, rồi Thủ tướng Cambodia từ tháng 1, 1985 lúc mới 33 tuổi, giữ ghế Thủ tướng cho tới nay đã hơn 32 năm, lâu nhất của cả thế giới. [Phnom Penh Post, Jan 21, 2010]

Hình 9: Hun Sen, con người muôn mặt, là Thủ tướng Cambodia, trị vì lâu năm nhất trên thế giới [nguồn: internet]
      Và nếu không có gì bất ngờ, Hun Sen sẽ còn thống lĩnh chính trường Cam Bốt và là khuôn mặt lớn của khối ASEAN trong hàng thập niên nữa.
Lãnh đạo Đảng Nhân Dân Cam Bốt, Hun Sen được giới ngoại giao và báo chí coi như một thứ “Người Hùng” của Cambodia.
      Sẽ thiếu sót, nếu không ghi nhận ở đây, trong thời gian làm Thủ tướng, ông Hun Sen đã nhận được khoảng hơn 10 học vị Tiến sĩ Danh dự từ các đại học khác nhau trên khắp thế giới, trong đó có 2 học vị Tiến sĩ của Hà Nội: một về Chính trị học (1991), và một về khoa Giáo Dục (2007). Với từng ấy quyền lực và hào quang, Hun Sen được quốc vương Sihanouk phong cho phẩm tước cao quý “Samdech” [Wikipedia] và còn được mệnh danh là “Đứa Con của Đế quốc Khmer / The Son of the Khmer Empire”.
      Năm 1987, Hun Sen từng bị Amnesty International lên án vi phạm nhân quyền vì các vụ tra tấn tù nhân chính trị. Nổi tiếng cai trị bằng đôi bàn tay sắt, nhưng cũng không thiếu tai tiếng về các vụ tham nhũng về đất đai, dầu khí và các hợp đồng khai thác tài nguyên của Cambodia. Bị các đối thủ lên án là “bù nhìn” của Hà Nội, nhưng thực tế Hun Sen rất bản lãnh và độc lập, tuy không công khai lên tiếng chống Việt Nam nhưng đã dần dần từng bước chọn đưa đất nước Cambodia tiến gần vào quỹ đạo của Bắc Kinh; với dòng sự kiện:
Tháng 11, 2010_ Thủ tướng Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, lại một lần nữa đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc.
Tháng 6, 2009_ Fred Pearce trong một tường trình Environment 360 Đại học Yale cho rằng xây đập chắn ngang sông Mekong là một đòn giáng nghiêm trọng / major blow đối với con sông Mekong dũng mãnh. Trung Quốc đang xây hàng loạt những con đập trên khoảng 2,800 dặm khúc sông Mekong thượng nguồn, sẽ giới hạn dòng chảy, làm mất đi chu kỳ lũ lụt hàng năm / annual flood pulse, con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ, như một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới.
Tháng 7, 2005_ Thủ tướng Hun Sen, rất sớm cách đây 12 năm, trước khi sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con sông Mekong như hiện nay, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, ông còn cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia.
Tháng 11, 2002_ Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông. Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của Trung Quốc.
TAM GIÁC VÀNG BẮC KINH - NAM VANG - HÀ NỘI
      Cho đến nay cũng đã 38 năm kể từ ngày hơn 100 ngàn quân đội cộng sản Việt Nam tràn qua Cambodia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và giải phóng đất nước này. Nhiều lãnh tụ cao cấp Khmer Đỏ đã chết trước khi bị đem ra xét xử. Pol Pot / Anh Cả là nhân vật số 1 đã chết từ 15.04.1998.
      Riêng hai ông Nuon Chea / Anh Hai và Khieu Samphan/ Anh Ba là hai nhân vật cao cấp nhất của Khmer Đỏ còn sống đã bị Tòa án xét xử tội ác diệt chủng ở Cambodia / Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia (ECCC) do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, cả hai đã bị kết án tù chung thân từ ngày 07.08.2014.
      Và rồi chỉ mới đây thôi, ngày 23.06.2017, hai ông Nuon Chea và Khieu Samphan lại được ECCC đưa ra tái xét xử với những tội danh khác. Ông Nuon Chea 90 tuổi nguyên Thủ Tướng, do vấn đề sức khoẻ chỉ ngồi theo dõi phiên toà trước màn hình trong nhà giam, và qua luật sư của mình, ông cho biết chỉ coi phiên toà như một trò trình diễn "show trial".
      Riêng ông Khieu Samphan 85 tuổi, có học vị tiến sĩ Đại học Paris, được coi như lý thuyết gia, nguyên Chủ tịch nhà nước Campuchia Dân chủ / Khmer Đỏ thì có mặt và đã có lời nói cuối trước toà, ông đã hoàn toàn bác bỏ cáo buộc "tội ác chống nhân loại và diệt chủng."

Hình 10: Khieu Samphan, nguyên Chủ tịch nhà nước Khmer Đỏ phát biểu tại phiên toà ở Nam Vang ngày 23.06.2017: Ông hoàn toàn bác bỏ cáo buộc "tội chống nhân loại và diệt chủng" và khẳng định nói đó là những lời nguỵ tạo của Việt Nam nhằm xâm lược Cambodia. [nguồn: AFP photo]
      Ông Khieu Samphan đã giận dữ khẳng định đó là những lời vu cáo nguỵ tạo của Việt Nam nhằm xâm lược Cambodia, rồi ông đổ hết trách nhiệm cho Việt Nam trong trong tấn thảm kịch 2 triệu người dân Khmer chết bằng các nhục hình như bỏ đói, lao động cưỡng bức, tra tấn và cả giết chóc.
      Điều rất trớ trêu và đáng nói ở đây là do mối thù hận lịch sử, sẵn có tinh thần bài Việt, lại luôn luôn được kích động bởi khẩu hiệu: "Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp" nên không ít người Cambodia may mắn sống sót và cả thế hệ trẻ sinh sau thời kỳ Khmer Đỏ, khi nghe phát biểu của ông Khieu Samphan họ cũng hoang mang, và nếu cứ bị tiếp tục bị tuyên truyền nhồi sọ, rồi ra họ có thể dễ dàng cả tin về điều này.
CÙNG NHAU GIẢI LỜI NGUYỀN
      Khó mà kiếm được người Miên nào nói tốt về người Việt đang sống trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ nhân quyền ở Nam Vang đã nói với ký giả báo Far Eastern Economic Review (FEER 1994): nếu có được quyền lựa chọn thì đa số người Khmer đều muốn tống xuất tất cả người Việt ra khỏi Cambodia. Chống Việt Nam bằng bất cứ luận điệu nào cho dù đúng hay sai vẫn luôn luôn là một chiêu bài rất ăn khách và dễ dàng được đa số người Miên cả tin và lắng nghe.
       Không lẽ bước sang Thế kỷ XXI một cách rất vô lý Việt Nam lại phải đưa vai ra gánh phần trách nhiệm về tội ác mà kẻ thực sự chủ mưu là Trung Quốc thì lại dấu mặt. Để giải toả mối oan khiên đó, chưa bao giờ khẩn thiết như lúc này, phải có một giới sử gia chân chính viết nên những trang sử về thời kỳ Khmer Đỏ một cách công tâm và minh bạch để trả lại tất cả sự thật cho lịch sử.
      Trong mấy thế kỷ qua, quá khứ hai dân tộc Khmer và Việt Nam đã có những tang thương đổ vỡ nhưng họ lại phải cùng sống với nhau trên một vùng đất định mệnh. Và những thù hận trong quá khứ vẫn âm ỉ đến mức đã trở thành Một Lời Nguyền rất bất hạnh cho cả hai phía. Đã đến lúc phải cùng nhau giải lời nguyền ấy.
      Hiện tại, cả hai dân tộc cùng rất nghèo, cùng ở cuối nguồn con sông Mekong, đang cùng là nạn nhân của một trận chiến môi sinh thế kỷ: do chuỗi những con đập thượng nguồn từ Trung Quốc xuống tới Lào, do kế hoạch vĩ mô đổi dòng lấy nước từ con sông Mekong của Thái Lan, rồi nạn ô nhiễm do khai thác khoáng sản bừa bãi, cộng thêm với tác động của thay đổi khí hậu đưa tới lũ lụt và hạn hán. Hậu quả sẽ là hai vùng châu thổ Tonle Sap và châu thổ Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trước nguy cơ chết dần.
       Gần đây thôi, trong một phạm vi nhỏ hẹp nhưng tích cực là các tổ chức môi sinh Việt Nam như Việt Ecology Foundation, Vietnam River Network đã có những bước đầu nối kết với 5 tổ chức môi sinh NGOs/ phi chính phủ của Cambodia, liên kết dưới chung một tên River Coalition in Cambodia (RCC), và trong bối cảnh mở rộng một hợp tác vùng: Save the Mekong Coalition (StM). Từ những bước khởi đầu ấy, hai dân tộc Khmer và Việt Nam sẽ cùng chia xẻ trách nhiệm và hướng tới một tương lai thịnh vượng chung. Đó cũng chính là nỗ lực hàn gắn vết thương lịch sử giữa hai quốc gia, như một hoá giải Lời Nguyền giữa hai dân tộc Cambodia và Việt Nam.
NGÔ THẾ VINH
California 08.07.2017
Tham Khảo:
1)    Dan Levin, “China Is Urged to Confront Its Own History,” The New York Times(March 31, 2015).
2)    Andrew Mertha, Brothers in Arms: Chinese Aid to the Khmer Rouge, 1975-1979(Ithaca, NY : Cornell Univ. Press, 2014).
3)    Luke Hunt, “What Was China’s Khmer Rouge Role?” The Diplomat (December 17, 2011).
4)    David Chandler, A History of Cambodia, 4th ed., updated (Boulder, CO: Westview Press, 2009).
5)    Ngô Thế Vinh, "Vực Dậy Từ Tro Than, Đi ra từ những Cánh Đồng Chết" Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, (Văn Nghệ Mới 2007).
NƯỚC LÀO ĐANG TRÊN ĐƯỜNG 'HÁN HÓA'
NGÔ THẾ VINH/ tuan's blog 12-6-2017

Khi mà cố đô Luang Prabang có thêm một cây cầu, một nhà ga và một giang cảng "Made in China" thì khu Di Sản Thế Giới ấy sẽ mau chóng trở thành một "Phố Tàu - China Town" và thêm con Domino đổ xuống với cái giá phải trả là một nước Lào bị Hán hóa.
MƯỜNG LUÔNG KHU DI SẢN VĂN HOÁ
     Cách đây 75 năm, nữ sĩ Vân Đài (1903-1964), trong một tập bút ký Sang Lào đã có nét hoạ chấm phá về Mường Luông - Luang Prabang, cố đô vương quốc Lào qua bốn câu thơ:
      Chuông chiều ngân trong gió
      Tháp núi ẩn màn sương
      Lầu vua thu bóng nhỏ
      Chùa bụt lạnh hơi sương... [Vân Đài, 1942]
       Luang Prabang bao gồm rất nhiều cảnh quan văn hoá và lịch sử của Lào, thu gọn trên một khu đồi núi phủ cây xanh như một bán đảo nơi giao nhau của hai con sông: sông Mekong và sông Nam Khan, một phụ lưu lớn của con Sông Mekong, nơi có ngôi mộ Henri Mouhot (1826-1861) người tái phát hiện khu đền đài Angkor và cũng là người Pháp đầu tiên tới kinh đô Luang Prabang được Vua Lào Tiantha tiếp đón trọng hậu. Cố đô Luang Prabang cách thủ đô Vạn Tượng 425 kmvề phía Bắc. [Hình 2a]

Hình 1a: Luang Prabang với Hoàng Cung xưa trên con đường Phothisarat và nay là Viện Bảo tàng Quốc gia Lào [photo by Ngô Thế Vinh]  
      Được chọn là khu Di Sản Thế Giới / World Heritage site từ 1995, cố đô Luang Prabang đã được bảo vệ bằng những quy định khá khắt khe của UNESCO, trước trào lưu đổi mới và kinh tế thị trường đang diễn ra trên toàn nước Lào.
      Khác xa với thủ đô Vạn Tượng ở phía nam đang mau chóng bị đô thị hoá, cố đô Luang Prabang chưa bị tràn ngập và nhấn chìm bởi những bảng hiệu quảng cáo và các khách sạn cao tầng.
      Nhưng di sản văn hoá quý giá ấy còn tồn tại được bao lâu nữa khi đang phải đối đầu với các dự án thương mại của Trung Quốc trên Sông Mekong: song song với kế hoạch phá đá phá các khúc sông ghềnh thác, Trung Quốc có dự án xây dựng một giang cảng nơi cố đô Luang Prabang.
      Cho đến nay, Luang Prabang là nơi tương đối còn bảo tồn được một cảnh quan lịch sử có tính cách hài hoà của cả hai thời kỳ: văn hoá truyền thống cổ xưa của Vương quốc Lào và văn hoá thuộc địa từ thế kỷ 19 với các công trình kiến trúc từ thời Pháp, nên là một tụ điểm du lịch hấp dẫn của đất nước Lào. [Hình 1b]
      Chỉ ít năm gần đây thôi, như một hiện tượng là lượng khách du lịch người Tàu ngày càng đông tràn xuống các nước hạ lưu Mekong: Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt, và đông nhất là vào xứ Lào.
      Qua chuyến viếng thăm Luang Prabang mới đây, nhà văn Tưởng Năng Tiến đã bén nhạy ghi lại một hoạt cảnh: "Người Tầu bây giờ có kiểu du lịch lạ lắm. Từ Vân Nam, họ đi xe van có trang bị lò nấu ăn, mền gối và bô đi cầu. Sáng sớm nhìn du khách Tầu thản nhiên đứng đánh răng, và cho con nít ngồi bô giữa công viên... Em cầm máy hình, ngần ngừ một lát rồi lặng lẽ bỏ đi mà lòng buồn muốn khóc, anh à. Bên cạnh nhà trọ của em là một tiệm rượu của một gia đình Việt Nam. Bà chủ than phiền là người Tầu đang làm hỏng thành phố này."[Email Tưởng Năng Tiến 11.06.2017]     

Hình 1b: Văn hoá thuộc địa thế kỷ 19 với các công trình kiến trúc từ thời Pháp vẫn tồn tại hài hoà với nét văn hoá cổ xưa của Lào nơi cố đô Luang Prabang. [nguồn: internet] 
GIANG CẢNG LUANG PRABANG MADE IN CHINA
      Tiếp theo Dự án Cải thiện Thuỷ lộ Thượng nguồn sông Mekong (2001) và rồi tới Dự án Mười Năm Phát triển Thuỷ vận Quốc tế trên Sông Lancang-Mekong (2015-2025); Trung Quốc nay có thêm kế hoạch xây dựng một giang cảng thương mại trên khúc Sông Mekong nơi cố đô Luang Prabang, nơi sẽ có khả năng đón nhận những con tàu hàng lớn từ các giang cảng Tư Mao / Simao, Cảnh Hồng / Jinhong Vân Nam có trọng tải 500 tới 700 tấn.
      Còn phải kể thêm một dự án đường sắt dài 420 km đã được khởi công từ tháng 12 năm 2016 nối liền các thành phố tây nam Trung Quốc, từ Vân Nam xuống tới Luang Prabang, và xuống xa tới thủ đô Vạn Tượng, dự trù hoàn tất vào năm 2021 tổn phí 6 tỉ MK với 70% là sở hữu của Công ty Đường sắt nhà nước TQ, cũng để phục vụ nhu cầu gia tăng chuyên chở hàng hoá và hành khách từ TQ đổ xuống phương nam, được xem là nhanh hơn cả đường sông. (1)
Hình 2a: Luang Prabang nơi giao nhau của sông Mekong và sông Nam Khan, một phụ lưu lớn của con Sông Mekong, [nguồn: Laos Footprint Handbook]
Hình 2b: Ban Phanom cách Luang Prabang 5 km về hướng đông, bên bờ sông Nam Khan có ngôi mộ Henri Mouhot (1826-1861) người Pháp đầu tiên tới Luang Prabang được Vua Lào Tiantha tiếp đón trọng hậu. [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]  

Hình 2c: Cố đô Luang Prabang, được tổ chức UNESCO chọn là khu Di Sản Thế Giới / World Heritage site từ 1995: trong vòng tím là khu bảo tồn, vòng đỏ ngoài là khu đệm. [nguồn: tài liệu UNESCO]
      Thử tìm hiểu về dự án giang cảng Luang Prabang ấy ra sao?
      Như từ bao giờ, Trung Quốc luôn luôn không có sự minh bạch / transparency về bất cứ dự án nào với các quốc gia Mekong láng giềng. Một ví dụ: TQ đã từng dấu nhẹm thông tin về các con đập thuỷ điện bậc thềm Vân Nam trên khúc Sông Lancang-Mekong thượng nguồn. Vẫn là "bài học chưa học / unlearned lessons" với 7 quốc gia trong lưu vực. [Tây Tạng phải được kể là một quốc gia trong lưu vực sông Mekong.]
Khi mà cố đô Luang Prabang có thêm một cây cầu, một nhà ga và một giang cảng Made in China thì khu Di Sản Thế Giới ấy sẽ mau chóng trở thành một "Phố Tàu - China Town" và con Domino đổ xuống với cái giá phải trả là một nước Lào bị Hán hóa / 漢化
      Trong tương lai Luang Prabang có thể bị mất danh hiệu là Khu Di sản Thế giới theo Công ước của Liên Hiệp Quốc 1972 [World Heritage Convention] khi mà khu bảo tồn được coi như "thánh địa lịch sử văn hoá" của Lào bị xoá sạch và thay thế bởi những khu phố thương mại chồng chất những bảng hiệu tiếng Tàu với đông đảo cộng đồng người Hoa đổ tới mang theo cả những kiến trúc đậm nét văn hoá Tàu.
MỞ MỘT THUỶ LỘ TRÊN SÔNG MEKONG
      Cách đây 151 năm, thời còn hoang dã một đoàn Thám hiểm Pháp / Mekong Expédition do Doudart De Lagrée và Francis Garnier khởi hành từ bến Cảng Sài Gòn [1866-1868] ngược dòng sông Mekong trong một cuộc hành trình gian khổ 2 năm 24 ngày nhằm đi tìm một thuỷ lộ giao thương với Vân Nam nhưng đã gặp những khúc sông quá nhiều ghềnh thác nên phải đi tới kết luận: Sông Mekong không thể là thuỷ lộ giao thương với Trung Hoa.
      Ngót hai thế kỷ sau thất bại của đoàn Thám hiểm Pháp, Trung Quốc lại vực dậy "ý tưởng lớn" của Francis Garnier với kế hoạch táo bạo phá đá phá các khúc sông ghềnh thác trên sông Mekong với quyết tâm mở một thuỷ lộ Mekong đi về phương nam.

Hình 3: Đoàn Thám Hiểm Pháp [1866-1868] khi ngược dòng Mekong luôn luôn gặp phải những khúc sông ghềnh thác khiến họ tiêu tan hy vọng dùng con sông Mekong như một thuỷ lộ giao thương với Trung Hoa. [nguồn: Voyage d'exploration en Indo-Chine, Francis Garnier, Paris 1885]          
      Giai đoạn Một 2001: TQ đã rất liều lĩnh dùng nhiều mìn và chất nổ để phá những khối đá trên 21 đoạn ghềnh thác cùng với các cù lao và cồn bãi / shoals trên khúc Sông Mekong thượng nguồn từ Vân Nam xuống tới ranh giới Miến Điện - Lào và Lào - Thái nhằm thực hiện "Dự Án Cải Thiện Thuỷ Lộ Thượng Nguồn Sông Mekong / Navigation Channel Improvement Project on the Upper Mekong River" khai thông lòng sông cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hoá TQ có thể xuống tới Chiang Khong, Chiang Sean Bắc Thái Lan và Lào.
      Dự án được ký kết vào tháng 4 năm 2001 giữa 4 nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào; riêng Cam Bốt và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn thì không được đếm xỉa tới.
      Theo mô hình của dự án thì có hàng trăm tấn đá, các cồn bãi trên sông sau khi bị chất nổ phá vỡ sẽ được các con tàu vét / backhoes dồn xuống những hố sâu dưới lòng sông mà ai cũng biết những vũng sâu này là nơi trú ẩn có tầm quan trọng sống còn đối với vô số loài cá và cũng là nơi lưới cá của ngư dân trong mùa khô. Lấp hết các vũng sông sâu bằng những khối đá vụn sẽ gây ảnh hưởng huỷ diệt ra sao trên cá và đời sống kinh tế và xã hội của ngư dân là điều không được nhóm Lượng Giá ảnh hưởng môi sinh / EIA thực sự quan tâm tới.
      Và như từ bao giờ, "Kết quả lượng giá ảnh hưởng môi sinh / EIA / Environment Impact Assessment của dự án phá đá ấy được xem là không đáng kể." Và dĩ nhiên đã không có phần nghiên cứu ảnh hưởng xuyên biên giới / transboundary xuống xa tới các quốc gia hạ nguồn như Cam Bốt và Việt Nam.
      Theo báo Watershed, một Diễn đàn Môi sinh của cư dân 5 quốc gia [Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam] thuộc lưu vực sông Mekong xuất bản ở Thái Lan số tháng 11/ 2002 đã phải đưa ra nhận định: "Họ chỉ căn cứ trên có 2 ngày khảo sát thực địa / fieldtrips... rồi đi tới kết luận rằng Dự án phá đá phá ghềnh thác sẽ không có ảnh hưởng dài hạn nào trên nguồn cá và ngư nghiệp của cư dân sống hai bên bờ sông Mekong." Và trước mắt thì quốc gia hưởng lợi nhất từ Dự án này vẫn là nước lớn Trung Quốc nhưng với cái giá rất đắt phải trả vẫn là cư dân 5 nước hạ lưu sông Mekong. 
      Theo tiến sĩ Chris Cocklin và Monique Hain thuộc Viện Đại học Monash Úc thì bảng lượng giá ảnh hưởng môi sinh / EIA của Dự Án Cải Thiện Thuỷ Lộ Thượng Nguồn Sông Mekong: "thực chất là thiếu sót / substantively inadequate và cơ bản là sai trái / fundamentally flawed." (4)
      Thiếu Sót: vì không dựa trên đánh giá toàn thể và không có phần lượng định ảnh hưởng dài hạn của dự án mà phần tối quan trọng là ảnh hưởng trên hệ thủy học / hydrology, hệ sinh thái / ecology của con sông và cả ảnh hưởng do gia tăng số lượng tàu bè lưu thông trên dòng sông ấy.
      Một ví dụ về hệ quả dây chuyền do dự án cải thiện thủy lộ, sẽ đưa tới gia tăng trao đổi hàng hóa, tạo thuận cho kỹ nghệ phát triển và hậu quả là gây thêm ô nhiễm. Ảnh hưởng dài hạn ấy ra sao với sức khỏe của cư dân các quốc gia cuối nguồn là hoàn toàn không được quan tâm tới.
      Sai Trái: vì các phân tích chỉ dựa trên sự phỏng đoán /speculation, với kết luận chủ quan và hoàn toàn thiếu những bước nghiên cứu có thực chất để rồi vẫn đi tới khẳng định là: “Dự án sẽ có ảnh hưởng tích cực về kinh tế trong các bước phát triển bền vững của Lưu vực sông Mekong.  Đó chỉ là một kết luận vu vơ mà không đưa ra được các dữ kiện hay phân tích thuyết phục nào.
HẬU QUẢ NHÃN TIỀN NGAY GIAI ĐOẠN MỘT
      Ngay giai đoạn đầu thực hiện kế hoạch khai thông sông Mekong, hậu quả tức thời là đã có một số tác hại môi sinh giáng trên đầu các cư dân sống trong lưu vực. Trong Mùa Mưa năm 2002, tại quận Chiang Khong tỉnh Chang Rai Thái Lan có nhiều khúc bờ sông vốn bền vững trong bao năm, nay bị sụp lở. Chỉ riêng làng Pak Ing đã mất đi một mẫu đất do nạn xói mòn này. Ba ngôi làng kế cận cũng mất 9 mẫu đất cùng với nhiều căn nhà bị trôi xuống sông. Phía tả ngạn bên Lào, hơn 100 gia đình thuộc làng Don Sawan tỉnh Bokeo phải di tản vì nguy cơ sụp lở càng lan rộng.
      Niwat Roykaek thuộc Nhóm Bảo Tồn tỉnh Chiang Khong nhận định: “Dân trong vùng sống bằng cá lưới từ sông Mekong và cả sống bằng hoa màu trồng dọc theo hai bên bờ sông ấy. Con sông là mạch sống của họ nên cần phải khảo sát thật kỹ càng trước khi khai thác.” (5)
      Các nhà hoạt động môi sinh bắc Miến Điện đã yêu cầu ngưng ngay kế hoạch phá đá trên khúc sông Mekong dài 234 km chảy dọc theo biên giới phía đông bắc Miến vì khúc sông này vốn là nguồn sống của các sắc tộc Lahu, Shan, Loi La và En. (2) Và cũng đã có 52 tổ chức phi chính phủ [NGO/ Non Governmental Organizations] lên tiếng phản đối Dự án Phá Ghềnh Thác sông Mekong do những tác hại không thể chấp nhận được đối với ngư nghiệp, hệ sinh thái của con sông như một toàn thể và ảnh hưởng trên cư dân sống dọc con sông. Họ yêu cầu phải ngưng ngay dự án phá đá khai thông mở rộng dòng sông cho tới khi nào hoàn tất được các bước lượng giá đúng mức về “hậu quả môi sinh và xã hội” trên các cộng đồng cư dân sống trong lưu vực.
      Giữa hai tháng 03 và 04, 2002 hai khúc ghềnh đá Tang Ao và Tang Luang đã bị triệt hạ và dân chúng Miến Điện sống trong khu vực thì hoàn toàn không được thông báo. Họ chỉ được biết khi thấy vô số cá bị chết, nồi dềnh, trôi giạt và thối rữa không còn ăn được. Ngoài cá, dân địa phương còn sống bằng nguồn lợi tức của rong tảo (riverweed / kai) mọc trên các ghềnh đá và nay thì cũng không còn nữa. Vẫn theo kế hoạch trên, thì sẽ có thêm 16 đoạn ghềnh thác nữa thuộc khu vực bang Shan Bắc Miến Điện và Lào sẽ bị phá hủy vào đầu năm tới. (2)
      Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây một khía cạnh khá mỉa mai là không phải do chính quyền Hà Nội hay Nam Vang, nhưng chính mấy chục tổ chức nhỏ bé của cư dân Miến Điện chưa hẳn có tự do ấy lại lên tiếng đòi hỏi quyền sống cho hai nước láng giềng rất xa họ: “Kế hoạch phải có được sự đồng thuận của tất cả các quốc gia nơi có con sông Mekong chảy qua bao gồm cả Cam Bốt và Việt Nam”.
TÁC HẠI TẦM XA TRÊN CAM BỐT VÀ VIỆT NAM
      Dự án phá đá, phá các khúc ghềnh thác có những hậu quả ra sao trước hết là đối với 4 quốc gia thượng nguồn (Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào) rồi sau đó là 2 nước hạ nguồn (Cam Bốt và Việt Nam) là những vấn nạn chưa có lời giải đáp.
      Do cải thiện giao thông đường sông không chỉ giúp gia tăng xuất cảng hàng hóa thặng dư của TQ đồng thời tạo thuận cho việc khai thác các nguồn tài nguyên của các quốc gia hạ nguồn.
      “Nhưng câu hỏi quan trọng nhất được đặt ra là những lợi lộc kinh tế ấy và cả cái giá phải trả sẽ được phân phối ra sao đối với các quốc gia trong lưu vực?” (5)
      Trước mắt thì quốc gia hưởng lợi nhất vẫn là Trung Quốc: hàng hóa Trung quốc sẽ tràn ngập đổ xuống các tiểu quốc phương Nam, cũng những con tàu 700 tấn ấy sẽ chuyên trở về Trung Quốc những tài nguyên thiên nhiên từ Miến Điện Lào Thái Lan để phục vụ cho nền kỹ nghệ đang rất phát triển do có thêm dồi dào nguồn thủy điện từ những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam cũng từ nguồn nước con sông Mekong.
       Tây Tạng là nơi phát nguồn con sông Mekong, Trung Quốc là nước xa nhất trên phía thượng nguồn nên rất ít bị ảnh hưởng do kế hoạch phá đá phá các khúc ghềnh thác trên sông Mekong. Nhưng kế hoạch đó đã có tác hại ngay trước mắt trên sinh cảnh và đời sống cư dân của các nước hạ nguồn như Miến Điện, Thái Lan và Lào, dĩ nhiên còn có ảnh hưởng dây chuyền trên đời sống cư dân của hai nước ở dưới xa là Cam Bốt và Việt Nam. Sự thay đổi đột ngột nhịp độ dòng chảy thiên nhiên của con sông Mekong gây hậu quả xói mòn và cả sụp lở bờ sông, hủy diệt nguồn cá như nguồn protein chính của cư dân sống trong lưu vực.
      Đứng trước những tai ương có thể xảy ra, đến bao giờ thì người dân Việt Nam và Cam Bốt mới được thông báo một cách đầy đủ và cả quyền được tham gia ý kiến? (4)
      Vì gặp phải quá nhiều chống đối của cư dân địa phương và các tổ chức bảo vệ môi sinh Bắc Thái Lan nên Dự án Giai đoạn Một đã phải dừng lại một thời gian.
      Giai đoạn Hai 2015:
      Nhưng để rồi 14 năm sau, đến tháng 12, 2015 Trung Quốc lại tiếp tục triển khai kế hoạch phá đá phá ghềnh thác trên sông Mekong, và nay có tên Dự án Mười Năm Phát triển Thuỷ vận Quốc tế trên Sông Lancang-Mekong / Development Plan for International Navigation on the Lancang-Mekong River  (2015-2025).
      Đây không chỉ nhằm gia tăng trao đổi thương mại mà Bắc Kinh còn có tham vọng củng cố thêm ảnh hưởng bao trùm lên toàn vùng với sáng kiến chiến lược "Một Vòng Đai, Một Con Đường / One Border One Road / OBOR Initiative".
      Và Dự án vẫn chỉ được tham khảo giữa 4 quốc gia thượng nguồn: Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện trong khi quốc gia hạ nguồn là Cam Bốt và cuối nguồn là Việt Nam thì không được đếm xỉa tới cho dù bị ảnh hưởng nặng nề nhất và vẫn chưa thấy tiếng nói phản đối mạnh mẽ lẽ ra phải có từ hai quốc gia Việt Nam và Cam Bốt.

Hình 4: Ngày 19.04.2017, các kỹ sư địa chất Trung Quốc trên con tàu khảo sát cho Dự án phá đá Giai đoạn Hai, khai thông khúc sông Mekong giữa biên giới Lào-Thái. [nguồn: Reuters/ JorgeSilva]
       Vào ngày 19.04.2017, chỉ mới đây thôi, 60 kỹ sư Đại Hán trên 3 con tàu từ Trung Quốc đã thực hiện cuộc khảo sát Giai đoạn Hai Dự án 10 Năm Phát triển Thuỷ vận Quốc tế trên Sông Lancang-Mekongsẽ tiếp tục phá hết các khối đá trên các khúc sông ghềnh thác trên suốt 890 km đường sông từ giang cảng Tư Mao Vân Nam xuống Chiang San, Chiang Khong Bắc Thái, xuống xa tới cố đô Luang Prabang của Lào.
      Một viên kỹ sư Tàu không muốn nêu tên cho biết: công việc của họ nằm trong đại dự án "Một Vòng Đai Một Con Đường / One Belt One Road" nhưng trên thực tế thì kế hoạch phá đá phá ghềnh thác trên Sông Mekong đã có trước đó. (2)
      Thực chất với TQ, thì kế hoạch khai thông sông ngòi, xây dựng cầu đường và những hạ tầng cơ sở khác chỉ nhằm ưu tiên phục vụ cho quyền lợi của TQ, và các nước nhỏ lân bang chỉ được xem như những tiện nghi chánh trị của Bắc Kinh.
      Cho dù vẫn phải gặp lại sự chống đối mạnh mẽ của cư dân Thái và hàng trăm tổ chức bảo vệ môi sinh NGOs vùng Bắc Thái Lan [Chiangkhong Conservation Group and Save the Mekong Campaign], nhưng xem ra chánh quyền quân nhân Thái và nhà nước toàn trị Lào luôn luôn có chính sách mở cửa đón nhận những khoản đầu tư khổng lồ đến từ Trung Quốc. Làm ăn với các thể chế "toàn trị và tham nhũng" luôn luôn là quyền lực mềm / soft power của chính quyền Bắc Kinh. [Hình 5]
      Có thêm phương tiện giao thông và chuyên chở, những hàng hoá rẻ tiền thặng dư của TQ từ đồ điện tử tới các đồ plastics gia dụng sẽ đổ vào các nước láng giềng đã giết chết các nền công nghệ nhỏ địa phương. Không chỉ có thế, TQ còn xuất cảng đủ các loại nông phẩm cũng với rẻ mạt sẽ giết chết cả nền nông nghiệp trồng trọt tại các quốc gia lân bang, biến họ thành một tầng lớp tiệu thụ không sản xuất và càng ngày càng lệ thuộc vào Phương Bắc.

Hình 5: Tháng 2, 2017 hơn 500 cư dân tỉnh Chiang Khong Bắc Thái đã tụ họp phản đối kế hoạch khai thông sông Mekong của Trung Quốc với biểu ngữ: "Sông Mekong không thể đem bán: ngưng ngay dự án phá ghềnh thác." Tong Phun là nhà thơ Thái Lan nằm giữa tấm biểu ngữ lớn; các phong trào bảo vệ môi sinh luôn luôn được sự tham gia của giới văn chương nghệ thuật Thái. Liệu đến bao giờ thì "hình ảnh mơ ước" ấy mới có thể xuất hiện ở Việt Nam?  [nguồn: EarthRights International,  02.13.2017]   
      Thongpho Vongsriprasom, nguyên Bộ trưởng Canh nông Lào đã lên tiếng báo động là kế hoạch phá đá / rocks phá ghềnh thác / rapids trên sông Mekong sẽ làm tăng vận tốc dòng chảy và cộng thêm với sóng lớn / waves của các con tàu hàng sẽ huỷ hoại các bờ sông, vốn là vùng canh tác rất màu mỡ của người dân Lào, trong khi chỉ có 4% diện tích nước Lào phù hợp cho nông nghiệp. (1)

Hình 6: Khúc sông Mekong nơi cố đô Luang Prabang, vẫn có một nguồn thực phẩm nông sản hoa màu ven sông với lớp đất phù sa màu mỡ [photo by Ngô Thế Vinh] 
      Theo ước tính của MRC / Uỷ Hội Sông Mekong thì vận tải đường sông tuy dài hơn (từ Tư Mao tới Luang Prabang là 890 km, trong khi khoảng cách đường bộ chỉ có 510 km) nhưng vẫn giảm thiểu được 20% tổn phí vận chuyển; nhưng liệu các "chuyên gia công chức" của MRC có đủ tầm nhìn xa để đánh giá những thiệt hại trên toàn hệ sinh thái và các tổn thất kinh tế xã hội lâu dài trên các cộng đồng cư dân địa phương?
      Theo Viện Nghiên cứu Phát triển Thái/ TDRI / Thailand Development Research Intitute cho rằng khi Thái quyết định hợp tác với Trung Quốc trong kế hoạch phá đá khai thông sông Mekong cho các con tàu lớn lưu thông, thì Thái Lan chỉ có "mất nhiều hơn là được" từ dự án này.   
      Wiroon Kampilo nguyên chủ tịch Phòng Thương Mại Chiang Rai Bắc Thái đưa ra nhận định với báo giới địa phương rằng: "Doanh nghiệp Thái chẳng được lợi lộc gì từ Dự án Phát triển Thuỷ vận Quốc tế trên Sông Lancang-Mekong vì chúng ta có rất ít hàng hoá cần vận chuyển qua đường sông để bán sang Tàu và chỉ có Trung Quốc sẽ thực sự được hưởng lợi" (2)

Hình 7: Trung Quốc dùng mìn và chất nổ phá đá phá các ghềnh thác trên khúc sông Mekong nơi biên giới giữa Bắc Thái Lan và Lào. [nguồn: Chiang Rai Times, Jan 17, 2017]
      Tác hại từ những con đập bậc thềm Vân Nam còn đó, cộng thêm với dự án 12 con đập hạ lưu trên đất Lào và Cam Bốt, nay lại thêm bước tái khởi động kế hoạch mở rộng phá đá phá các khu ghềnh thác trên sông Mekong, hậu quả sẽ là những tác hại tích luỹ. Hậu quả tác hại trước mắt trên các cộng đồng cư dân nghèo trong lưu vực là mất nguồn cá và mất nguồn nông sản trồng trọt ven sông và trực tiếp đe doạ an ninh thực phẩm của họ. Tất cả những bước phát triển không bền vững ấy / unsustainaible development, khiến cả một hệ sinh thái phong phú của con sông Mekong chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon đang chết dần.
Hình 8: Những con tàu lớn Trung Quốc từ các giang cảng Tư Mao/ Simao và Cảnh Hồng / Jinhong, Vân Nam chở đầy hàng hoá Made in China đang xuôi dòng đổ xuống các tỉnh Bắc Thái Lan. [photo by Ngô Thế Vinh] 
      Từ Sáng Kiến Hành Lang Kinh Tế Bắc Nam Lưu Vực Lớn Sông Mekong: Greater Mekong Subregion/ GMS North-South Economic Corridor Flagship Initiative tới sáng kiến dự án chiến lược toàn cầuMột Vòng Đai Một Con Đường/ One Belt One Road Initiative mới đây của Trung Quốc, thì một quốc gia nhỏ bé như nước Lào chỉ với 7 triệu dân [ít hơn so với dân số Sài Gòn 8.5 triệu], trên một diện tích 235,800 km2 mật độ dân số 31/ km2 cho tới nay trong suốt dòng lịch sử, vẫn đúng như nhận định của Bernard Fall: "Nước Lào không được coi là một thực thể địa dư, chủng tộc hay xã hội mà thuần chỉ là một tiện nghi chính trị. / Laos at the time was neither a geographical nor an ethnic or social entity, but merely a political convenience."
      Không phải chỉ có Lào, mà toàn lưu vực sông Mekong cũng đang là tiện nghi chính trị và kinh tế của Trung Quốc, đã và đang bị Bắc Kinh khai thác một cách huỷ hoại và không bền vững / destructive and unsustainable development với ưu tiên cho mục tiêu đem lợi nhuận cho Trung Quốc, nhưng với những cái giá rất cao phải trả về suy thoái phẩm chất cuộc sống của hàng bao nhiêu triệu cư dân nơi hạ nguồn. 
NGÔ THẾ VINH
California, 12.06.2017
THAM KHẢO:
1/ Lao cultural treasure faces river trade dilemma. By Tom Faw Fawthrop; Luang Prabang, May 16, 2017http://www.atimes.com/article/lao-cultural-treasure-faces-river-trade-dilemma/
2/ Thai resistance to China’s downstream ambitions. By Tom Fawthrop; Chiang Khong, May 16, 2017http://www.atimes.com/article/thai-resistance-chinas-downstream-ambitions/
3/ Thai Military Government Approves Plan for Blasting Mekong River Rapids in Chiang Rai. Chiang Rai Times, Jan 17, 2017 http://www.chiangraitimes.com/thai-military-government-approves-plan-for-blasting-mekong-river-rapids-in-chiang-rai.html
4/ Monash Environment Institute. Evaluation of the EIA for the Proposed Upper Mekong Navigation Improvement Project. Chris Cocklin, Monique Hain. MEI, Monash University, Australia. December 2001.
 5/ Phá Ghềnh Thác / Mở Rộng Lòng Sông / Huỷ Hoại Sinh Cảnh: Nguồn Cá Sông Mekong Đang Chết Dần. Ngô Thế Vinh; Viet Ecology Foundation; 09.2009 http://vietecology.org/Article/Article/43# 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét