Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

20161216. CHỦ NGHĨA DÂN TÚY VÀ DONALD TRUMP

ĐIỂM BÁO MẠNG
CHỦ NGHĨA DÂN TÚY MỸ VÀ DONALD TRUMP
TRẦN TRUNG ĐẠO/ BVN 16-12-2016

Kết quả hình ảnh cho chủ nghĩa dân túy

Bốn năm trước trong loạt bài về Thổ Nhĩ Kỳ người viết có giới thiệu chủ nghĩa dân túy (populism) trong đó Mustafa Kemal, người sáng lập nền Cộng Hòa Thổ (Republic of Turkey), quan niệm cách mạng dân tộc dân chủ của Thổ Nhĩ Kỳ là một cuộc cách mạng xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của toàn dân. Ông đề cao các giá trị văn hóa lịch sử Thổ và xem đó như hành trang lên đường hướng tới một tương lai sáng lạn cho dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Tuy nhiên trường hợp thành công của Mustafa Kemal là một trường hợp hiếm hoi. Không ít chính trị gia sử dụng dân túy kể cả tại Thổ dưới chính quyền Recep Tayyip Erdoğan, như một phương tiện để dẫn đến mục đích chính trị cực đoan (tả và hữu), và tàn phá niềm tin của các tầng lớp người trước đó đã bầu họ lên.
Không ít người hiểu không đầy đủ nội dung và phương tiện của chủ nghĩa dân túy nên thường phân tích quan điểm dân túy với tính tiêu cực nhằm kết án một lãnh tụ chính trị và bỏ qua các mặt tích cực, cao cả có tính lịch sử của chủ nghĩa này.

Trước hết, chủ nghĩa dân túy là gì?
Theo các tác giả Mỹ Mary Beth Norton, David M. Katzman, David W. Blight, Howard Chudacoff, Fredrik Logevall trong cuốn hai của bộ Lịch sử Hoa Kỳ, chủ nghĩa dân túy rút ra từ chữ Latin populus, là chủ thuyết chính trị ủng hộ quyền lực của những người dân thường trong cuộc đấu tranh với tầng lớp đặc quyền (The political doctrine that supports the rights and powers of the common people in their struggle with the privileged elite).
Định nghĩa này được chấp nhận rộng rãi nhưng khá tổng quát vì rất ít khi lãnh đạo các phong trào dân túy thừa nhận họ là “đại biểu của tầng lớp người dân thường”. Dù sao, nếu đồng ý với định nghĩa trên, dân túy là một lý tưởng cao cả, qua đó, những người đại diện cho đa số bị thiệt thòi, áp bức để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại thiểu số nắm phần lớn các đặc quyền, đặc lợi trong xã hội.
Michael Kazin, tác giả của The Populist Persuasion and A Godly Hero: The Life of William Jennings Bryan không cho dân túy là một chủ nghĩa mà đúng hơn là một thúc giục, một ngôn ngữ, qua đó người vận dụng hiểu được nguyện vọng của những người bình thường, không bị ràng buộc một cách hạn hẹp bởi giai cấp, nhìn các đối thủ của họ như là một nhóm nhỏ chỉ biết vì tư lợi, phi dân chủ và tìm cách vận động thành phần trước chống lại nhóm nhỏ sau này.
Nếu đồng ý với định nghĩa của Michael Kazin thì dân túy còn có thể là một thủ thuật chính trị của những kẻ nắm được thời cơ, vận dụng tâm lý quần chúng để nắm lấy quyền lực bằng các phương pháp dân chủ. Theo định nghĩa này, Hitler cũng là dân túy, ít nhất cho đến khi ông ta tập trung toàn bộ quyền lực trong tay vào đầu năm 1933.
Chủ nghĩa dân túy tại Mỹ
Các học giả phân loại chủ nghĩa dân túy Mỹ dựa trên tư tưởng chính trị như dân túy cánh tả cuối thế kỷ 19 hay dân túy cánh hữu trong thời kỳ đầu của Chiến tranh lạnh và sau này.
Dân túy cánh tả Mỹ
Về mặt lịch sử, Đảng Nhân Dân (People's Party) hay còn được gọi là đảng Dân Túy phát xuất từ phong trào nông dân Mỹ cuối thế kỷ 19. Giới nông dân trong giai đoạn này phải vừa chịu đựng giá bông sợi xuống thấp, hạn hán kéo dài mà vừa phải mang gánh nặng lãi xuất ngân hàng cao, cộng thêm với giá chuyên chở cao.
Trong tình trạng đó, nông dân, nghiệp đoàn và cảm tình viên đã đoàn kết dưới danh nghĩa của Đảng Nhân dân (People's Party), và những người trong phong trào thường được gọi là những nhà dân túy. Đảng Nhân dân đòi hỏi quốc hữu hóa hệ thống xe lửa, giải tán các ngân hàng cho vay lớn, loại bỏ tiêu chuẩn vàng.
Cao điểm của đảng Nhân Dân là cuộc bầu cử tổng thống năm 1892 trong đó ửng cử viên James B Weaver của đảng chiếm được 8,5 phần trăm số cử tri đi bầu và thắng cử tri đoàn trong năm tiểu bang (Colorado, Idaho, Kansas, Nevada, North Dakota).
Sau cuộc bầu cử, Đảng Nhân Dân chia làm hai cánh, một cánh chủ trương tiếp tục là một đảng độc lập và cánh khác chủ trương sáp nhập vào đảng Dân chủ. Dù sau đó tan rã, phong trào dân túy đã để lại nhiều ảnh hưởng trong nhận thức chính trị cũng như chính sách của các lãnh đạo Mỹ sau này trong đó có chính sách New Deal của tổng thống Franklin Roosevelt.
Dân túy cánh hữu Mỹ
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa dân túy Mỹ chuyển hướng từ tả sang hữu da trắng. Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy chống Cộng sản, Thống đốc Alabama George Wallace chống khuynh hướng quan liêu thư lại trong chính phủ liên bang. Đảng độc lập của George Wallace thắng 13.8 phần trăm số phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968.
Sau khi tổng thống Barack Obama đắc cử nhiệm kỳ đầu, chủ nghĩa dân túy cánh hữu Mỹ phục hồi mạnh mẽ với sự ra đời của phong trào “Tea Party” vào tháng 2, 2009. Phong trào lấy ý nghĩa từ chiến dịch chống thuế trà của Anh xảy ra tại Boston vào 16 tháng 12, 1773. Phong trào “Tea Party” là một tập hợp lỏng lẻo của nhiều nhóm Cộng hòa bảo thủ nhằm chống lại các chính sách y tế của TT Obama, đòi hỏi các biện pháp giảm nợ quốc gia, hạ thấp mức thiếu hụt ngân sách, cắt giảm chi phí điều hành chính phủ liên bang và giảm thuế.
Mặc dù chỉ là một phong trào, “Tea Party” có ảnh hưởng rất sâu sắc trong nội bộ đảng Cộng hòa. Nhiều thống kê cho thấy hơn 10% người dân Mỹ xác định họ là thành viên của phong trào. Ảnh hưởng của “Tea Party” kéo dài cho tới ngày nay và đóng một vai trò ý nghĩa trong cuộc bầu cử tổng thống vừa qua.
Trump, một nhà dân túy?
Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vừa qua, lý luận dân túy lại một lần nữa được mổ xẻ trong sinh hoạt chính trị Mỹ vì cả Bernie Sanders (tả) lẫn Donald Trump (hữu) đều tranh cử mang ít nhiều màu sắc chính trị dân túy.
Cả Sanders và Trump đều cho rằng họ dựa trên ước muốn đại đa số nhân dân bị bỏ rơi bởi các hệ thống (establishments), tức những nhóm chế ngự cơ cấu chính trị quốc gia bằng cách nắm giữ các chức vụ quan trọng trong guồng máy điều hành chính phủ hay các trung tâm lý luận của một quốc gia.
Từ quan điểm đó, nhiều nhà phân tích cho rằng Donald Trump là nhà dân túy và ứng cử dựa trên hệ thống lý luận dân túy, tuy nhiên, cũng có một số phản biện, trong đó có Barack Obama, cho rằng Trump chỉ theo chủ nghĩa bảo vệ quyền lợi người bản xứ (nativism) hẹp hòi.
Trong buổi vận động cho bà Hillary Clinton hôm 23 tháng Sáu, 2016 tại North Carolina, Obama giải thích rằng suốt cuộc đời chính trị ông đã thật sự quan tâm đến vấn đề giáo dục dành cho học sinh nghèo, bảo đảm sức khỏe của mọi người dân đều được quan tâm, và công bằng trong thuế má. Tổng thống nói, những việc làm đó cho thấy “tôi mới nên được gọi là nhà dân túy”.
Tuy nhiên quan điểm của TT Obama bị một số nhà phân tích bác bỏ và cho rằng nói như tổng thống thì Donald Trump mới chính là người dân túy vì ông đã đứng lên chống lại chính phủ thối nát và các nhóm đặc quyền, đặc lợi.
Michael Kazin, tác giả uy tín nghiên cứu về chủ nghĩa dân túy, cho rằng Trump đã “bày tỏ một mặt của chủ nghĩa dân túy, giận dữ nhắm vào cơ chế và các thành phần ưu tú. Ông tin rằng dân chúng Mỹ đã bị các thành phần ưu tú này phản bội. Nhưng mặt khác của chủ nghĩa dân túy là ý thức của một con người đạo đức, con người đã bị phản bội bởi những lý do và có một đặc tính rất riêng biệt, dù người đó là công nhân, nông dân hay người trả thuế. Trong khi Trump thì khác, tôi không thấy nhiều ý thức như vậy nơi ông”.
Đừng nói chi là bầu cử tổng thống, ngay trong vòng sơ bộ của đảng Cộng Hòa đã cho thấy đảng viên Cộng hòa, những người nghĩ họ là nạn nhân của chính sách toàn cầu hóa, hệ thống quan liêu thư lại, chi dùng liên bang, đã dứt khoát muốn có một khuôn mặt ngoài cơ chế, người ngoài cuộc quyết tâm phục hồi các quyền lợi, bù đắp những thiệt thòi, củng cố vị trí đang yếu kém của nước Mỹ. Các đặc điểm về cá tính, đời tư, lời ăn tiếng nói không quan trọng bằng các quan tâm về an ninh, thuế má, phát triển kinh tế và màu da. Người đó là Donald Trump.
Khác với những lãnh tụ phong trào dân túy hữu bảo thủ như George Corley Wallace hay Pat Buchanan, Trump thu hút thành phần trung hữu. Ông tách ra khỏi khuynh hướng Cộng hòa cực đoạn khi phê bình Pat Buchanan “Tôi đoán chừng ông ta là người ngưỡng mộ Hitler, chống Do Thái, ghét da đen, ghét đồng tính”. Trong tác phẩm quan trọng xuất bản năm 2000 The America We Deserve, Donald Trump đưa ra các chính sách gần với quan điểm trung hữu hơn là bảo thủ.
Trump, một “dealmaker”?
Đa số người Việt quan tâm đến chính sách đối ngoại của Donald Trump. Cũng trong The America We Deserve, ông chủ trương các biện pháp đối ngoại mềm dẻo với Nga và cứng rắn với Trung Quốc. Theo Trump, phương pháp ngoại giao theo kiểu chơi cờ trong Chiến tranh Lạnh đã qua, “chính sách ngoại giao hiện nay phải đặt trong tay những người giao thương chuyên nghiệp nhằm đạt mục đích cho lợi nhất cho họ (dealmaker)”.
Một ví dụ điển hình cho quan điểm này của Trump xảy ra ngày 3 tháng 12, 2016 khi Bộ Ngoại Giao Trung Cộng gởi một phàn nàn đến Mỹ về cú điện thoại giữa Donald Trump và TT Đài Loan và cho rằng cú điện thoại đã thay đổi chính sách của Mỹ từ năm 1979 nhìn nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Cách giải thích của Donald Trump đúng như giọng của một “dealmaker”: “chẳng lẽ bán cho họ nhiều tỉ đô la vũ khí mà không chấp nhận một lời chúc mừng hay sao.” Phát biểu này không phải phát xuất từ cá tính bộc trực mà đã được Trump khẳng định trong tác phẩm của ông ta mười sáu năm trước.
Đừng quên, chính sách “Một Trung Quốc” hiện nay là sản phẩm của Chiến tranh Lạnh khi Mỹ chủ trương thỏa hiệp với Trung Cộng yếu để tập trung đối đầu với Liên Xô mạnh. Ngoài việc gián đoạn ngoại giao với Đài Loan, Mỹ còn chấp nhận Eo Biển Đài Loan (Taiwan Strait) như là một tình trạng thực tế (status quo) thuộc về Trung Cộng. Chính sách này lẽ ra không còn tác dụng gì nữa và phải thay đổi.
Nhưng không, hiện nay, Tập Cận Bình mở rộng ‘status quo’ đó bằng cách cấp tốc quân sự hóa các vùng khác trên Biển Đông. Chủ trương của họ Tập là dù không chiếm hết Biển Đông trong thời gian ngắn, ít nhất cũng thiết lập các “status quo” mới để trong trường hợp phải ngồi vào một hội nghị quốc tế, Trung Cộng sẽ dùng các “status quo” đó đặt quốc tế trước một sự kiện đã rồi.
Tuy nhiên tham vọng của Tập sẽ phải gặp phải lực đối đầu rất mạnh và cụ thể vì Trump có lẽ đang chủ trưởng xoay trục ngược lại với chính sách của TT Nixon. Trong hướng tới, Trump có thể sẽ thỏa hiệp với Nga để đương đầu với Trung Cộng bành trướng.
Một số người lo ngại một Donald Trump dân túy sẽ đưa nước Mỹ vào vòng độc tài cá nhân, phe nhóm, đảng phái như tại một số quốc gia khác. Điều đó không thể xảy ra trong sinh hoạt chính trị Mỹ. Ngoài nguyên tắc đối trọng (checks and balances) giữa ba ngành, sự đối trọng còn diễn ra trong nội bộ mỗi đảng và đối trọng giữa cử tri và đại diện cử tri diễn ra trong suốt nhiệm kỳ của họ.
Trở lại với định nghĩa dân túy “là lý thuyết chính trị ủng hộ quyền của những người dân thường trong cuộc đấu tranh với tầng lớp đặc quyền”. Hiện còn khá sớm để áp dụng định nghĩa này vào trường hợp Trump.
Bốn năm tới mới chính là thời gian để hiểu, đo lường và đánh giá hiệu quả các chính sách đối nội và đối ngoại của Donald Trump và qua đó nhìn ông là một nhà dân túy như Jonathan Chait viết, một người theo chủ nghĩa bảo vệ người bản xứ như TT Obama nhận xét, hay chỉ là kẻ cơ hội như George Clooney gọi.
Dù sao, kết quả cuộc bầu cử cho thấy sự xuất hiện của Donald Trump là một đáp ứng nhu cầu thay đổi chính sách của Mỹ và chương mới trong lịch sử Mỹ chỉ vừa bắt đầu.
T.T.Đ.
TẬP CẬN BÌNH VÀ DONALD TRUMP CÙNG ĐƯỢC LỢI
NGÔ NHÂN DỤNG/ BVB 16-12-2016
Ngay sau cuộc điện đàm với bà Thái Anh Văn gây dư luận ồn ào, ông Donald Trump, tổng thống Mỹ tân cử, đã giải thích rằng đó là một hành động xã giao: Người ta gọi để chúc mừng, không bắt máy trả lời là bất lịch sự! Nhưng mấy hôm sau, ông Trump “nâng quan điểm.” Ông hỏi: Tại sao mình cứ phải theo chính sách “Một nước Trung Hoa?”.
Chưa tuyên thệ nhậm chức, Donald Trump đã gây sóng gió ngoại giao khi tỏ ý nghi ngờ một chủ trương của các vị tổng thống Mỹ từ thời Richard Nixon đến nay. Bắc Kinh phản ứng mạnh, một cách bán chính thức. Tạp chí Hoàn Cầu Thời Báo của đảng Cộng sản phê bình ông Trump “dốt như trẻ con” (as ignorant as a child). Không thấy phản ứng đáng kể trong giới chính trị ở Mỹ, chắc vì ai cũng đang bận bàn cãi vụ CIA và FBI tố cáo chính phủ Nga can thiệp vào cuộc bàu cử ở Mỹ cho nên không ai quan tâm đến chuyện Một nước hay Hai nước Trung Hoa! Người Việt Nam thì chắc phải quan tâm, vì nếu trâu bò húc nhau mình cũng đáng lo ngại.
Vậy, chính sách “Một nước Trung Hoa” nghĩa là gì?
Câu chuyện bắt đầu năm 1972, với Thông Cáo Chung Thượng Hải sau các cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Richard Nixon và Thủ tướng Chu Ân Lai. Đây là lần đầu tiên một chính phủ Mỹ công nhận rằng “Chỉ có một nước Trung Hoa” và Đài Loan là một tỉnh thuộc nước đó.
Thực ra từ năm 1949, khi Cộng sản chiếm lục địa và chính phủ Dân Quốc chạy qua Đài Loan, cả hai bên Quốc, Cộng đều chủ trương chỉ có một nước Trung Hoa. Mỗi bên tự coi mình là chính quyền hợp pháp duy nhất của nước Trung Hoa đó, coi bên kia là một bọn “phản loạn” tiếm quyền. Các chính phủ Mỹ cũng đồng ý như vậy, nhưng họ chỉ công nhận chính phủ Dân Quốc ở Đài Bắc.
Năm 1971 Nixon bắt đầu sai thuộc hạ (Kissinger) đi đêm với Trung Cộng, cuối năm đó Liên Hiệp Quốc bắt đầu công nhận chính quyền cộng sản ở Bắc Kinh mà không bị Mỹ dùng quyền phủ quyết gạt đi. Năm sau, Nixon qua Trung Quốc, mở một trang sử mới. Năm 1979,Washington và Bắc Kinh đặt quan hệ ngoại giao chính thức, Mỹ rút đại sứ ở Đài Bắc về, chỉ đặt một văn phòng liên lạc về thương mại. Quốc hội Mỹ đã thông qua một “Đạo luật Đài Loan” bảo đảm Mỹ tiếp tục cung cấp vũ khí để Đài Loan không bị Trung Cộng đánh chiếm.
Thông Cáo Chung Thượng Hải là căn bản của chính sách “Một nước Trung Hoa” theo đó nước Mỹ cam kết ba điều: Không ủng hộ Đài Loan tuyên bố độc lập; Không công nhận hai nước Trung Hoa tách rời; và không ủng hộ Đài Loan vào các tổ chức quốc tế, ngang hàng với Bắc Kinh (trừ một vài cơ quan Liên Hiệp Quốc về văn hóa, xã hội, y tế, IMF, Ngân hàng Thế giới, và WTO, tổ chức mậu dịch thế giới). Cả ba chữ “không” trên quy tụ vào một điều chính trong Thông Cáo Chung Thượng Hải: Không công nhận một nước Đài Loan độc lập, tách ra khỏi nước Tàu. Các chính phủ Mỹ, từ thời Nixon đến thời Obama đều theo chính sách “Ba Không” này. Để đổi lại, họ được một thỏa thuận ngầm là Trung Cộng hứa sẽ không dùng vũ lực “giải phóng” Đài Loan. Trong quá khứ, lâu lâu Washington và Bắc Kinh lại “đấu khẩu” và “diễn võ” mỗi lần Trung Cộng thấy Mỹ có vẻ đi ra ngoài đường lối Ba Không.
Vậy khi ông Donald Trump đặt câu hỏi về chính sách “Một nước Trung Hoa” thì ông muốn nói gì? Một cách cụ thể, liệu muốn ông có xóa bỏ chính sách “Ba Không” hay chăng?
Không ai đoán trước được ý định thật của ông Trump, và chắc ông cũng chưa biết mình sẽ làm gì. Vì chính ông cũng nói rằng ông chỉ muốn dùng vấn đề “Một nước Trung Hoa” như một món hàng trao đổi, để mặc cả với Cộng sản Trung Quốc trong những vấn đề khác: Thương mại, hối suất, Bắc Hàn, và Biển Đông. Đây không phải là một hành động thay đổi chính sách, mà chỉ là một màn biểu diễn để mặc cả.
Nói như vậy, thì một chính quyền Trump sau này sẽ trình bày món “Một nước Trung Hoa” như thế nào khi bàn chuyện trao đổi? Họ chỉ có thể yêu cầu Trung Cộng phải mua máy móc của Mỹ nhiều hơn và đánh thuế nhẹ, sao cho cán cân thương mại Mỹ bớt khiếm hụt; Trung Cộng phải nâng cao hối suất đồng nguyên; phải áp lực buộc Bắc Hàn ngưng làm bom hạch tâm; và phải ngưng bành trướng ở vùng Biển Đông Nam Á. Và họ kết luận: Nếu các ông không chịu các điều kiện trên thì chính phủ Mỹ sẽ chấm dứt chủ trương “Một nước Trung Hoa.” Điều này chỉ có ý một nghĩa cụ thể: Chính phủ Mỹ sẽ khuyến khích Đài Loan tuyên bố độc lập, tách hẳn khỏi nước Tàu, với lời hứa hẹn nước Mỹ sẽ bảo vệ quốc gia mới này! Nếu không phải như vậy thì những lời đe dọa sẽ trở thành nói xuông, không có hiệu quả nào hết.
Nhưng một điều ai cũng biết là Cộng sản Trung Hoa chắc chắn không thể bàn bạc vấn đề “Một nước Trung Hoa” như một món hàng trao đổi. Chỉ cần tỏ ý chấp nhận bàn bạc chuyện đó cũng đủ làm cho một tỷ người dân Trung Hoa trong lục địa nổi loạn! Vì từ cuộc Chiến tranh Nha phiến, thế kỷ 19, đến giờ, trong lòng người Tàu vẫn còn ôm mối hận bị các nước Âu Mỹ chiếm đất, chia cắt lãnh thổ, ép các chính quyền Trung Hoa nhu nhược phải nhượng bộ đủ điều. Đối với bất cứ chính quyền Trung Hoa nào, cộng sản hay quốc gia, đem chuyện thống nhất quốc gia ra bàn bạc, trao đổi, tức là phản quốc. Ngày 4 tháng 5 năm 1919 thanh niên, sinh viên Bắc Kinh đã nổi dậy khi chính quyền Đoàn Kỳ Thụy chấp nhận ý kiến của các nước Anh, Pháp, Mỹ, cho Nhật Bản được quản trị miền Sơn Đông thay thế nước Đức thua trận, gây nên phong trào Ngũ Tứ Vận Động.
Trong những cuộc tranh chấp đất đai, vườn ruộng giữa những người dân Á Đông, họ có thể mặc cả nhiều điều nhưng không thể chấp nhận cho ai đụng tới cái “mả tổ” của gia đình mình. Ông Trump có thể biến vấn đề Đài Loan thành cái “mả tổ” của dân Trung Hoa. Đến bàn hội nghị mà nghe đặt vấn đề đó như một điều kiện trao đổi thì bất cứ nhân viên ngoại giao nào người Trung Hoa cũng phải đứng dậy, không bàn nữa.
Cho nên chắc chắn chính quyền Donald Trump sau này sẽ không chính thức đem chính sách “Một nước Trung Hoa” ra như một vấn đề trao đổi. Những lời tuyên bố của ông Trump chỉ cốt cho Trung Cộng thấy rằng chính phủ Mỹ luôn luôn còn giữ trong tay áo một quân cờ tối hậu: Họ có thể ủng hộ một nước Đài Loan độc lập!
Nhưng một quân cờ chỉ có giá trị nếu đối thủ tin rằng mình sẽ đem dùng. Dùng nước cờ “Đài Loan Độc lập” cần hai điều kiện: Chính phủ Đài Loan sẵn sàng tuyên bố độc lập; và quân đội Mỹ sẵn sàng qua Đài Loan bảo vệ hòn đảo này. Vì nếu Đài Loan đòi ly khai thì thế nào Trung Cộng cũng phải tấn công, nếu không chính quyền Bắc Kinh sẽ bị lật đổ.
Từ năm 1971 đến nay, dù chỉ còn được dưới 20 quốc gia nhỏ công nhận, chính quyền trên hòn đảo Đài Loan trên thực tế vẫn độc lập. Họ không thể công khai tuyên bố tách Đài Loan ra khỏi nước Trung Hoa, trước hết vì còn di sản từ thời 1949, vẫn còn tự coi là một chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Trên thực tế, dù đủ sức chống cự các cuộc xâm lăng với Mỹ giúp sức, họ cũng không thể bắt hơn 20 triệu dân phải chịu cảnh chiến tranh với Trung Cộng, chỉ vì một vấn đề danh nghĩa.
Sau khi nói chuyện 10 phút với ông Donald Trump, bà Thái Anh Văn vẫn tuyên bố rằng bà nghĩ cuộc điện đàm đó không thay đổi chính sách của chính phủ Mỹ tương lai đối với Trung Quốc. Sau khi ông Trump đặt câu hỏi tại sao cứ phải theo chính sách “Một nước Trung Hoa,” Dinh Tổng thống và bộ ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc hoàn toàn nín lặng; mặc dù báo chí Đài Loan loan tin rầm rộ với mối lo ngại rằng dân đảo này có thể sắp gánh họa nếu có một cuộc tranh hùng giữa hai cường quốc. Các đại biểu quốc hội thuộc đảng Dân Tiến, một đảng có khuynh hướng độc lập, cũng làm giảm trọng lượng của lời ông Trump nói, mô tả đó chỉ là một món đòn để ông Trump đòi hỏi chuyện khác. Đài Loan có thể thấy vai trò của mình bỗng nhờ ông Trump mà trở thành quan trọng hơn, nhưng ai cũng biết nếu xẩy ra chiến tranh thì chỉ có dân hòn đảo này chịu tai họa nặng nề. Mà dù không có chiến tranh, thì Trung Cộng cũng sẽ dùng Đài Loan như một thứ “bung sung” để trả đòn Mỹ!
Ngay sau khi ông Trump nêu thắc mắc, nhật báo Nhân Dân ở Bắc Kinh đã viết rằng nếu chính quyền Mỹ không còn công nhận “Một nước Trung Hoa” thì Trung Cộng không có lý do nào để theo đuổi con đường hòa bình, không dùng vũ lực để chiếm lại Đài Loan! Tạp Chí Hoàn Cầu Thời Báo thì khuyến cáo Trung Cộng phải chuẩn bị về quân sự đối với Đài Loan để “trừng phạt những kẻ hô hào Đài Loan độc lập!” và các hành động “gây hấn” của Mỹ ở Biển Đông. Trước đó, Trung Cộng cũng đã cho pháo đài bay H-6, có khả năng chở bom nguyên tử, bay biểu diễn tại eo biển Nhật Bản và trong vùng Biển Đông.
Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều màn “đấu khẩu” và “diễn võ” của Bắc Kinh trong thời gian tới. Bởi vì Tập Cận Bình không thể nào để mình bị mất mặt, trong lúc đang củng cố địa vị trước kỳ đại hội đảng cuối năm 2017. Ngược lại, Tập Cận Bình sẽ nhân cơ hội này chứng tỏ mình “cứng” hơn Trump, sẵn sàng đương đầu với chính sách của chính phủ Mỹ sắp tới.
Cảnh “đấu khẩu” và “diễn võ” từng diễn ra trước đây. Đầu năm 1995, khi chính phủ Clinton cho phép tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy vào nước Mỹ đi thăm Đại học Cornell, nơi ông đã theo học, thì Trung Cộng đã “trả đũa” bằng những vụ bắn hỏa tiễn qua eo biển Đài Loan trong hai tháng mùa hè, rồi lại bắn lần nữa vào tháng Ba năm sau. Chính quyền Mỹ lúc đó đã phản ứng bằng cách đưa hai hàng không mẫu hạm qua eo biển Đài Loan biểu diễn. Cuối cùng, mọi chuyện lại được thu xếp, vào năm 1998 ông Clinton lại đi thăm nước Tàu. Vị tổng thống giữ liên lạc với Bắc Kinh ổn định nhất có lẽ là ông George W. Bush; vì ông và Hồ Cẩm Đào đồng ý “chống khủng bố.” Đến thời Barack Obama tình hình căng thẳng không phải vì Đài Loan mà vì chủ trương chuyển trục, sẽ đưa hai phần ba sức mạnh hải quân Mỹ qua Thái Bình Dương. Nay đến lượt ông Donald Trump, vấn đề Đài Loan được nêu ra nhu một món hàng trao đổi khi bàn chuyện kinh tế.
            Trong năm tới, chúng ta sẽ còn chứng kiến những màn “diễn võ” kèm theo “đấu khẩu” giữa Bắc Kinh và Washington. Vì cả hai ông Tập Cận Bình và Trump đều được lợi trong không khí căng thẳng đó. Ông Bình sẽ có cơ hội đóng vai “người hùng” bảo vệ danh dự và quyền lợi dân Tàu. Địa vị của ông sẽ lên cao trong đại hội đảng thứ 19. Ông Trump sẽ có cơ hội chứng tỏ mình giỏi hơn tất cả các đời tổng thống trước, dám đứng dậy đe dọa Trung Cộng! Ông sẽ được dân Mỹ hoan nghênh, chuẩn bị tranh cử năm 2020!
Nhưng cuối cùng, quyền lợi kinh tế của hai nước sẽ quyết định. Hai cường quốc sẽ không thể lâm chiến chỉ vì danh nghĩa của một hòn đảo với 20 triệu dân. Chuyện họ đang buôn bán với nhau quan trọng hơn chuyện Đài Loan độc lập hay không; trong khi chính người dân ở đó cũng chỉ muốn ai ở đâu ở đó, còn lo làm ăn buôn bán kiếm lời!
NND/Diễn đàn thế kỷ
ÔNG PHẠM MINH CHÍNH ĐI TRUNG QUỐC
NGUYỄN AN DÂN/ BVB 15-12-2016
Hôm nay truyền thông chính thức loan tin ông Phạm Minh Chính, Ủy Viện Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương, đang thăm Trung Quốc và gặp ông Lưu Vân Sơn, thường trực ban bí thư, nhân vật số 4 của Đảng CSTQ.
Giới quan sát chính trị Việt Nam ít ai chú ý đến ông Phạm Minh Chính cho đến khi ông này vào Bộ Chính Trị, tuy nhiên trong quá trình quan sát đảng CSVN, tôi cũng có chú ý đến ông
1/ Vài nét về ông Phạm Minh Chính.
Tôi đánh giá ông là một người có xu hướng pháp trị, từng được đào tạo bài bản chuyên nghiệp từ khi còn trẻ và tại Đông Âu
Có thể nói so với nhiều quan chức cấp cao của đảng CSVN hiện nay, ông Phạm Minh Chính là người chứng kiến tận mắt nhiều vấn đề cải cách của các nước Đông Âu từ độc tài chuyển hóa sang dân chủ, khi ông đảm nhiệm vị trí Đại sứ tại Rumani từ năm 1989 đến năm 1995
Trong suốt quá trình học tập và làm việc, khác với một số quan chức cấp cao khác, ông Chính là phó giáo sư và tiến sĩ Luật, không phải ở chuyên ngành xây dựng đảng hay Mác-Lê Nin
Dưới thời ông Chính làm bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh, người dân Quảng Ninh có nhiều thiện cảm với ông khi ông đưa Quảng Ninh từ một tỉnh vùng biên phức tạp trở thành một địa phương phát triển nhanh, mạnh với nhiều chính sách cải cách như thi tuyển lãnh đạo cấp sở, cải cách hành chính và chính quyền điện tử, cải tạo hạ tầng các vùng sâu vùng xa như huyện đảo Cô Tô...
Giới am hiểu triều chính đánh giá ông Chính là người kín kẽ, ít dây dưa vào các scandal như nhiều quan chức khác, có tư duy quản lý, tổ chức và hoạch định chính sách và biết quân bình lợi ích giữa các phe phái khi cần
Với vị trí là trưởng ban tổ chức Trung Ương, được coi là ghế quyền lực thứ 8 trong Bộ Chính Trị, vì theo quy trình làm nhân sự của đảng, Ban Tổ Chức TW là nơi lập tờ trình đầu tiên để các khâu sau phê chuẩn cho các chức danh hàm cục, vụ trưởng và tương đương trở lên
2/ Tiếp tục tiến xa hơn ?
Trong bối cảnh Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng có tin hành lang là chỉ ngồi từ 2-4 năm nữa thì vấn đề ai sẽ là tổng bí thư sau đó được coi là vấn đề quan trọng, không chỉ của đảng và còn là sự quan tâm của nhân dân và các cường quốc như Trung - Mỹ
Ngoài những gương mặt đang có quyền lực và được đánh giá là tốp 1 như ông Trần Đại Quang và ông Đinh Thế Huynh thì tốp 2 gồm các ông Hoàng Trung Hải , Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính,..
Nếu tin tức tôi được nghe về việc quy định mới của đảng là muốn lên chức tổng bí thư thì phải kinh qua chức vị bí thư tỉnh ủy là đúng thì coi bộ tốp 2 có lợi thế hơn tốp 1. Tuy nhiên có vẻ như ông Võ Văn Thưởng mất lợi thế vì vấn đề sức khỏe cá nhân, như vậy cuộc đua có vẻ như chỉ còn lại hai ứng viên vượt trội là ông Hoàng Trung Hải và ông Phạm Minh Chính
Do đó hôm nay chúng ta không lạ khi ông Chính đi Trung Quốc, vị trí tổng bí thư đảng CSVN luôn là mối quan tâm có thể coi là hàng đầu của TQ trong quan hệ Viêt-Trung, và nhất là xưa nay giữa ông Chính và thiên triều ít có vẻ thân mật hơn đồng sự Hoàng Trung Hải
Về phía Mỹ cũng thế, với tầm quan trọng của Việt Nam trong bàn cờ Châu Á-Thái Bình Dương mà Mỹ đang đánh thì việc ai là tổng bí thư Đảng CSVN sắp đến cũng rất quan trọng, có lẽ vì vậy mà ông John Kerry, Bộ Trưởng Ngoại Giao sắp mãn nhiệm, sẽ đến Việt Nam trong tuần này ngay sau khi ông Chính từ Trung Quốc về chăng ?
Được coi là người có tư duy tiến bộ và cải cách, từng đảm nhiệm các vị trí có thể hiểu và quan sát cải cách như đại sứ tại Đông Âu, chuyên viên cấp cao văn phòng chính phủ, thứ trưởng Bộ Công An và bí thứ Quảng Ninh, có vẻ ông Chính đủ tầm để thực hiện một cuộc cải cách mà không làm mất đảng, vấn đề chỉ là ông có lên ngôi được và quyết tâm thực hiện hay không ?
Có một tiền lệ là những ai mà được nhà báo chống tham nhũng một bên Huy Đức nhắc đến như một nhà cải cách thì ít khi mà lên cao nữa được, hôm qua tện Phạm Minh Chính đã xuất hiện trên 1 bài viết của ông Huy Đức, liệu rằng sẽ lặp lại các tiền lệ trước đây ?
Nếu không còn sự lựa chọn nào khác, tôi nghĩ ông Chính lên ngôi thì nhân dân có vẻ sẽ dễ thở hơn ông Hoàng Trung Hải
Đã đến lúc đất nước cần "Minh" và "Chính", để còn chuyển hóa chính trị đưa đất nước có động lực mới tiến lên
Nguyễn An Dân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét