Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

20150918. GIÁO SƯ PHẢI GẮN VỚI MỘT ĐẠI HỌC

ĐIỂM BÁO MẠNG
 HẾT KHÁC THƯỜNG ĐỂ GIÁO SƯ VIỆT RA QUỐC TẾ KHÔNG LÉP VẾ
Bài của GS NGUYỄN VĂN TUẤN / TVN 18/9/2015)
Giáo sư, Phó giáo sư, tiến sĩ, đại học, giảng dạy, Đại học Tôn Đức Thắng, Đổi mới giáo dục
Giáo sư phải chứng tỏ là có công tạo dựng và duy trì sự phát triển của trường đại học nơi họ giảng dạy. Ảnh minh họa
Đã đến lúc cần cải cách vấn đề bổ nhiệm giáo sư, và giao nhiệm vụ về cho các đại học. Bộ GDĐT chỉ cần quản lí qui trình bổ nhiệm.  
Việc trường Đại học Tôn Đức Thắng, mới được Chính phủ trao quyền tự chủ, triển khai qui trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm chức vụ giáo sư đang gây ra nhiều tranh cãi.  Đối với những người đã quen với qui trình phong chức danh giáo sư hiện nay (do Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước) thì sáng kiến của ĐH TĐT được xem là không có tính pháp lí. Nhưng đối với những người có tinh thần cải cách thì sáng kiến của ĐH TĐT là phù hợp với qui trình bổ nhiệm giáo sư của các đại học trên thế giới.
Có thể nói, đây là dịp lí tưởng để nhìn lại qui trình bổ nhiệm giáo sư, và hi vọng tìm ra một cách làm tốt hơn.
Coi Giáo sư như một phẩm hàm
Chức danh "giáo sư" hiện nay có thể hiểu như là một phẩm hàm, và theo tôi đó là một quan niệm lạc hậu. Thật vậy, theo Nghị định Chính phủ 20/2001/NĐ-CP, những người được phong chức danh GS/PGS sẽ được vinh danh suốt đời, ngay cả sau khi nghỉ hưu.
Vì là phẩm hàm, nên Việt Nam có khá nhiều giáo sư nhưng không làm việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Một thống kê cho thấy, trong số hơn 11.000 giáo sư và phó giáo sư (GS/PGS) được tiến phong từ 1976 đến hết năm 2014, chỉ có khoảng hơn 4.100 người làm trong các đại học. Số còn lại hoặc là nghỉ hưu, đã mất, hoặc là làm việc trong các cơ quan công quyền và quản lí. Đó là một tình trạng trớ trêu, vì trong khi các đại học kêu thiếu giáo sư, thì phần đông giáo sư lại ở… ngoài đại học!
Nhưng ở các nước tiên tiến trên thế giới, giáo sư không phải là một chức danh hay phẩm hàm, mà là một chức vụ gắn liền với một đại học. Do đó việc bổ nhiệm, đề bạt chức vụ giáo sư do đại học phụ trách, nhưng qui trình bổ nhiệm thì hoàn toàn theo mô thức bình duyệt (peer review), vốn là trụ cột của hoạt động khoa học.  
Những quan ngại về việc chuyển quyền bổ nhiệm giáo sư cho các đại học là chính đáng. Các đại học có thể đặt ra những tiêu chuẩn “địa phương”, tiêu chuẩn thấp để nâng cao số lượng giáo sư cho trường, hoặc tạo ra qui trình bổ nhiệm lỏng lẻo để thiên vị những cá nhân mà họ muốn.  Theo qui trình này, đơn của ứng viên sẽ được gửi cho các đồng nghiệp cùng ngành để nhận xét dựa vào các tiêu chuẩn do trường đặt ra; và dựa vào nhận xét đó, hội đồng học thuật sẽ bổ nhiệm ứng viên vào một chức vụ giáo sư thích hợp. Đó là qui trình chuẩn, mà hầu hết các đại học ở các nước tiên tiến và ngay cả một số nước tại khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore đã làm từ nhiều thập niên qua.  
Những vấn đề trên có thể xảy ra, nhưng có thể quản lí. Ví dụ, ở các nước tiên tiến như Mĩ, các trường vẫn có những tiêu chuẩn giáo sư khác nhau. Trường trong nhóm “tinh hoa” (elite) thường có bộ tiêu chuẩn cao hơn trường kém nổi tiếng. Tôi từng biết vài trường hợp những giáo sư bên Mĩ nhưng khi sang Úc thì không được bổ nhiệm chức vụ đó, do tiêu chuẩn khác nhau. Đó chính là lí do chức vụ giáo sư phải gắn liền với một đại học. Và, nếu đại học muốn có thương hiệu tốt, gây lòng tin ở công chúng, thì họ phải có những tiêu chuẩn thích hợp.  
Một quan ngại khác là nếu giao cho trường đại học bổ nhiệm thì Việt Nam sẽ có rất nhiều giáo sư. Tuy nhiên, tôi nghĩ vấn đề không phải là nhiều hay ít mà là giáo sư của trường có xứng đáng với danh hiệu đó hay không. Từng có người trong HĐNN cũng phải thú nhận: “Đánh giá nghiêm túc theo chuẩn mực quốc tế, có lẽ chỉ 15-20% số GS, PGS của ta có trình độ thật sự tương xứng với chức vụ đó” [1].
Do đó, vấn đề chính là việc bổ nhiệm giáo sư phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế (như xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế, đóng góp cho chuyên ngành, đóng góp cho đại học, và phục vụ xã hội). Nếu làm đúng và có chuẩn mực nghiêm chỉnh, người được bổ nhiệm, bất cứ của trường nào, đều có quyền tự hào mà không thấy "lép vế" khi ra nước ngoài.
Tiêu chuẩn... khác thường
Bàn về tiêu chuẩn, thì các tiêu chuẩn giáo sư của Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (gọi tắt là HĐNN) còn có nhiều vấn đề phải bàn thêm. Chẳng hạn như tiêu chuẩn về "Trung thực, khách quan và hợp tác với đồng nghiệp trong hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, công nghệ" liệu có dính dáng gì đến học thuật, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học?
Hay ngay cả tiêu chuẩn mang tính “cân đo đong đếm” như qui đổi các công trình khoa học sang điểm cũng rất mù mờ và thiếu tính khoa học. Chẳng hạn, cách tính điểm các tập san khoa học nước ngoài bằng cách chia thành 2 nhóm: Nhóm có hệ số ảnh hưởng 2 hay thấp hơn có điểm từ 0 đến 1; nhóm có hệ số ảnh hưởng (impact factor) trên 2 có điểm từ 0 đến 2. Điều bất hợp lí là việc cho điểm bài báo công bố trên tập san nước ngoài bằng bài báo công bố trên tập san trong nước. Nói cách khác, một công trình trên các tập san lừng danh thế giới như Lancet hay New England Journal of Medicine có giá trị y chang như một bài trên một tạp chí trong nước!
Ngoài ra, còn có tiêu chuẩn mang tính chủ quan là bình bầu, theo đó ứng viên phải được 2/3 số phiếu tín nhiệm của tổng số thành viên trong Hội đồng. Tiêu chuẩn này cũng không mang tính học thuật hay khoa học, và có thể mở cánh cửa cho việc "chạy" chức danh. Lại có những qui định máy móc, như mỗi hồ sơ tiến phong chức danh giáo sư phải được ít nhất 3 GS hoặc PGS cùng ngành xét công nhận.  
Những tiêu chuẩn như vậy rất khác thường, đến nỗi có người thốt lên rằng những người soạn những qui định này “chẳng hiểu gì về giáo dục đại học tiên tiến cả”.  
Bộ tiêu chuẩn hiện nay (của HĐNN) hoàn toàn không có những tiêu chí liên quan đến hoạt động phục vụ cho nhà trường và xã hội. Một giáo sư, dù ở cấp nào, phải là thành phần elite của xã hội. Do đó, ngoài nghiên cứu, giảng dạy, và đào tạo, giáo sư phải có những đóng góp cho chuyên ngành (ví dụ như qua phục vụ trong các tập san khoa học như là chuyên gia bình duyệt), cho xã hội và Chính phủ, và nhất là cho nhà trường. Giáo sư có thể đóng góp ở ngoài, nhưng tại nhà trường, giáo sư cũng phải chứng tỏ là có công tạo dựng và duy trì sự phát triển của trường. Đó lại thêm một lí do nữa tại sao giáo sư phải gắn liền với một trường đại học.  
Nhà nước chỉ nên quản lý qui trình
Tóm lại, việc bổ nhiệm hay tiến phong chức danh giáo sư ở Việt Nam đã đến lúc cần cải cách, cần xem đây là một chức vụ gắn liền với một đại học, chứ không phải là phẩm hàm suốt đời của một cá nhân. Khi ấy, việc giao cho đại học phụ trách việc bổ nhiệm là hoàn toàn hợp lí.  
Nhưng để chuẩn hoá, tôi đề nghị Bộ GDĐT cùng tham vấn với các đại học đề ra qui trình chung (hay qui trình chuẩn) và các tiêu chuẩn tối thiểu cho mỗi chức vụ. Qui trình chuẩn phải dựa vào bình duyệt, kể cả bình duyệt từ các giáo sư nước ngoài. Tôi cũng đề nghị nên có 3 chức vụ: trợ lí giáo sư (assistant professor), phó giáo sư (associate professor), và giáo sư. Cần phải tạo ra hai ngạch giáo sư: giảng dạy và nghiên cứu khoa học, và tiêu chuẩn phải hợp lí cho hai ngạch này.   
Trong việc bổ nhiệm giáo sư, qui trình đúng và tiêu chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ dễ thuyết phục hơn là qui trình rườm rà mà thiếu minh bạch. Do đó, tôi nghĩ Bộ GDĐT thay vì can thiệp vào việc bổ nhiệm giáo sư của các đại học, chỉ cần quản lí tốt qui trình bổ nhiệm và kiểm tra tiêu chuẩn bổ nhiệm.
------
[1] VN có bao nhiêu GS, PGS trình độ quốc tế?, Hà Nội mới, 10/01/2008.
GIÁO SƯ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG CÓ GÌ LẠ ?
Bài của pv LÊ HUYỀN/ VNN 17/9/2015
Trường ĐH Tôn Đức Thắng cho biết chỉ những cá nhân, chuyên gia, nhà khoa học có học vị tiến sĩ trở lên, hợp đồng làm việc với trường 1 năm trở lên mới được bổ nhiệm chức danh phó giáo sư, giáo sư.

 Quy định phong phó giáo sư, giáo sư của nhà trường do hiệu trưởng kí chia các chức danh này làm hai nhóm. Nhóm 1 có nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu gồm giáo sư trợ lý, giáo sư cộng tác, giáo sư. Nhóm 2 làm nhiệm vụ nghiên cứu gồm giáo sư trợ lý nghiên cứu, giáo sư cộng tác nghiên cứu, giáo sư nghiên cứu, giáo sư nghiên cứu xuất sắc.
Trong đó, tiêu chí để bổ nhiệm ở nhóm 1 xét cả các lĩnh vực nghiên cứu trong nước và quốc tế và giảng dạy. Ở trong nước, giáo sư trợ lý có 3 bài tác giả chính trên tạp chí quốc gia; Phó giáo sư có 5 bài tác giải chính; Giáo sư có 10 bài. Quốc tế, giáo sư trợ lý có 2 bài ISI (1 bài là tác giả chính); Phó giáo sư có 5 bài ISI (3 bài tác giả chính); Giáo sư có 10 bài ISI (7 bài tác giả chính).
Tiêu chuẩn giảng dạy, giáo sư trợ lý có 2 năm giảng dạy đại học, hướng dẫn 2 thạc sĩ; Phó giáo sư có 5 năm giảng dạy, hướng dẫn 4 thạc sĩ; Giáo sư có 8 năm giảng dạy, hướng dẫn 2 tiến sĩ.
Ở nhóm 2, giáo sư trợ lý nghiên cứu công bố 4 bài ISI (3 bài tác giả chính), có 12 tổng số trích dẫn. Giáo sư cộng tác nghiên cứu có 10 bài ISI (7 bài tác giả chính), có 30 trích dẫn, dạy ít nhất 3 lớp, hướng dẫn 2 thạc sĩ và 2 tiến sĩ, chủ nhiệm 1 đề tài cấp bộ, có 2 phản biện tạp chí tối thiểu hạng 3.
Giáo sư nghiên cứu có 20 bài ISI (15 bài tác giả chính), 60 trích dẫn, dạy ít nhất 5 lớp, hướng dẫn thành công 4 thạc sĩ và 2 tiến sĩ, có 2 đề tài cấp bộ, 1 đề tài cấp quốc gia, phản biện 4 tạp chí tối thiểu hạng 3, chủ tịch 1 chương trình hội thảo, có 1 báo cáo tại hội thảo quốc gia.
Đối với giáo sư nghiên cứu xuất sắc phải có công trình trên tạp chí ngoại hạng (Nuture, Science) hoặc các giải thưởng khoa học đặc biệt, thuộc hạng chuyên gia 2, có 1 sách hạng nhất, hướng dẫn thành công 8 thạc sĩ và 4 tiến sĩ, có 4 đề tài cấp bộ, 2 cấp quốc gia, phản biện 4 tạp chí, chủ tịch 1 hội thảo, có 1 báo cáo tại hội thảo quốc tế.
Tất cả các cá nhân được phong phải tốt nghiệp đại học, sau đại học ngôn ngữ học tiếng Anh, hoặc có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế B2, khung châu Âu, IELTS 5.5, TOEFL BPT 500, TOEFL iBT 61, TOEIC 600. Đối với khối ngành kinh tế xã hội trường áp dụng lượng quy đổi thấp hơn.
Ngoài ra trường cũng áp dụng mức quy đổi sản phẩm như 1 bằng sáng chế Mỹ (hạng 1, tác giả thứ nhất) tương đương 2 bài ISI (tác giả chính) 1 bằng sáng chế Mỹ hạng 2, tác giả nhất tương đương 1 bài ISI; 1 bài ISI  tương đương 1 đề tài fostect, 2 bài ISI bằng 1 đề tài cấp quốc gia, 3 bài ISI bằng 1 đề tài cấp quốc tế…
Cũng theo quy định này, sau khi được phong, các phó giáo sư, giáo sư ngoài thực hiện trách nhiệm với nhà trường, tham gia các hoạt động giảng dạy, biên soạn chương trình…Ở nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học  người có chức vụ chuyên môn kiêm nhiệm chức vụ quản lý phải công bố ít nhất 1 bài SJR hoặc 1 bài ISI trong vòng mỗi 5 năm.
Nhân sự chuyên môn làm nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy phải công bố  1 bài ISI trong thời gian nhất định. Ở nhóm 1 giáo sư trợ lý trong vòng mỗi 4 năm, giáo sư cộng tác trong vòng mỗi 3 năm, giáo sư trong vòng mỗi 2 năm.
Ở nhóm 2, giáo sư trở giảng nghiên trong vòng mỗi 3 năm, giáo sư cộng tác nghiên trong vòng 2 năm, giáo sư nghiên cứu công bố hằng năm, giáo sư nghiên cứu xuất sắc 2 bài/năm.
Cá nhân sau khi được phong bị phát hiện không đủ tiêu chuẩn, vi phạm đạo đức nhà giáo bị huỷ bỏ quyết định bổ nhiệm. Trường cũng miễn nhiệm những trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ, bị kỉ luật, bị bệnh kéo dài trên 6 tháng, xin từ nhiệm…
  • Lê Huyền

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét