Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

20150715. CHÔNG XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN

ĐIỂM BÁO MẠNG
ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN HIỆN NAY
Bài của LÊ HỒNG/ TCCS 14/7/2015
TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước và nhiều văn kiện các Đại hội Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam qua hơn 85 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, trên mạng in-tơ-nét và một số ấn phẩm in, đã xuất hiện và tán phát những quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hãy phân tích một số trong những quan điểm đó.
1- Về quan điểm quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tư tưởng “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội”.
Như chúng ta biết, phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp không phải là công lao của C. Mác. TrongThư gửi Vây-đơ-mai-ơ, ngày 5-3-1852, Mác viết: “...tôi không có công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng không phải có công lao là đã phát hiện ra cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà sử học tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó, còn các nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh tế của các giai cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: (1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, (2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, (3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”(1).
Như vậy C. Mác không coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội nói chung như một số người quan niệm, mà chỉ là một động lực phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp mà thôi. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có giai cấp nên chưa có đấu tranh giai cấp, và sau này trong tương lai khi xã hội không còn giai cấp nữa thì cũng sẽ không còn đấu tranh giai cấp. Nghĩa là, như C. Mác đã khẳng định, đấu tranh giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội.
Quan điểm khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác không phải là áp đặt, vô căn cứ mà phản ánh một thực tế khách quan trong xã hội có phân chia giai cấp, đó là sự đối kháng giữa các giai cấp: bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, áp bức và bị áp bức. Do đó, đấu tranh giai cấp trong các xã hội này là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy xã hội vận động, phát triển lên những hình thái cao hơn.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác không bao giờ coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất trong xã hội có giai cấp. Ngoài động lực này, như C. Mác đã từng chỉ ra, còn một loạt những động lực khác, như sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu, lợi ích, lý tưởng, khoa học - kỹ thuật,... Vì vậy không nên cường điệu động lực đấu tranh giai cấp.
Đồng thời, việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Trước đây khi phân tích so sánh về đấu tranh giai cấp ở các nước phương Tây và phương Đông, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, ở phương Tây đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, còn ở phương Đông, những nước như “Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”(2). Đối với Việt Nam cũng vậy, vì Việt Nam vốn là một xã hội phương Đông cổ truyền, nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% dân số là nông dân, phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, yêu cầu đoàn kết dân tộc nổi lên hàng đầu để tập hợp các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội vào thực hiện nhiệm vụ cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm giáo điều của một số người về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(3).
Ở đây không được phép lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh giai cấp hoặc quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp bạo lực, hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để đấu tố, trấn áp những người “không ăn cánh”, không theo đường lối của mình, có tính chất bè phái như đã từng xảy ra ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Từ đó về sau, trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong các văn kiện từ Đại hội VII đến Đại hội XI ít sử dụng thuật ngữ chuyên chính vô sản. Đây là một bước tiến của nhận thức, phù hợp hơn với điều kiện tình hình mới.
Về đấu tranh giai cấp, Đại hội IX của Đảng nhận định, cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội thì cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Đại hội IX cũng xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực từ các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Như vậy, Đảng ta không phủ nhận đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, song quan niệm về đấu tranh giai cấp cũng như động lực phát triển đất nước phù hợp hơn với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
2- Về cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể hiện dưới hình thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin”. Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin về “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của học thuyết Hồ Chí Minh”.
Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách vô căn cứ. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh… Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên sự chia rẽ và cực đoan, phiến diện. Không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trên thực tế, như chúng ta biết, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!”. Về sau này V.I. Lê-nin bổ sung thêm: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức hãy đoàn kết lại!”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng. V.I. Lê-nin coi giữ gìn sự đoàn kết trong đảng cộng sản như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Đảng đấu tranh chống lại tư tưởng và hành động cực đoan, phiến diện, duy ý chí, chia rẽ, bè phái. Coi chia rẽ, bè phái là một trong những tội nặng nhất, làm phá hoại tổ chức đảng. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã rút ra bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng “ngày nay chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan làm cho Việt Nam hòa bình đã gần 40 năm, song vẫn còn bị chia rẽ”(!).
Ý kiến trên đây là cực đoan, phủ nhận thực tế lịch sử. Trước kia đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau là do sự xâm lược của đế quốc Mỹ muốn xâm chiếm Việt Nam, chia cắt đất nước ta. Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt 20 năm. Đến ngày 30-4-1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất. Đối với những người đã từng tham gia chế độ cũ trước đây, đường lối của Đảng và Nhà nước ta là khép lại quá khứ, hướng tới tương lại, lấy lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc làm mẫu số chung để đoàn kết toàn dân, lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm mục tiêu chung, làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những người có ý kiến khác, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; thực hiện hòa hợp dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tăng cường đồng thuận xã hội, tập hợp đoàn kết mọi người vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có những người nào sau 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rồi nhưng vẫn “ôm mối hận thù dân tộc”, vẫn bị định kiến chi phối, không vượt qua được sự mặc cảm của quá khứ mới tách mình ra khỏi dân tộc, thậm chí tìm cách chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một bộ phận nhỏ người Việt Nam ở nước ngoài do thiếu thông tin khách quan, trung thực về tình hình trong nước, vẫn ôm hận thù với Nhà nước Việt Nam, tìm cách chống phá Đảng và Nhà nước ta, từ vu khống Việt Nam đàn áp tôn giáo, dân tộc thiểu số, vi phạm dân chủ, nhân quyền, đến vận động các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Việt Nam. Chính những người này mới là lực lượng theo chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan.
3- Về quan điểm coi “Đảng lãnh đạo mắc sai lầm trong việc kiên định quá lâu mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - một mô hình lạc hậu của một hệ thống tư tưởng lỗi thời và từ lâu đã bị xếp vào kho tàng lịch sử, làm cho Việt Nam tuy đã có gần 40 năm hòa bình, thống nhất, song đến nay vẫn trì trệ, suy thoái và hiện đang bên bờ khủng hoảng”(!).
Quan điểm này thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta sau gần 30 năm đổi mới.
Trước hết, phải khẳng định quan điểm cho rằng “Việt Nam kiên định quá lâu mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết” là không đúng thực tế. Với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã từ bỏ mô hình này, một mô hình có nhiều khuyết tật, như dựa trên cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhận kinh tế thị trường, triệt tiêu nhiều động lực phát triển… Đảng ta đã tự phê bình sai lầm giáo điều trong việc áp dụng mô hình Liên Xô trước đây. Đảng đã tiến hành đường lối đổi mới, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững là sự khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lý luận đó cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và phát triển để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngày nay vẫn là học thuyết tiên tiến của loài người, điều đó không chỉ những người mác-xít thừa nhận mà cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận. Ví dụ, Giắc Đê-ri-đa, nhà triết học nổi tiếng người Pháp coi C. Mác không chỉ là nhà tư tưởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI, ông khẳng định nhân loại không thể thiếu C. Mác được. Chương trình Thời đại chúng ta trên sóng phát thanh radio 4 của đài BBC tại Anh đã tổ chức thăm dò với 3 vạn phiếu phát ra. Kết quả trong số 20 triết gia vĩ đại được đưa ra để lựa chọn, C. Mác được chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước đến nay bởi những cống hiến khoa học xuất sắc của ông. Giáo sư Đại học Tổng hợp Lancaste (Vương quốc Anh) Tê-ry I-gle-tơn trong tác phẩm“Tại sao Mác đúng?” vẫn khẳng định tính đúng đắn của những quan điểm của Mác trong điều kiện thế giới ngày nay, ông phản bác ý kiến cho rằng “chủ nghĩa Mác đã chết và không còn nhắc đến nữa”. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào và ở nhiều đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Nhật Bản... vẫn khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Khi đánh giá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần phân biệt những giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của nó với một số luận điểm cụ thể của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đúng trong thời đại của các ông nhưng đã bị lịch sử vượt qua trong điều kiện mới của thời đại, nhất là không được lẫn lộn chủ nghĩa Mác - Lê-nin với những nhận thức sai và làm trái với chủ nghĩa Mác - Lê-nin của những người lãnh đạo của đảng này hay đảng khác, ở nước xã hội chủ nghĩa này hay nước xã hội chủ nghĩa khác trước kia hoặc hiện nay. Cần phân biệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin với quan điểm chủ nghĩa xét lại, cơ hội giả danh mác-xít, cố tình xuyên tạc, vu khống chủ nghĩa Mác - Lê-nin để chống chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Cần nhận thức rõ rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mang bản chất cách mạng và khoa học, nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động, nó không phải “nhất thành bất biến”. Vì vậy, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với thời đại, với điều kiện lịch sử mỗi nước, mỗi giai đoạn. V.I. Lê-nin đã từng nhấn mạnh: việc áp dụng chủ nghĩa Mác ở Nga phải khác với ở Đức, Anh, Pháp...; vì chân lý luôn luôn là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo. Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là bản chất, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác.
Đối với cách mạng Việt Nam, vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được khẳng định trong hơn 85 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1924, khi đọc Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thấy “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”(4). Trong cuốn Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhấn, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin. Về sau trong nhiều tác phẩm, bài diễn văn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò chủ nghĩa Mác - Lê-nin và yêu cầu học tập, tu dưỡng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người viết: “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”(5); “Học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin... là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”(6); “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(7).
Việc đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin là rất sai lầm về quan điểm và phương pháp, về lịch sử và lô-gíc. Bởi vì, về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới. Như vậy về mặt lô-gíc, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không có sự đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê-nin như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người xuyên tạc. Hồ Chí Minh là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ vậy Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Vì vậy Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(8)
Còn ý kiến cho rằng sau 40 năm giải phóng đến nay đất nước vẫn trì trệ, suy thoái, hiện đang bên bờ khủng hoảng (!).
Nói như vậy là nhắm mắt trước thực tế, bất chấp lịch sử, không khách quan.
Sau 30 năm đổi mới, như Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của Đảng đã khẳng định, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa, xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh mọi mặt của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển trong những năm tới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, được quảng đại nhân dân thừa nhận và bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đất nước ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, còn nhiều hạn chế, yếu kém phải khắc phục, phấn đấu nỗ lực vượt qua, tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ hội phát triển đất nước nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa./.
--------------------------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 28, tr. 661 - 662
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 509
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 312
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, 2002, t.10, tr.127
(5), (6), (7) Hồ Chí Minh: Sđd, 2011, t. 11, tr. 97, 611, 92
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66
Lê Hồng

BÀN VỀ 'TAN SƯƠNG ĐẦU NGÕ"
Bài của NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 14/5/2015
Trời còn để có hôm nay. Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời. Đó là  câu lẩy Kiều mà Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đọc trong buổi chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hôm 7 tháng 7.  Câu này đã được nhiều người bình luận. Tôi chỉ xin góp một vài suy nghĩ cá nhân, hầu  mong trao đổi để hiểu thêm quan hệ Việt Mỹ.
Từ năm 1941 Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến quan hệ với Mỹ. Việt Minh đã giúp cứu thoát nhiều phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi. Mỹ đã thả dù chuyên gia và nhiều khí tài quân sự giúp đội quân của Võ Nguyên Giáp. Đã thành lậpđội Liên quân Việt Mỹ do Đàm Quang Trung chỉ huy vànhóm  Con Nai của OSS,  gồm các chuyên gia quân sự và tình báo Mỹ. ( VTV1 đã chiếu phim tài liệu về việc này tối ngày 3 và sáng ngày 5 tháng 7 nhân ngày Độc lập của Mỹ 4 tháng 7 và kỷ niệm 20  năm quan hệ Việt Mỹ ).
Sau Cách mạng (CM) tháng 8- 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu Tuyên ngôn độc lập bằng cách trích dẫn tuyên ngôn nhân quyền của Mỹ và liên tiếp gửi thư cho tổng thống Mỹ đề nghị thiết lập quan hệ. Thế nhưng Liên quân Việt Mỹ bị giải tán ở Thái Nguyên, mọi chuyên gia của Mỹ bị rút về nước, các thư của Hồ Chủ tịch không được trả lời, quan hệ không thiết lập được. Tại sao quan hệ đang tốt đẹp bỗng dưng bị ngưng lại. Và rồi quan hệ bỗng trở nên tồi tệ đến mức khi nghĩ lại nhiều người có lương tri đều ân hận. Cuối cùng thì đến lúc phải quên đi quá khứ để hướng tới tương lai, để tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.  Về việc này mỗi bên giải thích theo mỗi cách khác nhau.Bên nào  cũng chủ yếu  tranh phần chính nghĩa về mình và đổ lỗi cho bên kia. Chúng ta ước ao có những nhà nghiên cứu lịch sử thật sự trung thực, thật sự khách quan, thật sự sáng suốt, thu thập đầy đủ chứng cứ để giải thích đúng sự thật đã xảy ra. Tôi cũng tìm hiểu nhưng không thu thập được đầy đủ chứng cứ, chỉ xin trao đổi một số thông tin và chủ yếu là những liên hệ, nhữngsuy luận lôgic. Tôi đặt ra những câu hỏi và tự trả lời ( TL ).
Hỏi : Quan hệ giữa Việt Minh và Mỹ từ 1942 rất tốt đẹp , nhưng tại sao sau CM tháng 8 -1945 thì quan hệ đó xấu đi, tại sao Tổng thống Mỹ không trả lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh .
TL : Từ năm 1942 đến 1945 khi Mỹ giúp Việt Minh là giúp một lực lượng đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật. Nhưng sau CM tháng 8 Mỹ phát hiện ra Việt Minh là một tổ chức theo  cộng sản (CS), mà CS nêu khẩu hiệu và chủ trương“đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản (CNTB)”. Trong CNTB thì Mỹ đứng đầu, vậy thì Mỹ không dám tiếp tục chơi và ủng hộ Việt Minh được. Mỹ không ưa gì CS nên  năm 1943 Stalin đã buộc phải giải tán tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế đệ tam) để Mỹ mở mặt trận thứ 2, đánh phát xít Đức từ phía Tây.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng biết Mỹ không ưa gì CS nên ngày 11 tháng 11 năm 1945 đã theo gương Stalin mà tuyên bố giải tán đảng cộng sản. Nhưng Stalin tuyên bố giải tán Quốc tế 3 là giải tán thật còn Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng CSchỉ là để đánh lừa dư luận. Tình báo Mỹ nhanh chóng phát hiện ra đảng CS đã rút vào hoạt động bí mật chứ không thật sự giải tán. Tổng thống Truman không trả lời thư của Hồ Chí Minh vì không muốn ủng hộ thế lực CS, hơn nữa  Mỹ đã phát hiện ra sự dối trá trong việc giải tán đảng CS. Một điều bất tín, vạn sự bất tin.
Hỏi: Tổng thống(TT) MỹRoosevelt, vào năm 1943, tại hội nghị Tam Cường có tuyên bố là sau chiến tranh sẽ trả độc lập cho các nước thuộc địa của Pháp, tại sao TT kế nhiệm là Truman không thực hiện, phải chăng Truman không biết tuyên bố đó.
TL:  TT Truman có biết tuyên bố đó của TT Roosevelt. Truman cũng biết là vào tháng 4 năm 1945 Chính phủ Trần Trọng Kim đã tuyên bố Việt Nam độc lập, thoát khỏi ách nô lệ của Pháp. Chính phủ Mỹ chưa kịp công nhận thì Việt Minh đã cướp chính quyền. Nếu như Việt Minh cũng công nhận Việt Nam đã tuyên bố độc lập, không lợi dụng sự đầu hàng của Nhật để cướp chính quyền mà hợp tác với chính phủ Trần Trọng Kim và Việt minh thực sự ly khai với CS  thì rất có thể Việt Nam đã nhận được sự công nhận của Mỹ và nhiều nước khác. Từ 1945 đến 1953 Mỹ vẫn đứng ngoài cuộc chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp.
Hỏi : Từ đâu mà Mỹ trở thành kẻ thù số một của VN, gây ra cuộc chiến tàn khốc cho cả 2 bên.
TL : Mỹ trở thành kẻ thù của VN đầu tiên là từ nhận thức vào năm 1950, sau khi Hồ Chí Minh gặp gỡ  Mao Trạch Đông và Stalin để xin viện trợ và sự chỉ đạo. Đó là kết quả suy luận từ ý thức hệ về đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh sinh tử này phải tìm ra kẻ thù số 1. Theo Mao và Xit thì kẻ thù ấy chính là đế quốc Mỹ,  là kẻ thù của giai cấp vô sản toàn thế giới mà VN có vinh dự là tiền đồn của phe XHCN, VN phải giương cao ngọn cờ chống Mỹ.Thế rồi từ năm 1954, khi  hỗ trợ Ngô Đình Diệm trực tiếp chống CStại miền Nam VN thì Mỹ, từ kẻ thù trong nhận thức đã trở thành kẻ thù thực sự.
Trong thời kỳ trước 1990, phe XHCN cho rằng phải ngăn chặn và tiến tới tiêu diệt đế quốc mà đầu sỏ là đế quốc Mỹ, đó là vì hạnh phúc, vì tương lai của nhân loại. Ngược lại phe Mỹ cho rằng vì hạnh phúc, vì tương lai của nhân loại thì phải ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản. Hai phe xem nhau là kẻ thù không đội trời chung. Trong cuộc chiến tranh tại VN những năm 1960-1973, Hà Nội cho rằng đó là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược VN, Mỹ lại cho rằng đó chỉ là Mỹ giúp đồng minh Sài Gòn chống lại cuộc xâm lược của CS. Những nhận định trên đây ai đúng ai sai, đúng sai đến mức độ nào rồi lịch sử nhân loại sẽ phán xét. Mỹ vàCS  là kẻ thù của nhau trong một thời gian, đó là sự thật mà cả hai bên đều công nhận. Nhưng giữa Mỹ và CS thì ai mới thực sự đã mang lại tai họa cho một phần của nhân loại thì gần như đã có câu trả lời.
Hỏi : Mỹ đã quyết tâm ngăn chặn  CS, nhưng tại sao lại thân thiện với VN khi biết VN vẫn duy trì chế độ CS.
TL :  Mỹ nói ngăn chặn CS là vì nhân loại nhưng trước hết là vì quyền lợi dân tộc. Trước đây Mỹ thấy sức mạnh của CS rất đáng sợ, nó có thể lây lan rất nhanh, nếu không kiên quyết ngăn chặn sớm và từ xa thì rồi có khi nó lan gần đến mình, hại đến mình. Thế nhưng rồi Mỹ cũng phát hiện ra bị nhầm,CS không đáng sợ như họ tưởng, CS chỉ lôi kéo được vài nước kém phát triển, hiện tại  chỉ còn sức kìm hãm sự tự do dân chủ trong từng nước chứ không còn sức truyền bá rộng ra, và rồi phe CS sẽ tự sụp đổ vì những mâu thuẫn nội tại. Thế thì chung sống hòa bình với CS sẽ có lợi hơn là tốn công, tốn của để ngăn chặn nó. Trong cuộc chiến VN, Mỹ rút quân về, để mất miền Nam cho CS thì có lợi lâu dài cho Mỹ hơn là tiếp tục cuộc chiến. Mỹ quan hệ bình thường với Hà Nội cũng chủ yếu là vì quyền lợi của Mỹ chứ không phải vì Hà Nội đã là người bạn tốt đáng tin cậy của họ.
Hỏi : Tại sao lại nói Hà Nội chưa phải là bạn tốt đáng tin cậy của Mỹ, vậy đánh giá như thế nào về quan hệ Việt Mỹ hiện tại, nhất là sau chuyến thăm của TBT Đảng Nguyễn Phú Trọng.
TL : Quan hệ bạn bè giữa các nước cũng như quan hệ bạn bè giữa những con người, có bạn sơ, bạn thân, bạn tâm giao, bạn học, bạn chiến đấu  (cùng chiến hào, cùng sinh tử), bạn đồng tộc, đồng hương, bạn cùng buôn bán, cùng làm ăn, bạn rượu bia, bạn xem bóng đá v.v…Một bạn tốt, đáng tin cậy  phải là người có cùng chí hướng, cùng quan điểm, đã được thử thách qua thời gian và những sự cố bất thường. Thử hỏi tình bạn của Mỹ với Sài Gòn trước đây và với Hà Nội bây giờ thì Mỹ thân với ai hơn. Nhưng rồi tại sao Mỹ lại bỏ rơi Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Là bởi vì bản thân Diệm và Thiệu không làm vừa lòng Mỹ, kẻ thì gia đình trị, người thì tham nhũng, bất lực. Một tình bạn tốt phải được xây đắp từ hai phía. Anh là bạn làm ăn với tôi trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi nhưng anh theo chủ thuyết CS, cho rằng sớm muộn gì cũng phải xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ tư hữu , còn tôi là nhà tư sản, tôi muốn giữ tư liệu sản xuất và tài sản để truyền cho con cháu, hơn nữa anh có chủ thuyết “đào mồ chôn tư bản”,  thế thì chúng ta hợp tác với nhau chỉ tạm thời, hợp tác làm ăn mà luôn  đề phòng nhau, rình mò nhauthì làm sao có thể thật lòng khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Hơn nữa anh kiên quyết theo chủ thuyết CS, mà tôi thừa biết CS tồn tại được là nhờ sự tuyên truyền dối trá, thế thì làm sao tôi có thể tin cậy anh hoàn toàn. Một câu châm ngôn trong tình bạn là : “Muốn có bạn tốt thì trước hết mình phải là bạn tốt”.
Sau 1975, đáng lẽ có thể lập lại quan hệ bình thường với Mỹ sớm hơn, nhưng vì ý thức hệ ngăn cản mà đến 1995 mới tiến hành. Sau 20 năm, quan hệ Việt Mỹ ngày càng tốt hơn, đặc biệt sau chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng. Về hình thức bên ngoài hai nước đã có tầm nhìn chung về nhiều vấn đề. Đã “Tan sương đầu ngõ”, nhưng xin chớ nhầm lẫn giữa tan sương đầu ngõ và hòa thuận, ngăn nắp trong nhà hay là giữa đối ngoại và đối nội.
Theo tôi  giữa đối ngoại và đối nội thì đối nội quan trọng hơn, quyết định hơn. Đối ngoại là nhằm phục vụ cho đối nội. Cả đối ngoại và đối nội đều là phương tiện mà mục đích là tự do và hạnh phúc của nhân dân. Tan sương đầu ngõ chỉ là điều kiện thuận lợi cho đối ngoại. Quan trọng hơn là sự hòa thuận và ngăn nắp trong nhà, là xây dựng nhà nước pháp quyền, là tự do hạnh phúc, là nhân quyền cho toàn dân. Mỹ biết Hà Nội đang theo CS mà vẫn chơi, đó là vì sự văn minh, lịch sự, người ta tôn trọng sự khác biệt về chính kiến, anh đi đúng đường thì nhân dân anh được nhờ, anh đi sai đường thì nhân dân anh phải chịu, tôi không can thiệp, không chống đối. Điều đó không có nghĩa là Mỹ cho rằng cộng sản là tốt, là nên theo. Trước sau Mỹ vẫn cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tai họa của nhân loại.
Trước khi đi thăm Mỹ ông Nguyễn Phú Trọng được tiếng là người kiên trì Chủ nghĩa Mác Lê nin, kiên trì đường lối XHCN, chống lại thể chế tam quyền phân lập. Trong quá trình thăm Mỹ làm tan sương đầu ngõ không nghe ông đề cập đến các vấn đề trên. Sau khi thăm Mỹ về không biết ông có chuyển biến gì không. Bauxite ngày 12 tháng 7 đăng bài của Hạ Đình Nguyên, trong đó có liên hệ cuộc đi thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng gọi nhớ về sự thay đổi tư duy chính trị “viết lại báo cáo”của cố TBT Trường Chinh, tạo nên bước ngoặt quan trọng của giai đoạn lịch sử từ ĐH VI của Đảng. Rất nhiều người đang mong chờ và theo dõi. Trong phép tu luyện thường hay dùng khái niệm “NGỘ” để chỉ trạng thái bỗng nhiên nhận ra một điều quan trọng nhân gặp một tình huống nào đó mà từ lâu không biết. Nếu nhân sự kiện tan sương đầu ngõ mà ông Trọng ngộ ra được chân lý của thời đại để tự đổi mới như ông Trường Chinh trước đây thì trước hết là hạnh phúc cho ông, sau nữa sẽ mang lại đổi mới cho ĐH XII sắp tới của Đảng, mang lại điều tốt lành cho Đảng, cho dân tộc. Nếu sương đầu ngõ tạm tan mà trong nhà vẫn lục đục, vẫn lộn xộn thì chẳng mấy chốc khói bụi sẽ bao trùm và nhà có nguy cơ sụp đổ. Thế thì tan sương đầu ngõchỉ có tác dụng tạm thời mà thôi.
N.Đ.C
Tác giả gửi BVN
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét