Thứ Tư, 20 tháng 12, 2017

20171220. BÀN VỀ NHỮNG NGHỊCH LÝ TRONG THỐNG KÊ GDP

ĐIỂM BÁO MẠNG
SAI SỐ THỐNG KÊ VÀ NHỮNG NGHỊCH LÝ

PHẠM TRUNG HIẾU/ TBKTSG  19-12-2017

(TBKTSG) - Ý niệm cơ bản về GDP trong lý thuyết tổng quát của Keynes được đưa ra trong thời kỳ đại khủng hoảng vào thập kỷ 30 của thế kỷ 20. Chi tiêu này bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ, đầu tư gộp (gross capital formation) và chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (C+G+I+E-M). Năm 1968, khi Richard Stone(1) đưa bảng cân đối liên ngành (input - output table) của W. Leontief(2) vào Hệ thống các tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA), lúc đó GDP được tính bằng ba phương pháp (phương pháp sản xuất, phương pháp thu nhập và phương pháp chi tiêu cuối cùng), hầu hết các nước áp dụng SNA tính GDP theo cả ba phương pháp.
Chẳng hạn, trang web của cơ quan thống kê Trung Quốc công bố GDP tính theo phương pháp sản xuất (GDPp) và GDP tính theo phương pháp chi tiêu cuối cùng (GDPe).
Ở Việt Nam, sau 35 năm áp dụng SNA, Tổng cục Thống kê (TCTK) thực chất chỉ tính GDP theo phương pháp sản xuất và phân bổ lại cho cầu cuối cùng, phần còn lại đưa vào “sai số thống kê”. Nhưng có một điều cần lưu ý là việc lạm dụng sự cho phép của “sai số” sẽ dẫn đến sự khác nhau nhiều khi rất lớn về tăng trưởng GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp chi tiêu cuối cùng. Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều chỉ dựa vào tăng trưởng GDP từ phía cung (phương pháp sản xuất) để “bình” rất hăng hái về sự suy giảm tổng cầu, những giải pháp được khuyến nghị sau đó thường là “tăng cường đầu tư công” rồi “kích cầu”... mà không mấy người hiểu rằng con số tăng trưởng GDP mà các phương tiện truyền thông đưa ra là con số tăng trưởng GDP ở phía cung, trên thực tế không mấy liên quan gì đến tổng cầu cuối cùng.
Về nguyên tắc cân bằng tổng thể thì dù là GDP từ phía nào cũng phải bằng nhau, do đó cũng khó trách các chuyên gia được, vì họ cũng không thể ngờ rằng trên thực tế, theo các công bố của cơ quan thống kê Việt Nam thì tăng trưởng GDP từ phía cung và phía cầu lại hoàn toàn khác nhau.
Dưới đây là số liệu tăng trưởng từ phía cung và phía cầu của Việt Nam trong những năm qua (xem biểu đồ và xem bảng).

Có thể thấy có những năm như năm 2007, 2008, 2011, 2014, 2015 GDP từ phía cung tăng trưởng cao hơn tăng trưởng GDP từ phía cầu; còn những năm 2006, 2009, 2010, 2012 và ước tính 2016 diễn biến này ngược lại; đặc biệt có một số năm sự khác biệt này rất rất lớn, như năm 2006, 2007, 2010, 2011, 2012. Năm 2015, TCTK công bố tăng trưởng GDP là 6,68% nhưng tỷ lệ này ở phía cầu chỉ là 3,96%. Năm 2015 hầu hết các chuyên gia khi nhìn vào tốc độ tăng trưởng GDP 6,68% đều cho rằng nền kinh tế đang phục hồi và chuyển biến tích cực và điều hành nền kinh tế theo hướng đó, nhưng nếu xét tăng trưởng GDP theo đúng ý nghĩa của nó (GDP là tổng cầu cuối cùng) chỉ là 3,96% thì có thể nền kinh tế sẽ được điều hành theo hướng khác? Hai con số tăng trưởng này đều được công bố trên niên giám (trang web http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=715) của TCTK.
Một điều nghịch lý là trong khi Chính phủ Việt Nam điều hành kinh tế cơ bản là quản lý cầu nhưng những thông tin đến được với những nhà làm chính sách phục vụ cho việc điều hành lại đến từ phía cung. Như vậy, dù là nhà kinh tế hay hoạch định chính sách giỏi đến mấy cũng gặp rất nhiều khó khăn ở khâu ra quyết định khi mà số liệu luôn mâu thuẫn, thậm chí ngay cả trong một nơi, như trên trang web của TCTK.n
(1) Giải Nobel 1984
(2) Giải Nobel 1973

NGÀNH NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM ĐANG ĐI NGƯỢC XU THẾ
QUỐC HÙNG/ TBKTSG 19-12-2017

(TBKTSG) - Hơn 42% tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới cam kết được cấp phép trong 11 tháng đầu năm 2017 là đăng ký vào lĩnh vực kinh doanh và phân phối điện. Đáng chú ý, cả ba dự án được cấp phép trong lĩnh vực này đều là xây dựng nhà máy nhiệt điện than.
Cấp phép ba dự án BOT nhiệt điện than
Ngoài tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là đơn vị chủ lực thực hiện đầu tư phát triển nguồn điện, Chính phủ đã từng bước hình thành, phát triển thị trường điện cạnh tranh, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư các công trình nguồn điện theo hình thức BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao).
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự án nhiệt điện Vân Phong 1 (Khánh Hòa) có vốn đăng ký 2,58 tỉ đô la Mỹ đã được cấp phép đầu tư vào tháng rồi. Dự án nhà máy nhiệt điện than BOT này có công suất 1.320 MW, sẽ được phát triển tại khu vực Nam Vân Phong, xã Ninh Phước, thị xã Ninh Hòa. Đây là dự án được tập đoàn Sumitomo (Nhật) đề xuất đầu tư từ năm 2006 và được Chính phủ chấp thuận triển khai theo hình thức đầu tư BOT vào năm 2009. Tuy nhiên, do nhiều vướng mắc, trong đó có đàm phán hợp đồng BOT, cũng như phải thẩm định dự án... nên nó chậm được cấp phép. Theo kế hoạch, dự án sẽ được khởi công vào năm 2018.
Như vậy chỉ trong năm nay, có tới ba dự án nhiệt điện BOT được cấp chứng nhận đầu tư. Lớn nhất là dự án đầu tư Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2 tại Thanh Hóa với tổng vốn đăng ký hơn 2,79 tỉ đô la Mỹ. Dự án này sẽ được thực hiện tại khu kinh tế Nghi Sơn do Tổ hợp nhà đầu tư Marubeni - Kepco làm chủ đầu tư, có tổng công suất 1.200 MW, gồm hai tổ máy 600 MW. Theo kế hoạch, dự án sẽ vận hành thương mại vào năm 2022 với sản lượng điện năng phát mỗi năm khoảng 8,1 tỉ kWh, sử dụng than nhập khẩu.
Dự án khác là nhà máy nhiệt điện BOT Nam Định 1 có vốn đầu tư 2,07 tỉ đô la Mỹ, do nhà đầu tư Singapore thực hiện, công suất khoảng 1.109 MW. Dự kiến dự án sẽ được triển khai tại xã Hải Châu và Hải Ninh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Dự án nhiệt điện than này sẽ bao gồm hai tổ máy với công suất khoảng 554,7 MW cho mỗi tổ máy.
Sau hơn một thập kỷ phát triển bùng nổ, công suất điện than trên thế giới đã và đang giảm kể từ năm ngoái.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, cả ba dự án này nằm trong tốp năm dự án có vốn đăng ký cao nhất năm 2017, với tổng vốn là 8,37 tỉ đô la Mỹ, đưa lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng vị trí thứ hai trong số các ngành, lĩnh vực thu hút nguồn vốn FDI nhiều nhất, sau lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. 
Không chỉ ba dự án lớn trên, từ năm ngoái đến nay, nhiều dự án nhiệt điện than với quy mô đầu tư hàng tỉ đô la cho mỗi dự án liên tục được đề xuất hay chấp thuận chủ trương đầu tư, như dự án Trung tâm Nhiệt điện Long An được đề xuất ở xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc (Long An) có vốn khoảng 5 tỉ đô la Mỹ, hay dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 và Quảng Trạch 2 thuộc Trung tâm Điện lực Quảng Trạch do EVN làm chủ đầu tư...
Theo thống kê, cả nước hiện có 21 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành và cung cấp gần 40% sản lượng điện cho cả nước.
Việc xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện than được lý giải là do tiềm lực xây dựng nhà máy thủy điện gần như đã khai thác triệt để; trong khi các nguồn năng lượng sạch, tái tạo thì chi phí đầu tư cao. Mặt khác, nhiệt điện khí cho giá điện đắt gấp 2 lần giá nhiệt điện than...
Đi ngược xu thế
Với kế hoạch phát triển thêm nhiều nhà máy nhiệt điện than nói trên, không ít ý kiến cho rằng ngành năng lượng trong nước đang đi ngược chiều với xu thế thế giới. Bởi lẽ, sau hơn một thập kỷ phát triển bùng nổ, công suất điện than trên thế giới đã và đang giảm kể từ năm ngoái.
Cụ thể, theo báo cáo khảo sát của Hệ thống giám sát các nhà máy điện than toàn cầu vào tháng 3-2017 (từ mạng lưới các nhà nghiên cứu toàn cầu CoalSwarm và tổ chức môi trường Sierra Club, Mỹ), giai đoạn từ tháng 1-2016 đến tháng 1-2017, công suất điện than của nhóm dự án tiền xây dựng giảm 48%, nhóm dự án đã khởi công giảm 62% và công suất từ nhóm nhà máy bị tạm dừng hoạt động đã tăng 164%.
Nguyên nhân là do chính phủ Trung Quốc và Ấn Độ - hai quốc gia có lượng phát thải hàng đầu - đã ban hành những biện pháp mạnh để hạn chế phát triển nhiệt điện than.
Cụ thể, tổng công suất điện than được cấp phép xây dựng tại Trung Quốc trong năm 2016 đã giảm 85% so với năm 2015. Đáng chú ý, vào tháng 3-2017, tổ máy cuối cùng của nhà máy điện Hoa Năng ở Bắc Kinh đã chính thức đóng cửa, đưa thủ đô Trung Quốc trở thành đô thị đầu tiên của nước này chấm dứt sử dụng năng lượng điện từ than đá.
Ấn Độ cũng đang trong giai đoạn giảm phát triển điện than. Theo kế hoạch, ít nhất đến năm 2027, nước này sẽ không tăng thêm công suất điện than ngoại trừ những dự án đang xây dựng. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang tham gia cuộc cách mạng năng lượng mặt trời, với mức đấu giá sản xuất điện thấp, rẻ hơn giá điện than hơn 50%. Nhiều nhà máy nhiệt điện (chủ yếu là điện than) ở Ấn Độ giờ đây đang trong tình trạng “đắp chiếu” hoặc chỉ hoạt động ở mức tối thiểu, mà theo Reuters là vì không bán được điện và không mua được than để vận hành.
Các nước khác như Mỹ và châu Âu cũng đã lên lộ trình ngưng phát triển và sẽ đóng cửa các nhà máy điện than. Cụ thể vào tháng 10 rồi, Bộ trưởng Công nghiệp Ý Carlo Calenda đã đệ trình ra Quốc hội dự thảo chiến lược quốc gia về năng lượng, trong đó đề xuất loại bỏ dần các nhà máy điện than trong nước bắt đầu từ năm 2025. Động thái này sẽ đưa Ý gia nhập một danh sách đang tăng dần của các nước cam kết chấm dứt phụ thuộc năng lượng vào các nhà máy điện than trong 10-15 năm tới.
Pháp cũng đặt ra lộ trình loại bỏ dần nhiệt điện than bắt đầu từ năm 2022; trong khi đó, Canada đưa ra cam kết tương tự nhưng thời điểm thực hiện là năm 2030. Anh tuyên bố nhà máy điện than cuối cùng ở nước này sẽ đóng cửa vào năm 2025. Hà Lan thông báo đóng cửa năm nhà máy điện than còn lại ở nước này vào năm 2030...
Ở Việt Nam, Quy hoạch điện VII được cho là phù hợp với điều kiện kinh tế trong nước, nhưng các chuyên gia tỏ ra quan ngại, vì nhiệt điện than có quá nhiều rủi ro cho dù chúng được đầu tư với công nghệ hiện đại đi nữa. Bên cạnh vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng, theo các chuyên gia, các nhà máy điện than còn sẽ tác động xấu đến ngành công nghiệp du lịch, nông nghiệp...
Các chuyên gia cho rằng quy hoạch điện nói chung và điện than nói riêng có thể điều chỉnh theo xu thế trong tương lai, nhất là khi thế giới đang đẩy mạnh nghiên cứu, phổ biến sử dụng năng lượng xanh, việc sản xuất năng lượng tái tạo ngày càng rẻ. Các tổ chức năng lượng độc lập đề nghị cần tạm dừng đầu tư các nhà máy nhiệt điện mới cho tới khi có giải pháp đồng bộ kiểm soát ô nhiễm.
HẢI, THĂNG, THẾ , DỤ, THẮNG, TÂM: AI ĂN BOT KHIẾN PHÚC ĐỔ VỎ ?

PHẠM CHÍ DŨNG/ VOA/ BVN 19-12-2017

Cuộc chiến mới trong nội bộ
Vào tháng Tư năm 2017, khi nổ ra phản kháng bất tuân dân sự đầu tiên của lái xe đối với trạm thu phí BOT Bến Thủy 1 ở tỉnh Hà Tĩnh, đã chẳng mấy người hình dung ra tương lai gần một cuộc chiến trong nội bộ đảng sẽ khởi nguồn từ “điểm nóng xã hội” bất ngờ này.
Cho đến vụ BOT Cai Lậy ở tỉnh Tiền Giang, nhiều người đã nhận ra tình trạng phân hóa tung tóe giữa những cơ quan chấp pháp, đặc biệt giữa những người đứng đầu các cơ quan đó, về quan điểm và cách thức xử lý “khủng hoảng BOT”.
Nếu phong trào biểu tình của Giáo dân và ngư dân các tỉnh miền Trung phản kháng thảm họa xả thải của Formosa vào năm 2016 đã bị chính quyền và công an khá tương đồng quan điểm để tiến hành nhiều hành động trấn áp, đàn áp, thì rất đáng chú ý, phong trào phản kháng BOT lại làm lộ ra một khoảng khác biệt, nếu không muốn nói là làm lộ ra cái hố phân cách giữa nhóm Bộ Giao thông Vận tải cùng chủ đầu tư BOT – nhóm bị dư luận xã hội từ lâu xem là trục lợi chính sách để “ăn BOT”, với các bộ ngành khác có liên quan đến trách nhiệm “đổ vỏ BOT”.
Dấu vết Hoàng Trung Hải?
Vào đầu tháng 12/2017, ngay vào thời điểm Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt buộc phải chỉ đạo tạm dừng thu phí một tháng đối với BOT Cai lậy để tìm phương án giải quyết, trên mạng xã hội bất ngờ xuất hiện một văn bản “V/v chỉ định nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư tuyến tránh quốc lộ 1 đoạn qua thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang”, được ký ngày 15/1/2014 bởi Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải.
“Người ta thích thì người ta chạy, có xe thì người ta chạy thôi, miễn sao họ đi đúng luật” - Thiếu Tướng Bùi Bé Tư
Công văn trên mang số 97/TT - KTN, dù không mang dấu “MẬT”, nhưng chắc chắn mang tính “nội bộ” và chỉ lần đầu tiên được tung lên mạng xã hội. Xét về thể thức, công văn này mang nhiều yếu tố có vẻ thật chứ không phải là văn bản giả. Việc chưa có tờ báo nhà nước nào, dù đề cập rất nhiều về BOT Cai Lậy nhưng lại chưa đăng công văn này, cho thấy “sự thận trọng cần thiết” của báo đảng khi đối tượng của công văn này chính là ông Hoàng Trung Hải - đương kim Ủy viên Bộ chính trị và Bí thư Hà Nội.
Hoàng Trung Hải cũng là cái tên bị xem là hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến vụ xả thải gây ô nhiễm khủng khiếp của Nhà máy Formosa, vào thời ông Hải còn là Phó thủ tướng.
Cũng vào thời Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, nhiều dư luận cho biết hầu như 100% công trình BOT được Bộ Giao thông Vận tải áp dụng hình thức “chỉ định thầu” – một thủ pháp hay thủ đoạn độc quyền trong đấu thầu mà luôn mang lại lợi lộc lẫn tiêu cực ghê gớm cho giới quan chức.
Bộ Giao thông Vận tải lại vừa được “thay tướng”, với bộ trưởng mới là Nguyễn Văn Thể.
Dấu vết Đinh La Thăng và Nguyễn Văn Thể?
Mới sau hơn một tháng chấp nhiệm, ông Thể đã bị những tờ báo nhà nước như Tuổi trẻThanh niên lôi tuột tên phải chịu trách nhiệm, bởi chính Nguyễn Văn Thể là quan chức dính líu sâu, ít nhất về trách nhiệm, đến vụ BOT Cai Lậy khi ông Thể còn là Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải vào năm 2013.
Cho tới nay, có tới 88 trạm thu phí BOT ở Việt Nam. Trong đó, Bộ Giao thông Vận tải “ăn” đến 74 trạm BOT.
Có một sự thật là vào thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng, BOT đã trở nên một cơn dịch tràn khắp đất nước, kéo theo đến hai chục ngân hàng tham dự việc cho vay vốn để một số chủ đầu tư “tay không bắt giặc”, sau đó chia bôi với nhau.
Nhưng nếu nói Đinh La Thăng là tác giả độc quyền của nạn dịch BOT thì quả oan uổng cho ông Thăng. Vì ngoài Đinh La Thăng, dịch BOT còn được đạo diễn bởi không ít tác giả khác mà cái tên Nguyễn Văn Thể chỉ là một minh họa.
Hiển nhiên, BOT là một nguồn lợi màu mỡ cho nhóm lợi ích giao thông. Đó chính là nguồn cơn vì sao trong suốt một thời gian dài và mặc dù bị phản ứng ngày càng quyết liệt, Bộ Giao thông Vận tải vẫn khăng khăng cố thủ không chịu di dời trạm BOT Cai Lậy, cho dù trạm này rõ ràng đặt sai vị trí. Mới đây, bộ này còn đưa ra 3 phương án xử lý BOT Cai Lậy, nhưng ấn tượng nhất là phương án nào cũng chỉ có lợi cho chủ đầu tư và dễ khiến cánh lái xe… nổi loạn.
Trong khi đó, một chi tiết mà báo chí nhà nước không dám đề cập là “BOT Cai Lậy là của ai?”.
Dấu vết Ngô Văn Dụ và Nông Đức Mạnh?
Một thông tin chưa kiểm chứng xuất hiện trên mạng xã hội cho rằng Công ty Bắc Ái nắm 65% cổ phần tại BOT Cai Lậy và Công ty này có trụ sở tại Số nhà 215 đường Mê Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây chính là địa chỉ nhà riêng của Ngô Hồng Thắng, Phó Giám đốc Trung tâm Quảng cáo và Dịch vụ Truyền hình TVAd. Ngô Hồng Thắng, sinh năm 1971, lại là con trai của Ngô Văn Dụ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII. Vậy, ông chủ của BOT Cai Lậy chính là cha con nhà Ngô Văn Dụ, Ngô Hồng Thắng.
Chưa kể, Ngô Văn Dụ còn là đệ tử ruột của nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Vợ hiện thời của Nông Đức Mạnh lại là Đỗ Huyền Tâm – cựu đại biểu Quốc hội, chủ đầu tư của nhiều công trình, trong đó có công trình BOT, mà nghe nói chỉ nhờ thế của Nông Đức Mạnh mà công ty của bà Huyền Tâm mới thầu được công trình BOT và do đó mới trả được nợ ngân hàng để bà không bị tra tay vào còng.
Thế còn quan điểm và cách thức hành xử của ngành công an đối với “khủng hoảng BOT” thì sao?
Ai ăn nấy chịu!
Trong khi giới lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải và giới chủ đầu tư các công trình BOT, kể cả chính quyền một số địa phương bị nhiều dư luận cho là có “ăn chịu” với trạm BOT như Đồng Nai, Tiền Giang luôn gào thét đòi “công an vào cuộc xử lý hành vi gây rối kích động, chống đối”, đồng thời “hợp đồng” với công an để dàn hàng trăm cảnh sát cơ động và cảnh sát giao thông, chưa kể cảnh sát trật tự ngay tại hai trạm BOT Biên Hòa và BOT Cai Lậy như một cách để răn đe và khủng bố tâm lý lái xe…, lại xuất hiện tình trạng “chểnh mảng chức trách” trong khối công an.

image
Tài xế vui mừng sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh dừng thu phí ở trạm BOT Cai Lậy
Tiêu biểu là một quan chức công an - Thiếu tướng Bùi Bé Tư, Giám đốc Công an tỉnh An Giang, khi trả lời phỏng vấn của trang Zing.vn, đã cho rằng việc tài xế quay đầu nhiều vòng để qua lại BOT Cai Lậy không vi phạm gì cả, trừ khi họ tổ chức kích động gây rối. “Người ta thích thì người ta chạy, có xe thì người ta chạy thôi, miễn sao họ đi đúng luật”, ông Bùi Bé Tư nói huỵch toẹt.
Trong khi đó, lại có quan điểm trong Bộ Công an đòi “xử” những lái xe gây kích động, cụ thể là nêu danh sách 14 xe tải “chạy đi chạy lại trả tiền lẻ”.
Theo đó, một lần nữa lại nổi lên dư luận về hiện tồn “hai Bộ Công an” – một của Bộ trưởng Tô Lâm, và một của Ủy viên thường vụ Đảng ủy công an trung ương Nguyễn Phú Trọng.
Chẳng mấy khó khăn để hình dung ra tâm trạng đương thời: “Ai ăn nấy chịu”. Nhiều cơ quan công an địa phương, mặc dù có thể đã được chủ đầu tư BOT tận tình “chăm sóc”, nhưng do chẳng hề dính phần với những khoản lợi nhuận khổng lồ đã được chia chác, nên không thể không “lăn tăn” trước trách nhiệm phải “đổ vỏ”.
“Đổ vỏ” lại là bài học vừa kinh nghiệm vừa xương máu đã và đang hiện hình rõ mồn một. Một trong những nhân vật bị xem là “kẻ đổ vỏ vĩ đại” là Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Xuân Phúc.
Ông Phúc, không thể khác hơn nếu còn muốn ngồi ở ghế Thủ tướng, là phải ngày đêm điên đầu tìm kế xử ký vô số hậu quả về nợ xấu, nợ công, ngân hàng, tham nhũng…, và chắc chắn không thiếu vô số đơn thư tố cáo để lại từ người tiền nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng.
Còn ngay trước mắt là vụ BOT Cai Lậy, cùng hàng loạt biến động có thể xảy ra ngày một ngày hai ở các trạm BOT khác. Dường như Thủ tướng Phúc đang bị kẹt giữa ba làn đạn: phản ứng từ người dân và ít nhất hai phe phái xung khắc nhau trong nội bộ đảng.
Chỉ “quyết” sai một ly, hiện tồn và tương lai chính trị của ông Phúc sẽ thêm phần nguy hiểm.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN. Bài đã đăng trên blog VOA
PHẠM CHÍ DŨNG/ NV/ BVN 19-12-2017
Việt Nam hiện có hàng triệu người sử dụng mạng xã hội (Hình: Getty Images) 
Lần đầu tiên kể từ khi nhậm chức Thủ tướng từ giữa năm 2016, ông Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì họp với một số bộ ngành về “tăng cường quản lý báo chí và mạng xã hội”.
Cuộc họp trên – diễn ra vào ngày 7 Tháng Mười hai, 2017 tại trụ sở Chính phủ – có vẻ mang tính bất thường chứ không theo kế hoạch làm việc của lãnh đạo Chính phủ đã được lập cho từng quý và 6 tháng.
Vì sao Thủ tướng Phúc là tiêu điểm của mạng xã hội?
Cuộc họp trên diễn ra trong bối cảnh trên mạng xã hội đang xuất hiện một số bài viết và tin tức công kích Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, tập trung vào những vấn đề như “sân sau”, “xung đột nội bộ”, “sức khỏe”… Một số trang Facebook có thể là địa chỉ chính nêu ra và truyền dẫn những thông tin này.
Trong thời gian gần đây, một số hãng truyền thông chính thống ở nước ngoài cũng thường đề cập về “thành tích điều hành kinh tế - xã hội” theo báo cáo của Thủ Tướng Phúc. Nhiều nghi ngờ đã được đặt ra về tính thực chất của các báo cáo tô hồng thành tích như vậy.
Thật ra, tình trạng Thủ tướng Phúc được/bị giới truyền thông quốc tế, trong nước và mạng xã hội tập trung mổ xẻ hơn hẳn các chóp bu khác cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi ông Phúc phải chịu trách nhiệm điều hành vừa kinh tế vừa xã hội và đương nhiên phải đụng chạm nhiều lãnh vực, vấn đề hóc búa, trong tình cảnh xã hội Việt Nam đang ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu và biểu hiện của sự xuống dốc và hỗn loạn.
Chi tiết đáng chú ý trong cuộc họp ngày 7 Tháng Mười hai của Thủ Tướng Phúc là “Cùng dự, có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Vũ Đức Đam, ủy viên Trung ương Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ” (theo báo Nhân dân), nhưng lại không thấy giới thiệu lãnh đạo Bộ Công an và Bộ Thông tin Truyền thông – hai bộ bị xem là “sát thủ” về “quản lý báo chí và mạng xã hội”.
Cũng không thấy báo cáo nào từ phía Bộ Công an và Bộ Thông tin Truyền thông mà chỉ là “kết luận của Thủ tướng” – theo bản tin của báo Nhân dân.
Viettel “phản bội khách hàng”
Trong phần biểu dương như một thói quen “có qua có lại” của giới quan chức lãnh đạo, ngoài việc đề cập đến hai Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, ông Phúc đã biểu dương “Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) có giải pháp từng bước giám sát mạng xã hội, đưa ra các chủ trương, giải pháp kỹ thuật để bảo đảm công tác này”.
Có thể cho rằng đây là một trong hiếm hoi lần mà Viettel được/bị tiết lộ như một nhân tố chính về công tác kỹ thuật để “quản lý mạng xã hội”. Bởi trong nhiều năm qua, một câu hỏi lớn mà người sử dụng mạng xã hội vẫn cố công tìm hiểu là trong số những nhà mạng lớn ở Việt Nam là FPT, VNPT, Viettel, nhà mạng nào có nhiều thành tích nhất mà do đó cũng bị dư luận xem là “phản bội khách hàng” nhất trong việc dựng tường lửa để “ngăn chặn truy cập thông tin xấu, độc” để từ đó cũng ngăn chặn luôn cả nhiều bài viết mang tính phản biện độc lập.
Vào năm 2017, nhiều tờ báo nước ngoài đã dẫn ra một phát hiện thú vị về việc chính quyền Việt Nam dùng những đơn vị tin tặc, có mã số APT32 để làm công tác phản gián, không chỉ phá phách hoạt động của giới đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước mà còn thâm nhập và can thiệp vào cả hệ thống dữ liệu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Vào ngày 25 tháng Năm, 2017, Công ty An toàn mạng FireEye cho biết những tin tặc được gọi là APT32 vào năm 2016 đã tiến hành tấn công một số công ty gồm một công ty sản phẩm tiêu dùng của Philippines, một công ty cơ sở hạ tầng công nghệ cùng những công ty khác; trong số này có một số có làm ăn tại Việt Nam. APT là chữ viết tắt của ba từ tiếng Anh “advanced persistent threat,” tạm dịch “nguy cơ liên tục cấp cao”. Đây là thuật ngữ thường được dùng để chỉ những nhóm tin tặc được nhà nước hỗ trợ.
Viên chức trưởng công nghệ khu vực Á Châu Thái Bình Dương của FireEye, Bryce Boland, còn cho báo giới biết những tin tặc còn nhắm đến những cơ quan Chính phủ Philippines. Theo vị này thì có thể mục tiêu những cuộc tấn công mạng vào những nơi như thế nhằm thu thập thông tin về hoạt động chuẩn bị quân sự, cũng như cách thức hoạt động của các cơ quan trong Chính phủ để có được chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự.
Còn vào lần này, với tiết lộ của Thủ tướng Phúc về “thành tích” của Viettel, điều này đã thỏa mãn phần nào thắc mắc bức bối của dư luận mạng, nhưng có lẽ lại chẳng khiến giới lãnh đạo Viettel cùng cơ quan chủ quản của tập đoàn này là Bộ Quốc phòng cảm thấy hãnh diện khi bị hiện hình chân tướng.
Có cấm được mạng xã hội?
Tại phần kết luận, trong khi chỉ nói sơ bộ về báo chí (nhà nước), Thủ tướng Phúc đã dành phần lớn nội dung kết luận để tập trung vào mạng xã hội.
Trong nội dung kết luận về mạng xã hội, có vẻ ông Phúc tập trung vào hành vi “nói xấu lãnh đạo” mà cụ thể là “Chúng ta chưa chủ động đề ra giải pháp kỹ thuật hiệu quả; quy định xử lý chưa rõ ràng, nhất là đối với những tội vu khống, bôi nhọ lãnh đạo. Trách nhiệm các cơ quan chức năng, cá nhân trong vấn đề này không rõ ràng. Các cơ quan, cá nhân còn mơ hồ, né tránh trách nhiệm, ngại đụng chạm…”.
Thủ Tướng Phúc cũng yêu cầu “Bộ Công An cần điều tra một số đối tượng chuyên nhận tiền để viết bài bôi nhọ, xuyên tạc, nói xấu chế độ trên mạng”. Tuy nhiên, ông Phúc đã không làm rõ những đối tượng này là ai và nhận tiền của ai hay tổ chức nào. Ông Phúc cũng không làm rõ trường hợp những hãng thông tấn và báo chí nước ngoài trả nhuận bút cho tác giả trong nước thì những tác giả này có bị xếp vào dạng “đối tượng chuyên nhận tiền để viết bài bôi nhọ, xuyên tạc, nói xấu chế độ trên mạng” hay không.
Một chi tiết đáng chú ý khác là mặc dù đăng nội dung kết luận của Thủ Tướng Phúc khá dài và nhiều vấn đề, nhưng tường thuật của báo Nhân dân đã không nêu tên cụ thể của những trang mạng xã hội bị xem là “nói xấu chế độ”.
Tại kỳ họp Quốc hội Việt Nam vào tháng Mười - Mười một, 2017, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn phát biểu chính thức rằng “thông tin tiêu cực như xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước… chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài”. Đây là lần thứ hai ông Trương Minh Tuấn nêu quan điểm và cách nhìn như vậy. Lần đầu tiên vào năm 2015.
Trong cuộc họp “tăng cường quản lý báo chí và mạng xã hội” ngày 7 tháng Mười hai, có vẻ giải pháp chính mà Thủ tướng Phúc chỉ đạo là dùng báo chí (nhà nước) để phản bác các luận điệu sai trái và nói xấu lãnh đạo trên mạng xã hội.
Tuy nhiên ông Phúc đã thừa nhận với vẻ bức xúc: “Nhiều tờ báo còn thụ động, chờ lãnh đạo cấp trên chỉ đạo mới đưa tin phản bác sự sai trái trên mạng xã hội”.
Thực ra, không phải đến bây giờ giới lãnh đạo Chính phủ mới bức bối về “nói xấu lãnh đạo” trên mạng xã hội. Vào đời trước của ông Phúc, người tiền nhiệm là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không dưới một lần ký quyết định được hiểu như hành động cấm cản mạng xã hội, đặc biệt vào năm 2012 khi nổ ra cuộc chiến quyền lực “Dũng - Trọng.” Nhưng cho đến năm 2015, trong một cuộc họp, Nguyễn Tấn Dũng đã bất ngờ thốt lên “không thể cấm được mạng xã hội đâu các đồng chí à!”
Chính một con số thống kê của Bộ Thông tin Truyền thông Việt Nam đã cho biết có tới hơn 80% người Việt dùng mạng xã hội. Cơ chế cấm cản mạng xã hội ở Việt Nam sẽ có thể ngay lập tức dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thông tin trong khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khiến GDP – vốn đang quá èo uột – sẽ tăng tốc sụt về số âm.
Ngoài ra, còn có một nguồn cơn rất “tế nhị” khác: từ năm 2012, ở Việt Nam đã chính thức diễn ra cuộc chiến nội bộ đảng với trang mạng xã hội có tên Quan Làm Báo. Đến cuối năm 2014, một trang mạng còn ghê gớm hơn là Chân Dung Quyền Lực đã hiện hình và khuynh đảo cả chính trường. Trước đại hội 12 của đảng cầm quyền, một số trang mạng xã hội cũng làm mưa làm gió với những tin tức thuộc loại “Tối Mật,” Tuyệt Mật” của đảng và chính quyền. Từ đó đến nay, ngày càng nhiều trang mạng xã hội nặc danh được tung ra với ngồn ngộn thông tin phanh phui giới quan chức trong nội bộ về nạn tham nhũng, tài sản khủng, bồ nhí con riêng, thủ đoạn chạy chức chạy quyền…
Làm thế nào để “nhu cầu đấu đá nội bộ” có thể tồn tại trong thời gian tới, đặc biệt trong cuộc chiến sát phạt thâu tóm giữa các nhóm quyền lực mới - lợi ích mới đối với các nhóm quyền lực cũ - lợi ích cũ, nếu mạng xã hội bị chính các cơ quan quản lý Việt Nam siết chặt?
Tháng Mười hai năm 2017, ngay sau vụ khởi tố và tống giam chấn động đối với cựu Ủy viên Bộ chính trị Đinh La Thăng, đã xuất hiện những dấu hiệu mới về một cuộc chiến mới trong nội bộ đảng. Trên mạng xã hội một lần nữa hiện lên đơn thư tố cáo dành cho vài quan chức cao cấp. Nhiều vụ việc tưởng đã chìm lãng trong dĩ vãng đang được một bàn tay nào đó “xới” lại…
P.C.D.
Tác giả gửi BVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét