Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

20160403. BÀN VỀ THỰC TRẠNG NGÂN SÁCH VIỆT NAM

ĐIỂM BÁO MẠNG
"NỢ CÔNG VÀ TRẢ LÃI ĐANG BÀO MÒN NGÂN SÁCH VỚI TỐC ĐỘ LỚN"
MẠNH NGUYỄN/ BizLive 2-4-2016
“Nợ công và trả lãi đang bào mòn ngân sách với tốc độ rất lớn!”
Đại biểu Trần Ngọc Vinh
Đại biểu Quốc hội Trần Ngọc Vinh (Đoàn TP. Hải Phòng) nói khi thảo luận về kết quả kinh tế xã hội 5 năm 2011 - 2016.
Phát biểu trước Quốc hội, ông Vinh bày tỏ lo lắng trước vấn đề nợ công và bội chi ngân sách của nước ta trong những năm trở lại đây. Theo vị đại biểu này, nợ công đã ở mức báo động cao.
“Sự tích lũy nợ công tăng chóng mặt những năm gần đây, cho thấy sự liên quan lớn giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức nợ công của Chính phủ. Trung bình mỗi năm tổng số nợ công tăng thêm 2%/GDP, tăng 4% trong năm 2015.
Tất cả các khoản trả nợ gốc và lãi đang bào mòn ngân sách với tốc độ rất lớn. Đây là hệ quả của việc sau một thời gian dài liên tục đi vay một cách tràn lan, xong đầu tư không đem lại hiệu quả”, ông Vinh cho biết.
Để kìm hãm tốc độc phi mã của nợ công hiện nay, đại biểu Vinh đề nghị Chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn vay của các địa phương và các dự án lớn. Cải thiện cơ chế chính sách nhằm giải phóng tiềm lực kinh doanh của doanh nghiệp trong nước và thu hút vốn nhàn rỗi trong nhân dân, thay đổi cơ cấu nợ công, xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả hơn. 
Thứ hai, về tình hình bội chi ngân sách, ông Vinh cho hay Báo cáo của Chính phủ năm 2016 thừa nhận tình hình bội chi ngân sách còn cao, chưa đạt mục tiêu 4,5% GDP. Bên cạnh những vấn đề như lãng phí đầu tư công, rút ruột công trình và nợ công không được xử lý ổn thỏa.
“Về lâu dài, tình trạng ngân sách cạn kiệt và việc chi tiêu không được quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng cho tình hình kinh tế tài chính của Việt Nam. Khi nguồn thu không đủ chi sẽ dẫn đến bội năm này, qua năm khác không kìm hãm được sẽ không có tiền để trả nợ mà còn phải tiếp tục vay để trả nợ cũ”.
Theo ông Vinh, điều này minh chứng quản lý ngân sách nhà nước đang có vấn đề. Ngân sách không có tiền để đầu tư là điều rất nguy hiểm. Do vậy, ông Vinh đề nghị Chính phủ cần có những giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng trên trong nhiệm kỳ tới.
Ngoài vấn đề nợ công, bội chi ngân sách, ông Vinh cũng đặc biệt quan tâm đến những bất cập khi áp dụng ưu đãi đầu tư FDI.
Bên cạnh những tích cực do nguồn vốn FDI mang lại cho nền kinh tế nước ta, như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đặc biệt là những ngành có thế mạnh về xuất khẩu thì việc ưu đãi đầu tư quá nhiều cho các dự án FDI đã khiến cho các doanh nghiệp trong nước bị chèn ép, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu công nghiệp và dịch vụ.
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhưng chưa thực sự hiệu quả. Việc tiếp cận nguồn vốn giãn, hoãn, khoanh nợ thuế, điều chỉnh lãi suất, xử lý nợ xấu hàng tồn kho cung cấp không thông tin, điều kiện tiếp cận thị trường v.v... chỉ có tác dụng đối với doanh nghiệp làm ăn có lãi, còn các doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ thì không có tác dụng. 
Để nền kinh tế có bước tăng trưởng bền vững, ông Vinh đề nghị Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng các dự án FDI, chỉ nên đầu tư thu hút nguồn vốn này vào những ngành, lĩnh vực ta còn thiếu và yếu thay thế thu hút đầu tư FDI một cách tràn lan, thiếu định hướng, nội lực yếu kém của nền kinh tế, chỉ ra sự mất cân bằng giữa các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
MẠNH NGUYỄN
NGÂN SÁCH THẤT THU NHƯNG QUÁ BỘI CHI
VŨ THÀNH TỰ ANH/ BVB 3/4/2016
Trong 20 năm trở lại đây, chưa bao giờ bức tranh ngân sách xấu như bây giờ. Chi thường xuyên tăng nhanh bất thường, đặc biệt trong giai đoạn 2010-2012, khiến cho toàn bộ thu ngân sách hầu như chỉ vừa đủ cho chi thường xuyên.
Điều này cũng có nghĩa là để đầu tư phát triển buộc phải đi vay, và kết quả tất yếu là thâm hụt ngân sách triền miên, cả nợ chính phủ và nợ công đều đã vượt trần.
Thu ngân sách không đủ chi thường xuyên và trả nợ
Với sự năng nổ của ngành tài chính, tốc độ tăng thu ngân sách danh nghĩa của Việt Nam khá cao, trung bình 16% trong giai đoạn 2003-2015 (số liệu của 2014 và 2015 là ước tính), trong khi chỉ số giá tiêu dùng trung bình trong cùng giai đoạn chỉ là 8,8%. Thế nhưng ngay cả với tốc độ tăng nhanh như thế mà ngân sách hiện nay cũng không đủ để bù đắp chi thường xuyên và trả nợ.
Như minh họa trong hình 1, trong giai đoạn 2003-2011, chênh lệch giữa một bên là thu ngân sách (gồm cả viện trợ) và bên kia là chi thường xuyên và trả nợ (bao gồm cả nợ gốc và lãi) liên tục tăng. Thế nhưng trạng thái này thay đổi đột ngột từ năm 2012: từ mức thặng dư khá lớn là 112.000 tỉ đồng, thu ngân sách bị hụt so với chi thường xuyên và trả nợ tới 14.000 tỉ đồng. Xu hướng này vẫn đang tiếp tục và ước tính mức hụt của năm 2015 sẽ lên tới gần 100.000 tỉ đồng.
Khi thu ngân sách không đủ bù đắp cho chi thường xuyên và trả nợ thì hệ quả tất yếu là để có ngân sách cho đầu tư phát triển, Chính phủ buộc phải đi vay. Điều này có nghĩa là Chính phủ cứ đầu tư thêm đồng nào thì ngân sách sẽ thâm hụt thêm và nợ công sẽ tăng thêm đồng ấy.
Vì thế, Chính phủ hiện nay đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: Để duy trì tăng trưởng thì không thể không đầu tư, nhưng càng đầu tư thì ngân sách càng thâm hụt và nợ công càng tăng. Tình thế này càng trở nên nghiêm trọng khi ngân sách thâm hụt ở mức rất cao (trung bình 5,3%) trong một thời gian rất dài (từ năm 2000-2015), và khi mức nợ công (nếu tính đúng, tính đủ) đã vượt trần 65% từ lâu rồi. Nói tóm lại, tình trạng tài chính công hiện nay rất bấp bênh, vừa hết dư địa vừa chứa đựng nhiều bất trắc.
Chi thường xuyên tăng chóng mặt
Tại sao mức thiếu hụt của ngân sách so với chi thường xuyên và trả nợ ngày càng trở nên nghiêm trọng? Nguyên nhân chắc chắn không phải do thu ngân sách kém vì như đã chỉ ra ở trên, tốc độ tăng thu ngân sách của Việt Nam khá cao. Nguyên nhân cũng không hẳn đến từ việc trả nợ gốc và lãi, vì tốc độ tăng trả nợ danh nghĩa trong giai đoạn 2003-2015 là 15,8%, thấp hơn một chút so với tốc độ tăng thu ngân sách.
           Nguyên nhân chính của tình trạng ngân sách hụt hơi là do chi thường xuyên danh nghĩa tăng với tốc độ chóng mặt, trung bình lên tới 19,6% trong giai đoạn 2003-2015. Với tốc độ tăng nhanh như thế này, tỷ lệ chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách (không kể chi trả lãi nợ vay) đã tăng từ 57,4% vào năm 2003 lên đến 80% theo ước tính lần đầu của ngân sách 2015 (hình 2).
Đáng lưu ý là cho đến năm 2011, tỷ lệ chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách vẫn chỉ là 52,3%, tức là thấp hơn đáng kể so với năm 2003. Thế nhưng chỉ trong vòng một năm, từ 2011-2012, tỷ lệ này tăng vọt lên 58,3% và vẫn tiếp tục tăng nhanh trong các năm sau đó.
Nếu nhìn vào hình 2, có thể có ý kiến cho rằng tỷ lệ chi thường xuyên thực ra tăng không quá cao, mà lý do có thể là các khoản chi chuyển nguồn đang được “tạm tính” trong thành phần của chi thường xuyên. Điều này hoàn toàn có thể, song cần nhớ hai điều. Thứ nhất, tỷ lệ chi thường xuyên giảm từ 57,4% năm 2003 xuống đáy. 49,3% năm 2009, song tăng liên tục lên tới 60,4% năm 2013 (là năm gần nhất có quyết toán ngân sách). Thứ hai, tỷ lệ chi thường xuyên và chi đầu tư đã tăng liên tục từ mức 1,7 lần vào năm 2003 lên tới gần 3 lần vào năm 2013 và có thể lên tới 4 lần vào năm 2015.
Tựu trung lại, tất cả bằng chứng hiện nay đều cho thấy chi thường xuyên đang tăng rất nhanh trong năm năm trở lại đây, và đó là lý do chính khiến cho ngân sách hụt hơi và làm cho tình thế “tiến thoái lưỡng nan” của Chính phủ ngày càng trở nên trầm trọng.
Ngân sách quốc gia đang rơi vào tình cảnh khó khăn nghiêm trọng. Nghiêm trọng đến nỗi Bộ trưởng Bộ Tài chính phải thốt lên “mấy năm nay, điều hành ngân sách như kiểu đi trên dây. Năm 2016 tiếp tục đi trên dây. Cứ tình hình này kéo sang năm 2017, dây mà đứt thì chúng ta chết”, còn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cảm thán rằng với vẻn vẹn 45.000 tỉ đồng ngân sách còn lại sau khi trừ đi chi thường xuyên thì “không biết phải làm gì, chưa nói đến phải trả nợ. Trả nợ xong gần như không có tiền để làm gì cả”.
Những cảnh báo như vậy là hết sức cần thiết, song cần thiết hơn là phải nhanh chóng thiết lập được kỷ luật ngân sách và cải thiện hiệu quả chi tiêu. Ngân sách quốc gia hiện nay đã hết dư địa, hoàn toàn không còn chỗ cho những dự án “ngàn tỉ” nằm đắp chiếu, hay cho hàng loạt tượng đài “vung tay quá trán,” và cho cả những dự án tiềm ẩn nhiều rủi ro như mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia là điều không thể tránh khỏi.
Vũ Thành Tự Anh (Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright)/ thesaigontimes

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét