Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2015

20151211. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG DỰ THẢO VĂN KIỆN ĐH12 CỦA ĐẢNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG DỰ THẢO VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG
Bài của GS LÊ HỮU NGHĨA/ ĐCS 17/1/10/2015
(ĐHXII) - Những điểm mới trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; về nhìn lại 30 năm đổi mới và mục tiêu tổng quát, động lực phát triển đất nước 5 năm tới.

I- VỀ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 - 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
1- Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước tác động đến việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Dự thảo Văn kiện đã nêu, tình hình thế giới, khu vực 5 năm qua diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức gay gắt.
Một số tình hình thế giới, khu vực tác động mạnh đến nước ta là :
- Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia. Nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động làm cho mặt trái của chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn.
- Khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; các nước lớn cạnh tranh quyết liệt giành ảnh hưởng trong khu vực. Tình hình phức tạp, căng thẳng ở Biển Đông đe doạ nghiêm trọng hoà bình, ổn định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở trong nước, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo những điều kiện và tiền đề thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2011 - 2015.
Dự thảo Văn kiện nêu một số điểm nổi bật của bối cảnh tình hình trong nước 5 năm qua là: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề...
Trước diễn biến mới của tình hình, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng - an ninh và ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
2- Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015)
2.1- Thành quả
Dự thảo Văn kiện đánh giá: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.
Những thành quả quan trọng được thể hiện trên các mặt sau đây :
- Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định.
- Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên.
- Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực.
- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực bước đầu.
- Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước.
- Quan hệ đối ngoại, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
- Tiếp tục hoàn thiện quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng.
2.2- Những hạn chế, khuyết điểm
- Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện.
- Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được.
- Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Kinh tế tăng trưởng thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở phát triển.
- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.
- Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục.
- Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập.
- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... chưa được ngăn chặn và đẩy lùi; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp.
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Quản lý xã hội còn một số mặt bất cập.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm.
- Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
- Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.
- Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
- Một số mặt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, đan xen lẫn nhau.
3- Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
3.1- Đánh giá tổng quát
Dự thảo Văn kiện đã đánh giá 2 giai đoạn (1986 - 2006 và 2006 - 2016) và đánh giá tổng quát cả 30 năm (1986 - 2016), không chỉ nêu lên những thành tựu mà nêu cả những hạn chế, yếu kém phải tập trung khắc phục, giải quyết.
20 năm đầu đổi mới (1986 - 2006), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. 10 năm gần đây (2006 - 2016), dù phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng suy giảm, song đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sửtrên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đây là một đánh giá khách quan, khoa học.
3.2- Thành tựu
- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
- Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
- Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.
- Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững.
- Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3.3- Hạn chế, khuyết điểm
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
- Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "tụt hậu xa hơn về kinh tế" và nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
3.4- Một số bài học của 30 năm đổi mới
So với Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Dự thảo Văn kiện tuy cũng rút ra 5 bài học, song trong mỗi bài học đều có những nội dung mới, đặc biệt bài học thứ tư rất mới, có ý nghĩa đột phá: "phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết".
II- VỀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2016 - 2020)
1- Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới
Dự thảo Văn kiện dự báo chung: Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Dự thảo Văn kiện nêu những dự báo quan trọng về các mặt của tình hình thế giới những năm sắp tới :
- Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng.
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
- Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
- Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thoả hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế.
- Những vấn đề toàn cầu nổi lên như: an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
- Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường.
- Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi.
- Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
Dự thảo Văn kiện nêu những dự báo quan trọng về các mặt của tình hình đất nước những năm tới là:
- Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước.
- Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
- Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
- Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn.
- Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.
2- Phát huy các nhân tố tạo thành động lực để phát triển đất nước
Đây là vấn đề mới mà văn kiện các Đại hội trước ít đề cập đến.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, cần nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực: hài hoà lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ; tiếp tục đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách, tổ chức..., tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập.
3- Mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ Đại hội XII
Dự thảo Báo cáo chính trị đã xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là :
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Những mục tiêu tổng quát định hướng cho việc xác định các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm tới.


MỘT CHU KỲ&MẤY Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO BÁO CÁO TRÌNH ĐH XII
Bài của BÙI ĐỨC LẠI*/ BVB 13/12/2015

 

1- Văn kiện trình ra Đại hội, lẽ ra phải là  tài liệu quan trọng bậc nhất, tập trung được trí tuệ, nêu ra những vấn đề lớn có ý kiến khác nhau, để Đại hội thảo luân và quyết định. Trong thực tế không phải như vậy. Dự thảo sau đó là Văn kiện chính thức chủ yếu vẫn là sản phẩm tư duy của một sô áp đặt lên tập thể.
Văn kiện trình ra Đại hội, lẽ ra phải là  tài liệu quan trọng bậc nhất, tập trung được trí tuệ, nêu ra những vấn đề lớn có ý kiến khác nhau, để Đại hội thảo luân và quyết định. Trong thực tế không phải như vậy. Dự thảo sau đó là Văn kiện chính thức chủ yếu vẫn là sản phẩm tư duy của một sô áp đặt lên tập thể.
Dự thảo lần này chủ yêu vẫn là việc sắp xếp những khẩu hiệu và sáo ngữ từ văn kiện trước đó. Trong đại hội cơ sở và cấp huyện, thái độ thờ ơ của đảng viên, đại biểu và nhân dân rất rõ.
Không nên quan trong hóa quá mức Dự thảo với một số thay đổi chi tiết, mà nên tập trung phân tích tình hình hiện nay thể hiện qua việc này.
2- Đại hội XII dự kiến sẽ có báo cáo chính trị, báo cáo kinh tế-xã hội và báo cáo thực hiện nghị quyết 4 khóa XI (báo cáo này chỉ trình ra đại hội toàn quốc, không đưa xuống cấp dưới). Không có báo cáo xây dựng đảng, không bổ sung sửa đổi Điều lệ.
Dự thảo có một sô điểm khác Báo cáo ĐHXI (gọi tắt là báo cáo cũ) về tiêu đề và cấu trúc.
2-1 Tiêu đề  thêm hai ý dân chủ và bảo vệ Tổ Quốc, và lùi lại thời gian cơ bản hoàn thành mục tiêu công nghiêp hóa, hiện đại hóa.
2-2 Cấu trúc chương mục.
Dự thảo có 15 chương mục, tương đương với những nội dung được trình bày trong 8/9 chương mục báo cáo cũ, do việc tách các nội dung được lồng ghép trong báo cáo cũ thành nhiều chương mục mới. 
Cụ thể là:
Mục IV cũ nói gộp thể chế và cơ cấu kinh tế, nay tách riêng hai nội dung này thành 2 mục mới III và IV. Mục V cũ nói gộp chung các vấn đề văn hóa- xã hội, nay tách thành 5 mục mới là V (giáo dục) VI (khoa học công nghê) VII (văn hóa) VIII (xã hội) IX (tài nguyên môi trường).
Mục VI cũ nói gộp an ninh quốc phòng và đối ngoại, nay tách thành 2 mục mới là X (quốc phòng, an ninh) và XI (đối ngoại).
Mục VII cũ nói gộp vấn đề dân chủ và đoàn kết dân tộc, nay tách thành 2 mục XII (đoàn kết dân tộc), XIII (dân chủ).
Các mục VIII cũ (xây dựng nhà nước), mục IX cũ (xây dựng đảng) tương đương với các mục XIV, XV mới.
Chống tham nhũng trước đây đề cập trong mục xây dựng nhà nước nay chuyển sang mục xây dựng đảng.
Sau khi trình bày hết 15 chương mục, Dự thảo có một đoạn tách riêng, nói về Sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội XII.
2-3. Sơ lược về nội dungcác chương mục:
Khác với báo caó cũ, trong Dự thảo, mỗi chương mục đều có phần tình  hình ( nói tình hình và đánh giá ưu khuyết điểm) sau đó mới nói đến phương hướng, nhiệm vụ  trong từng lĩnh vực. Cách trình bày này nêu được và đúng nhiều vấn đề chi tiết về tình tình và ưu khuyết điểm, nhưng tản mạn, trùng lắp, thiếu cái nhìn đánh giá tổng quát đúng đắn, né tránh các khuyết điểm cơ bản và nguyên nhân của nó.
3- Sơ bộ vài nhận xét chung.
3-1. Trước sức ép của thực tiễn và dư luận tiến bộ, báo cáo  có 1 số tiến bộ nhất định: i) Khung tư duy, ii) Nôi dung chi tiết, như thừa nhận một số khuyết điểm hiển nhiên, đưa ra được bài học “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết”, nhắc lại quan điểm “dân là gốc”... Một số điểm khác thực chất  chỉ là cách diễn đạt kín kẽ hơn nội dung cũ (ví dụ cách diễn đạt về mục tiêu, về chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh).
3-2. Toàn bộ báo cáo nhìn chung bị chi phối nặng bởi 3 yếu tố: i) Tư duy bảo thủ, cũ kỹ, cạn kiệt ý tưởng ii) Không dám nhìn thẳng vào sự thật, không nói lên được sự thật, iii) Thiếu tự tin.
Điểm thứ iii) rất nổi trong Dự thảo, thể hiện ở chỗ nhấn manh quá mức và nhiều lần  những “khó khăn khách quan”, “tình hình phức tạp khó lường”” nhiệm vụ mới mẻ, chưa có tiền lệ, hậu quả của các khóa trươc đẻ lại”....
Luận điểm về bốn nguy cơ, trước đây đã có những nội dung không chuẩn, nay càng trở nên không  phù hợp với thực tế mới, vẫn được nhai lại, được diễn giải lệch lạc hơn, nhất là về nguy cơ chệch hướng và suy thoái. Một số nguy cơ đã thành hiện thực (tụt hậu, tham nhũng), một số nguy cơ mới xuất hiện không được đề cập (độc lập và chủ quyền quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng, sự lạc hậu về tư duy và chính sách...).
3-3. Tư duy chiết trung xuyên suốt toàn bộ Dự thảo, trong từng đoạn văn, từng ý quan trọng. Mô thức diễn đạt nước đôi rất phổ biến (mẫu câu “vừa thế này... vừa thế khác”, “đi đôi”, “đồng thời” rất phổ biến). Cách viết này thỏa mãn yêu cầu lồng vào nhau những ý kiến không thống nhất, nhưng làm  mất chuẩn nhận thức và hành động.
3- 4. Báo cáo nặng nêu ra những yêu cầu, những điều muốn có (nhiều khi thiếu căn cứ thực tiễn), nhắc lại những khẩu hiệu, những sáo ngữ, nêu lại những giải pháp cũ. Không đưa ra được các giải pháp mới.
3-5. Dự thảo nặng văn phong nói, nhiều ý mâu thuẫn, nhiều đoạn trùng lặp, không chặt chẽ, lỗi ngữ pháp khá nhiều.
Xét trên mọi phương diện, văn kiện chất lượng Dự thảo là thấp, thấp xa so với kỳ vọng của đảng viên và nhân dân, yêu cầu của tình hình, thấp cả so với các văn kiện cũ.
Một số ý kiến về Đảng và xây dựng đảng trong Dự thảo:
Mục XV về Đảng và xây dựng đảng chiếm khối lượng lớn nhất trong Dự thảo, 20/82 trang, gần gấp đôi báo cáo cũ  (gần 1/4 và gần 1/7). Nếu kể cả những nội dung về Đảng và xây dựng đảng đề cập rải rác trong các đoạn khác thì nội dung này chiếm khoảng 1/3 toan bộ khối lượng.
Dự thảo nhìn chung chất lượng thấp, nhưng phần này lại là  phần yếu nhất. Điều này phản ảnh  khá đúng chất lượng thực của lãnh đạo Đảng hiện nay. Đây thực sự là cản trở lớn nhất vào thời điểm hiện nay đối với sự phát triển của đất nước.
Dù Dự thảo còn gượng nhẹ, né tránh, nhưng nếu khái quát những yếu kém “cục bộ” đã được chính Dự thảo thừa nhận, thì kết luận khách quan là, chúng ta đã không thành công trên hầu hết những mặt cơ bản, ít nhất là trong khoảng 15 năm qua (kinh tế tụt hậu xa hơn, giầu nghèo cách biệt hơn, giáo dục, văn hóa đứng trước hàng loạt vấn đề rất nghiêm trọng hơn, mâu thuẫn và xung đột xã hội tăng lên, quốc phòng và an ninh bị đe dọa trực tiếp hơn, đảng suy thoái mạnh hơn - càng gỡ càng không tìm được lối ra có hiệu quả, uy tín và vai trò lãnh đạo suy giảm nghiêm trọng). Kể ra những “cố gắng” “những việc đã làm” ‘những kết quả cục bộ” để khẳng định rằng, ba mươi năm qua đã “đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử “ (tr.8, báo cáo tô đậm), rằng “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử “ (tr.9) , rằng “ Đảng ta giữ vững được bản chất chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xừng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hôi” (tr.78), đều là những kết luận “nói lấy được”, không đúng thực tế và mâu thuẫn với chính Dự thảo.
Một sô điểm quan trọng mà Đảng vẫn tiếp tục kiên định, xem đây là nguyên nhân thắng lợi (tr 10), là trái với thực tế và lý luận.
* Về kiên trì chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tuy Dự thảo không nhắc lại đầy đủ câu viết trong Điều lệ (như báo cáo cũ): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, để tìm một cách diễn đạt mềm mỏng hơn “kiên định chủ nghĩa Mác- Lê nin” “vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin”, tuy rằng trên thực tế thì chủ nghĩa M-L theo “lý luận của Đảng” ngày càng không có nội dung, bị ban  lãnh đạo sử dụng tùy tiện)
*Về định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai mục tiêu này vốn được gắn với nhau từ trên sáu mươi năm nay, bây giờ tiếp tục gắn với nhau thì không khỏi khiên cưỡng, khi CNXH đã mất nội hàm và mô hình cụ thể (cái gọi là mười đặc trưng thật ra chỉ là sản phẩm tư biện, không có cơ sở thực tiễn). CNXH được lãnh đạo Đảng như một “vòng kim cô” trói buộc mọi ý tưởng đổi mới kinh tế. nhất là đổi mới chính trị.
* Về “thế lực thù địch”, “nguy cơ diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và vấn đề suy thoái trong Đảng. Đây là một chùm các vấn đề qua nhiều thời kỳ đại hội đảng được trình bày càng thêm mơ hồ, lại thường được dùng như “con ngáo ộp” dọa dẫm người yếu bóng vía trong nội bộ và những người không tán thành các quan điểm sai lầm.
-  Nếu như trước đây, thế lực thù địch được kèm theo phụ đề trong và ngoài nước, nay bỏ đi phụ đề này, phải chăng là không dám chỉ đích danh kẻ thù ngoài nước đang tồn tại đích thực đối với nền độc lập, đồng thời tập trung đối phó với thế lực thù địch trong nước?
- Thuật ngũ “diễn biến hòa bình” do người Trung Hoa sáng tạo (nay cũng đã không sử dụng). được Tổng cục II tải vào Việt Nam (trong tài liệu do họ dich và đem phổ biến dịp Đại hội VII), vốn đã hồ đồ, nay vẫn được Dự thảo tiếp tục sử dụng nhiều chỗ nhiều nơi.
- Vấn đề suy thoái trong Đảng. Dự thảo tiếp tục xếp chung vào cái rọ suy thoái một rọ suy thoái những người giữ vững phẩm chất đạo đức, vì dân vì nước, kiên trì phê phán những chủ trương, chính sách lạc hâu, yêu cầu đổi mới toàn diện (mà bị gọi là suy thoái chính trị, tư tưởng) với bọn suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, phản dân, hại nước. Quan điểm trên khiến đấu tranh chống suy thoái mất chuẩn, mất tuyến, mất đối tượng và động lực.
Về Đảng và dân chủ trong Đảng. Công tác tổ chức cán bộ của Đảng.
Tình trạng mất dân chủ trong Đảng không được đề cập. Dự thảo nêu rất mờ nhạt yêu cầu dân chủ hóa các mặt hoạt động của Đảng, không xem dân chủ hóa là một biện pháp quan trọng chống suy thoái trong Đảng. Hầu như không có điều gì mới trong các quy định, nhất là việc về quyền dân chủ của đảng viên.
Trong khi nhắc lại hầu hết các khuyết điểm lâu nay không khắc phục được trong công tác bộ trong, Dự thảo tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ...”. tức là tiếp tục đặt công tác cán bộ trong vòng khống chế chặt hơn của một nhúm người, gạt ra ngoài vai trò của đảng viên và nhân dân. Quy chế mới đây về công tác nhân sự đại hội lại càng hạn chế quyền dân chủ bầu cử đến mức vi phạm Điều lệ Đảng.
Về quyền làm chủ của nhân dân và quan hệ Đảng- Dân. Dự thảo nêu lại các quan điểm đã ghi trong Cương lĩnh, Điều lệ, nhắc lại quan điểm “dân là gốc”, thêm một sô ý về quyền con người. Nhưng khi đề cập các biện pháp cụ thể thì hầu như chỉ hô lại các khẩu hiệu chung chung, không có ý gì mới. Các vấn đề như quyền tự do ngôn luận, lập hội, xã hội dân sự, trưng cầu dân ý đều bị phớt lờ.
Đánh giá chung
Có thể nói, Dự thảo được chuẩn bị bởi những thê lực bảo thủ trong Đảng, không những không có tiến bộ gì thực chất mà còn có điểm thụt lùi so với trước. Thực tế cuộc sống và những kiến nghị tâm huyết của cán bộ, đảng viên và nhân dân những năm qua...không hề được tiếp thu và phản ảnh trong Dự thảo. Thế lực bảo thủ chi phối việc Dự thảo văn kiện và có tham vọng chi phối việc chuẩn bị nhân sự trung ương (họ đã chi phối được việc nhân sự các cấp dưới). Tuy vậy xét thực chất, thế lực này không mạnh, đã cạn kiệt nguồn ý tưởng, đang ở thế bất lực, bị động, thậm chí bất lực, mất tinh thần. Giai đoạn tới cuộc đấu tranh giữa các thế lực sẽ có thể diễn biến gay go hơn, quyết liệt hơn, công khai hơn. Không loại trù một sô hành vi cực đoan đối vơi nhau và đối với những người khác chính kiến (bị đe dọa trong 2 đoạn của Dự thảo).
 Kiến nghị.
- Dự thảo là để đưa xuống thảo luận ở đại hội đảng từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh. Liệu Dự thảo chính thức trình ra Trung ương có thay đổi gì không? Đây là vấn đề sẽ được Hội nghị TW tháng 10 quyết định. Với tình hình như hiện nay, thì triển vọng không có gì sáng sủa. Tuy nhiên cũng không hẳn là hoàn toàn mất hy vọng, những chuyển biến nhất định trong nước và trong khu vực, trên thế giới, nhất là cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ, có thể tạo ra những “cú hích” mới. Vì vậy, Viện và Diễn đàn không bi quan, tham gia theo tinh thần “còn nước còn tát” trong Tháng Chín tới.
- Nội dung cơ bản không phải là tham gia ý kiến chi tiết, câu chữ. Mà là cảnh báo với lãnh đạo, toàn Đảng, toàn dân rằng, nếu Dự thảo này được thông qua, thì là một cản trở lớn trong bước đường phát triển thời gian tới.
- Đòi hỏi phải vượt qua những luận điểm cũ kỹ của Cương lĩnh. Đây cũng không phải là việc không thể làm. Trong quá khứ, Đảng đã nhiều lần làm việc này.
Bùi Đức Lại (nguyên Chuyên viên Ban Tổ chức Trung ương Đảng)/(Blog Mười Hai Bến Nước)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét