Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

20150628. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG INTERNET Ở VIỆT NAM

ĐIỂM BÁO MẠNG
BÁO CHÍ VIỆT NAM TRONG MÔI TRƯỜNG TIN TỨC ĐẦY BIẾN ĐỘNG
Bài của PGS.TS NGUYỄN ĐỨC AN * / TBKTSG 25/6/2015
(TBKTSG) - Nếu cuộc khảo sát được Gallup công bố gần đây về tiêu thụ truyền thông và tin tức ở Việt Nam là đáng tin cậy thì giới nhà báo, quản trị toà soạn, quản lý thông tin - nhất là trong ngành báo in - sẽ phải đương đầu với nhiều bài toán cấp bách để bảo đảm một tương lai bền vững trong thời đại số...
Internet “trên từng cây số”
Cách đây 10 năm, khi Internet chỉ có mặt trong đời sống 13% người Việt và điện thoại di động (ĐTDĐ) vẫn còn là xa xỉ phẩm với đại đa số, khó ai có thể nhìn thấy trước cảnh quan truyền thông Việt Nam hiện nay.
Dữ liệu mới được BBG (Hội đồng quản trị phát thanh truyền hình thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ) và Gallup công bố cho thấy, với gần một nửa dân (43%) có kết nối với mạng toàn cầu, Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có mức thâm nhập Internet cao nhất châu Á.
Tỷ lệ người Việt sử dụng Internet hàng tuần (tức là, ít nhất mỗi tuần một lần) tăng vọt từ 26% năm 2013 lên 39% năm 2015. Có 35% sử dụng Google, 30% tham gia mạng xã hội Facebook và 27% xài YouTube.
Đứng ở trung tâm chuyển biến mạnh mẽ này trong vài năm trở lại đây có lẽ là ĐTDĐ. Một phần nhờ thị trường hàng cũ rộng khắp, mức độ thâm nhập của ĐTDĐ vào cộng đồng người Việt tăng từ 75% năm 2013 lên 94% năm 2015. Nghĩa là, bây giờ, từ nông thôn đến đô thị, ra đường là gần như ai cũng có ĐTDĐ (trừ một số vùng sâu vùng xa mà BBG/Gallup không tiếp cận).
Một vài tòa soạn cũng chịu khó đầu tư nhưng manh mún, thiếu nền tảng và hệ thống, với quá nhiều giằng co giữa phát triển cái mới (không có lợi nhuận trước mắt) và níu kéo cái cũ (vẫn là bầu sữa chính).
Điện thoại thông minh là “hàng quý tộc” cách đây vài năm, bây giờ là vật trong tay chừng 34 triệu người Việt (37% dân số), nhất là trong nhóm tuổi 15-24 (66%) và 25-34 (56%).
Trong bối cảnh đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy, theo dữ liệu của BBG/Gallup, ĐTDĐ đã trở thành môi trường truy cập Internet phổ dụng nhất tại Việt Nam (31%), bỏ xa máy tính để bàn (18%) và máy xách tay (10%). 8/10 người có xài Internet “trong bảy ngày vừa qua” làm việc này qua ĐTDĐ, gấp ba lần máy tính xách tay (26,5%) và gần gấp đôi máy để bàn (45%).
Xin mở ngoặc là cách BBG/Gallup chọn mẫu và thu thập dữ liệu có vài điểm cần phải dè chừng (tôi sẽ lưu ý khi có dữ liệu cần đặt câu hỏi). Nhưng khi đối chiếu với các nguồn dữ liệu khác, những con số trên cho thấy một sự biến động mãnh liệt và sâu sắc đang diễn ra trong môi trường truyền thông - và theo đó là kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa - ở Việt Nam. Chẳng hạn, một nghiên cứu thị trường khác do TNS thực hiện năm ngoái cũng cho ra vài dữ liệu tương tự như BBG/Gallup: số người Việt sở hữu điện thoại thông minh tăng gần gấp đôi, từ 20% năm 2013 lên 36% năm 2014.
Truyền hình thống lĩnh, mạng xã hội thẳng tiến
Cũng như ở những nước có tỷ lệ thâm nhập Internet cao, hành vi và thói quen sử dụng tin tức tại Việt Nam đang chuyển biến theo hướng di động, đa phương tiện, đa thiết bị và mạng xã hội.
Nhưng truyền hình vẫn là “vua”: tuyệt đại đa số dân (96%) tiếp nhận tin tức ít nhất là hàng tuần (mỗi tuần một lần) qua máy truyền hình. Khi được yêu cầu nêu tên ba nguồn tin cụ thể “quan trọng nhất”, những người tham gia khảo sát của BBG/Gallup chọn bốn kênh truyền hình là VTV, đài địa phương, VTC và HTV, nhiều nhất.
Theo sau truyền hình không phải là một phương tiện thông tin đại chúng khác mà là bạn bè/người thân (75% lấy tin từ nguồn này hàng tuần). Nghĩa là tương tác xã hội đóng vai trò quan trọng hơn nhiều so với phần lớn các cơ quan báo chí chính thống.
Rất tiếc, cách đo lường hơi mập mờ trong khảo sát của  BBG/Gallup không cho phép phân định được bao nhiêu trong số 75% đó là qua truyền miệng trực tiếp ngoài đời và bao nhiêu là qua các công cụ trên Internet như mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến, e-mail...
Nhưng tác động từ những công cụ trực tuyến này có lẽ sẽ không nhỏ. Trên thực tế, Facebook dù còn non trẻ đã xếp thứ sáu trong danh sách 10 nguồn tin quan trọng nhất với người Việt. Facebook cũng là ứng dụng (app) được sử dụng thường xuyên nhất trên ĐTDĐ (47%, bỏ xa ứng dụng thứ hai là Google với 16%).
Liên quan đến mạng xã hội, một kết quả đáng để ý khác trong khảo sát của BBG/Gallup là gần 60% người Việt cho rằng blog và tiểu blog cá nhân “đáng tin” hơn tin tức chính thống. Con số này cần phải được tiếp nhận cẩn trọng vì rõ ràng đây là một tỷ lệ rất cao so với tỷ lệ sử dụng Internet (39%). Nghĩa là, BBG/Gallup hỏi rất nhiều người về độ “đáng tin” của một kênh tin tức mà họ chưa bao giờ đụng tới - và nhiều người chắc chắn sẽ trả lời cho xong hay cho vừa ý người hỏi, mà chẳng biết nó là cái gì.
Tuy nhiên, xin đừng tự trấn an rằng dữ liệu không đáng tin cậy, rồi không làm gì. Thực tế đang diễn ra như thế, dù có thể ở mức độ thấp hơn: các nguồn tin phi chính thống cần được nghiêm túc nhìn nhận như là một dòng chảy văn hóa chính danh, với những giá trị riêng của nó, trong xã hội số. Nhìn nhận để có cách làm tin bài nhạy bén hơn trong các tòa soạn, để đưa ra cách tiếp cận hợp thời hơn trong tư duy và chính sách quản lý môi trường thông tin và truyền thông. Nói như một nhà báo kỳ cựu ở TPHCM, “lề phải” không có, không nhanh thì đương nhiên, người ta sẽ đổ sang “lề trái”.
“Lá cải” làm mưa?
Nhiều người đã lên tiếng về thảm trạng “lá cải” trong báo chí, nhưng tầm với của loại tin, bài này trong xã hội Việt Nam vẫn chưa được đo lường có hệ thống. Dữ liệu BBG/Gallup bắt đầu cho một cái nhìn thoáng qua về việc này.
Đứng thứ năm (sau bốn kênh truyền hình kể trên) trong danh sách 10 nguồn tin cụ thể quan trọng nhất là một tên tuổi còn lạ hoắc cách đây vài năm: 24h.com.vn (được 7.7% người Việt nêu tên). Cũng nằm trong danh mục này là ba trang tin trực tuyến khác: Dantri.com.vn (4,2%), Kênh 14 (4%) và Zing (3,2%). Ngay cả các báo trực tuyến lâu năm và tên tuổi như VnExpress hay VietNamNet đều không có mặt trong danh mục này.
Nét chung giữa những trang web “quan trọng nhất” trên là gì? Vào là thấy ngay tin, bài về cướp - giết - hiếp, thấy đại gia này kiều nữ kia, thấy thân hình phụ nữ đem ra phô bày như vật thể trong triễn lãm... Những trang web này đặc biệt phổ dụng trong hai nhóm độc giả trẻ 15-24 và 25-34 tuổi. Tỷ lệ tuổi 35 trở lên chọn chúng là nguồn “quan trọng nhất” đều rất thấp.
Điều gì sẽ xảy ra với một thế hệ lớn lên theo những nguồn tin “quan trọng nhất” kiểu này? Người Việt đang dần bị mê muội bởi những thứ tin tức này chăng? Theo tôi, lo lắng là cần thiết, nhưng không cần phải thái quá. Chuyện báo lá cải dẫn đầu thị trường chẳng phải lạ và chẳng phải riêng trong thế giới số. Ở Anh, các tờ lá cải như The Sun (hay The News of the World trước khi bị đóng cửa vì vụ nghe trộm điện thoại) mỗi ngày bán vài triệu bản. Trong khi những tờ báo khả kính nhất như The Daily Telegraph hay The Guardian mỗi ngày chỉ bán được vỏn vẹn vài trăm ngàn bản.
Người ta có thể vẫn đổ vào đọc tin lá cải, giật gân để giải trí, để thoát ly thực tại, để cười cợt, để giải quyết những tọc mạch không cần thiết, để thỏa mãn những dục vọng thầm kín trong con người... Nhưng ít ai có lương tri xã hội sẽ dựa vào chúng để tiếp nhận thông tin thiết yếu cho công việc, đời sống chung và riêng.
Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy con người càng lớn tuổi và càng nhiều trách nhiệm với gia đình và xã hội, càng cần đến với các loại tin tức quan trọng và nghiêm túc. Điều này lý giải vì sao nhóm tuổi 35 trở lên hiếm khi chọn bốn trang web lá cải như nguồn tin quan trọng nhất.
Nỗi niềm... báo in
Ngược với truyền hình, báo in rơi vào chót bảng trong các phương tiện truyền thông, tin tức được người Việt sử dụng (19%), cách xa thiết bị di động (48%) và Internet (38%), thậm chí bị cả radio (21%) lấn lướt. Trong 10 nguồn tin cụ thể “quan trọng nhất”, không có tên tuổi báo in nào.
Tỷ lệ đọc báo in thấp không có gì đáng ngạc nhiên. Xưa nay báo in ở ta chỉ chăm chú phục vụ các vùng đô thị, nơi mà chi phí phát hành thấp và thị trường thích hợp hơn (trình độ giáo dục, khả năng đọc hiểu, nhu cầu tin tức, sức mua và sức hút quảng cáo... trong cư dân đô thị cao hơn nông thôn). Nhưng khó có thể phủ nhận rằng báo in, vốn đã tụt dốc từ khoảng 2008-2009 trở lại đây, có vẻ như đang tiếp tục hứng chịu “cơn lốc số”.
Rất tiếc, qua quan sát các sản phẩm số mà các tờ báo in làm ra cũng như tiếp xúc trực tiếp với nhiều tòa soạn, tôi cảm thấy dường như họ vẫn chưa sẵn sàng thích ứng với thời đại. Phần lớn tham gia không gian đa phương tiện và đầy tính tương tác xã hội mà không thoát khỏi tư duy “độc thoại từ trên xuống” như lúc làm báo giấy. Điều này thể hiện ngay trong những điều cơ bản như cách thiết kế trang web, cách viết và trình bày bài báo...
Ngay cả việc cung cấp ứng dụng tin tức (news app) để tận dụng xu hướng di động, hiện chỉ có một hai tờ báo là làm tương đối tốt (như Thanh Niên chẳng hạn).
Một vài tòa soạn ý thức được thách thức và cơ hội, cũng chịu khó đầu tư nhưng sự đầu tư manh mún, thiếu nền tảng và hệ thống, với quá nhiều giằng co giữa phát triển cái mới (không có lợi nhuận trước mắt) và níu kéo cái cũ (vẫn là bầu sữa chính).
Xem thêm bài
(*) Đại học Bournemouth, Anh
"KHÓ KIỂM SOÁT FACEBOOK MẠO DANH LÃNH ĐẠO"
Bài của pv THU HẰNG / VNN 28/6/2015
mạng xã hội, facebook, bộ trưởng, Nguyễn Bắc Son, an toàn thông tin.
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son.
Nói về những facebook mạo danh nhiều lãnh đạo, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son cho hay có những khó khăn, khó kiểm soát hết khi máy chủ các trang cá nhân đặt ở nước ngoài.
Dự luật An toàn thông tin lần đầu tiên trình tại kỳ họp QH vừa qua nhận được nhiều ý kiến đóng góp của ĐBQH. VietNamNet đã phỏng vấn Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son về những vấn đề ĐBQH đặt ra để cơ quan soạn thảo tiếp tục hoàn chỉnh dự luật.
Nói xấu Đảng, Nhà nước cần phải nghiêm trị
ĐB Huỳnh Thành Đạt khi thảo luận về dự luật đã đưa ra đề nghị cấm mạo danh trên facebook như một cách bảo vệ thông tin, cá nhân trên Internet, Bộ trưởng nhận thấy đề nghị này có hợp lý?
Facebook là mạng xã hội lớn, mọi người đều có quyền mở tài khoản, truy cập, khó có ai quản lý được.
Bây giờ nói cấm mạo danh trên facebook thì việc đưa ra chế tài đối với vi phạm này là một thách thức. Ví dụ bạn lên facebook hoàn toàn có thể lấy nickname ở nhà đặt cho facebook của mình. Ra lệnh cấm không được dùng nickname để truy cập, đăng ký trên facebook hiện nay gần như chưa thể.
Theo Hiến pháp, mọi công dân có quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do tiếp cận và cung cấp thông tin. Nhưng nếu tự do này phương hại tới lợi ích người khác, tự do của mình ảnh hưởng tới tự do người khác thì phải bị xử lý.Xã hội đang tiến tới việc tất cả hành vi đều có thể quản lý được và thực tế cơ quan chức năng cũng đang tìm cách giải quyết, để mọi hành vi được tự do nhưng trong khuôn khổ pháp luật.
Anh có quyền tự do lập facebook. Nhưng nếu đăng thông tin bôi xấu người khác thì quyền tự do của anh lại vi phạm pháp luật, vi phạm quyền tự do của người khác. Như vậy phải bị lên án, xử lí, chưa kể nếu nói xấu Đảng, nhà nước thì cần phải nghiêm trị.
Gặp khó với máy chủ đặt ở nước ngoài
Nhưng hiện nay trên facebook có rất nhiều nickname mạo danh nhiều lãnh đạo đảng, nhà nước?
Facebook có máy chủ đặt ở nước ngoài, đó là cái khó và thách thức trong quản lý trang thông tin cá nhân. Chúng ta khuyến khích tự do thông tin nhưng tự do phải trong khuôn khổ pháp luật.
Vì thế theo quy định của Nghị định 72, khi đăng ký cung cấp dịch vụ thông tin trên mạng buộc các nhà cung cấp dịch vụ phải đặt ít nhất 1 máy chủ ở VN để quản lý và dễ dàng giải quyết những vấn đề phát sinh. Nếu cung cấp dịch vụ xuyên biên giới mà máy chủ không đặt ở VN rất khó kiểm soát hết.
Khi chúng ta ban hành Nghị định 72 có rất nhiều phản đối nhưng vì mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, an ninh quốc gia chúng ta vẫn phải làm và quyết tâm làm.
Vừa rồi, các ĐBQH cũng nêu thực trạng nhiều trang web, máy tính của VN bị tấn công từ các hệ điều hành đặt ở nước ngoài. Trong khi việc kiểm soát thông tin từ các máy chủ đặt ở nước ngoài lại rất khó khăn?
Những thông tin xuyên biên giới không chỉ là thách thức với riêng VN mà cả thế giới. Ngay Mỹ cũng thường xuyên phát đi những thông tin cảnh báo tấn công vào mạng lưới thông tin của mình, ngay cả trang web các nhà lãnh đạo của Mỹ cũng bị tấn công.
Một số trang thông tin có xuất phát từ nước ngoài đang là mối đau đầu của các cơ quan an ninh để tìm mọi cách hữu hiệu nhất ngăn chặn, cảnh báo. Hiện chúng ta có 8 nhà mạng được phép cung cấp dịch vụ này phối hợp với các cơ quan chức năng để ngăn chặn, bằng cả biện pháp kỹ thuật và tuyên truyền.
Trong đó, việc tuyên truyền để mọi người có ý thức nhận biết đâu là thông tin tốt, đâu là thông tin sai trái trên mạng. Đồng thời khuyến khích mọi người cung cấp thông tin tốt, thông tin chính thống lên mạng. Đơn cử như trang tin Quan làm báo sau một thời gian chúng ta tích cực tuyên truyền, nay người dân đã không còn vào truy cập.
Tuy nhiên, những giải pháp này cũng không thể đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hiện nay, xuất hiện nhiều hacker với thủ đoạn tinh vi có thể vượt rào tường lửa.
Lên án việc đưa thông tin tổn hại người khác
Nhiều ĐBQH cũng rất quan tâm tới hệ luỵ tiêu cực từ mạng xã hội đối với thanh thiếu niên như vụ nữ sinh 15 tuổi ở Đồng Nai tự tử vừa qua. Vậy luật an toàn thông tin đặt ra vấn đề quản lý mạng xã hội như thế nào để vừa đảm bảo thông tin nhưng không hạn chế dân chủ?
Vụ việc đặt ra vấn đề an toàn thông tin trên mạng mà cơ quan quản lý Nhà nước phải xử lý, trong đó có trách nhiệm của Bộ TT&TT. Chúng tôi cũng phải khuyến cáo tất cả các nhà mạng khi phát hiện ra những nội dung tương tự thì phải nhanh chóng có biện pháp ngăn chặn bằng kỹ thuật, để không dẫn tới những hậu quả đáng tiếc như vừa qua.
Về mặt giáo dục đạo đức xã hội, gia đình phải quản lý con cái, quản lý thành viên trong gia đình. Bản thân mỗi cá nhân phải ý thức được rằng những thông tin mình đưa ra phải góp phần cho xã hội tốt hơn. Còn đưa những thông tin làm tổn hại người khác thì đây hành vi cần phải lên án, giáo dục và bị xử lí.
Theo Bộ trưởng, mỗi cá nhân khi tham gia mạng xã hội cần có trách nhiệm như thế nào?
Bản thân tất cả chúng ta phải có ý thức đưa thông tin tốt, tránh đưa thông tin xấu lên mạng. Khi phát hiện những thông tin xấu gây ảnh hưởng lớn tới xã hội, nhanh chóng thông báo tới cơ quan chức năng để họ có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Trước các ý kiến của ĐBQH, dự luật sẽ được tiếp thu, đưa ra các quy định chế tài, kiểm soát ra sao?
Mong muốn của các ĐBQH là hoàn toàn chính đáng để khi luật ra đời phải giải quyết được tất cả các vấn đề phức tạp trên mạng. Luật An toàn thông tin ra đời kỳ vọng sẽ giải quyết được một số nội dung để đảm bảo an toàn trên môi trường mạng chứ khó có thể giải quyết hết được.
Thu Hằng

2 nhận xét: