Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

20150125. BÀN VỀ 189 KHIẾU NẠI THAM NHŨNG TỪ DỰ ÁN ODA CỦA VN

ĐIỂM BÁO MẠNG
THAM NHŨNG DỰ ÁN ODA :"CHỈ THOẢI MÁI NHƯ VIỆT NAM"
Bài pv của BÍCH NGỌC /DVO/ BVB 23/1/2015

ĐVO - Rõ ràng những khoản nợ là người dân phải gánh chịu còn những người chịu trách nhiệm hạ cánh an toàn mà không phải chịu trách nhiệm gì.
TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế trung ương đã tỏ ra vô cùng quan ngại trước những thông tin mà Ngân hàng thế giới vừa công bố về tình trạng khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở Việt Nam.
Theo đó ông cho rằng vốn ODA thực chất là một khoản vay mà chúng ta sẽ phải trả lại trong tương lai, và kèm theo điều kiện cho vay là những điều khoản có lợi cho các nhà thầu đến từ nước cung cấp ODA. Do vậy việc sử dụng không hợp lý, tham nhũng có nghĩa là đang đẩy gánh nặng lên lưng con cháu về sau.
 VN chống tham nhũng chưa hiệu quả
PV: Thưa ông, liên quan tới việc sử dụng nguồn vốn ODA mới đây Ngân hàng thế giới cho biết, cơ quan này đã nhận tới 189 khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở Việt Nam. Số khiếu nại này chỉ đứng sau Ấn Độ, với 306 khiếu nại. Ông bình luận như thế nào về con số này? Xét ở góc độ vĩ mô, điều này sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới nguồn ODA trong tương lai?
TS Lê Đăng Doanh: - Có thể thấy rằng tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là thông tin đáng nói lên nhất sau thông điệp mà Ngân hàng thế giới đưa ra. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chống tham nhũng ở Việt Nam chưa  hiệu quả.
Việc Việt Nam không chống được tham nhũng sẽ làm nản lòng nhiều nhà tài trợ. Bằng chứng là cơ quan tài trợ của Anh đã ngưng, và tổ chức SIDA của Thụy Điển cũng đã cân nhắc các hoạt động tài trợ vốn cho Việt Nam.
Đứng ở góc độ quốc gia, nhiều nước khác cũng nản vì cơ chế của họ là phải giải trình với Quốc hội về việc sử dụng nguồn vốn đi tài trợ, hiệu quả ra sao. Họ không chứng minh được sự hiệu quả thì chắc chắn sẽ không được chấp nhận.
Do đó việc để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng tại các dự án sử dụng vốn ODA sẽ làm ảnh hưởng tới uy tín của Việt Nam cũng như tiếng nói với các nước trên diễn đàn quốc tế.
Thông điệp Ngân hàng Thế giới đưa ra hết sức quan trọng. Nó cho thấy sự quan ngại của cơ quan này cũng như các nhà tài trợ đối với tình trạng tham nhũng của Việt Nam là rất lớn.
PV: Có một nghịch lý là, dù những sai phạm về ODA đã hơn một lần được chỉ thẳng, những sai phạm đều rõ ràng, có địa chỉ... nhưng phía Việt Nam luôn bị động trong việc phát hiện các sai phạm này. Điều này có thể được lý giải như thế nào thưa ông? Từ những vụ việc đã xảy ra, ông thấy cách Việt Nam phản ứng với những cáo buộc tham nhũng các dự án ODA thế nào?
TS Lê Đăng Doanh: - Có một điều rõ ràng là các sai phạm, tham nhũng trong sử dụng nguồn vốn, các dự án ODA chưa khi nào Việt Nam tự phát hiện được mà chỉ là do báo chí hay các tổ chức nước ngoài, hoặc lộ ra từ một vụ việc có liên quan.
Điều này chứng tỏ cơ chế chống tham nhũng của Việt Nam đang kém hiệu quả không phát huy được tác dụng dù rằng chúng ta đã nói rất nhiều.
Ngay cả các vụ việc tham nhũng trong nước phần nhiều cũng là do báo chí, người dân tố cáo. Còn thực tế các cơ quan thanh tra phát hiện được rất ít. Điều này cho thấy chúng ta đang nói rất hùng hồn nhưng hiệu quả lại hạn chế.
Thậm chí ngay cả khi có những cáo buộc từ phía đối tác thì cách phản ứng với cáo buộc đối với tham nhũng này cũng theo kiểu thiếu cuống quýt. Việt Nam thường không từ chối, không bác bỏ mà nói sẽ nghiên cứu. Điều này cho thấy chính các cơ quan nhận được cáo buộc này cũng không dám quả quyết về sự trong sạch của cán bộ mình.
Ông Huỳnh Ngọc Sỹ (nguyên Phó giám đốc Sở GTVT TP.HCM) bị kết án tù vì nhận hối lộ liên quan dự án ODA. Ảnh: TL
Ông Huỳnh Ngọc Sỹ (nguyên Phó giám đốc Sở GTVT TP.HCM) bị kết án tù vì nhận hối lộ liên quan dự án ODA. Ảnh: TL
***
Hiểu lầm tai hại
PV: Nhiều chuyên gia đã chỉ thẳng, Việt Nam có sự ngộ nhận về ODA, coi đó là một nguồn viện trợ không hoàn lại nên đầu tư chưa hiệu quả. Thưa ông, liệu có thể coi đây chính là một trong những nguyên nhân tạo ra những tham nhũng, tiêu cực trong các dự án ODA hay không và vì sao?
TS Lê Đăng Doanh: - Đây là một sự hiểu lầm rất tai hại khi nghĩ rằng đây là khoản biếu không.
Trên thực tế nguồn tài trợ ODA là tiền vay. Mà thường thì những khoản tiền vay được hay xin được thì chi tiêu rất tùy tiện mà không biết rằng chúng ta đang tiêu những khoản tiền sẽ phải gánh trên lưng của con cháu sau này.
Phải thừa nhận một điều chúng ta đang sử dụng nguồn vốn rất lãng phí và tùy tiện. Điều này từng được Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch nêu thẳng trên diễn đàn Quốc hội về tình trạng ăn nhậu vô tội vạ ở nước ta nhưng rồi vẫn quyết toán được.
Trong khi đó ở nhiều nước cuối tháng 12 người ta không mời được cơm vì ngân sách chưa có. Chính vì tình trạng chi mạnh tay và thoải mái như ở Việt Nam nên mới có chuyện nợ công rồi tăng chi.
Cá nhân tôi cũng từng nhận được nhiều ý kiến chia sẻ của những người bạn nước ngoài. Họ ngạc nhiên trước việc ăn nhậu, tiệc tùng, tiếp khách của Việt Nam.
Có những dịp kỷ niệm mới đây mà Đại sứ quán các nước được mời tới 2 tuần liền với những bữa tiệc hoành tráng mà họ không hiểu được nguồn tiền chi trả cho những khoản này.
Việc thiếu kỷ luật trong chi tiêu sẽ là nguyên nhân khiến chúng ta lún sâu vào những khoản nợ nần. Do đó chúng ta cần phải nghiêm túc hơn nữa. Với tham nhũng phải có biện pháp nghiêm chỉnh hơn.
PV: - Nhìn lại về nguồn ODA, chúng ta hiện nay đang phải đối mặt với những vấn đề như sau: sử dụng không hiệu quả, thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng vốn, tham nhũng ODA. Trong khi đó, Việt Nam đã bắt đầu phải đi vay để trả lãi vay và trả nợ nước ngoài, nợ công đã tiệm cận mức trần. Ai sẽ là người phải gánh chịu hệ quả trực tiếp từ những vấn nạn trên? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm vì để người dân phải gánh chịu hệ quả như vậy?
TS Lê Đăng Doanh: - Rõ ràng những khoản nợ là người dân phải gánh chịu còn những người chịu trách nhiệm sẽ hạ cánh an toàn, không phải chịu trách nhiệm gì.
Chính phủ đã trình trước Quốc hội rõ ràng con số, năm 2013 vay 40.000 tỉ đồng để đảo nợ, năm 2014 là 70.000 tỉ đồng và sẽ tiếp tục vay đảo nợ trong năm 2015...
Đảo nợ là nói theo thuật ngữ của ngân hàng, nhưng nói theo cách thông thường của người dân là phải vay chỗ nọ đập chỗ kia. Là tình trạng giật gấu vá vai.
Và tình trạng này kéo dài thì như tôi đã nói ở trên là chúng ta đang tiêu tiền đẩy gánh nặng lên lưng con cháu sau này.
Trong khi đó nếu để nói về trách nhiệm thì từ trước đến nay chưa có trường hợp nào bị xử lý trách nhiệm trừ ông Trần Văn Truyền, Tuy nhiên, phương án xử cũng rất nhẹ nhàng.
Từ những vụ việc đã qua tôi chưa tìm thấy điểm nào để thuyết phục mình rằng tình trạng tham nhũng ở Việt Nam sẽ được cải thiện sớm, nghiêm khắc và triệt để như những gì mong muốn.
Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ!
Bích Ngọc (thực hiện)
***
THAM NHŨNG DỰ ÁN ODA; "CHÚNG TA ĐÃ CÓ NHIỀU TAI TIẾNG ..."
Bài pv của BÍCH NGỌC trên ĐVO 23/1/2015
(Tin tức thời sự) - Tham nhũng trong các dự án ODA là có thật nhưng việc xử lý rõ ràng là kém, có sự nương nhẹ đến mức người dân nghi ngờ ‘rút dây động rừng’.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã bày tỏ quan điểm với Đất Việt trước thông tin Ngân hàng thế giới vừa công bố về con số đơn khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở Việt Nam. Trong khi đó các vụ việc được phát hiện chưa thể hiện rõ sự nghiêm minh và cơ quan chức năng bị động trong việc phát hiện.
Tình trạng quản lý kém
PV: - Thưa bà, liên quan tới việc sử dụng nguồn vốn ODA mới đây Ngân hàng thế giới cho biết, cơ quan này đã nhận tới 189 khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở Việt Nam. Số khiếu nại này chỉ đứng sau Ấn Độ, với 306 khiếu nại. Bà bình luận như thế nào về con số này? Xét ở góc độ vĩ mô, điều này sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới nguồn ODA trong tương lai?
Bà Phạm Chi Lan: - Tôi nghĩ con số này đang nói lên một thực tế mà chúng ta đã bàn đến nhiều đó là nạn tham nhũng ngày càng tinh vi.
Việc các tổ chức đưa ra các thông tin về tham nhũng tại các dự án ODA có lẽ cũng không lạ lẫm gì với người Việt Nam bởi nạn tham nhũng đã được thừa nhận là tràn lan, là quốc nạn và diễn ra nghiêm trọng với nhiều hình thức tinh vi. Những cụm từ này đã được chính các vị lãnh đạo cấp cao nói ra.
Thực trạng này thực sự đáng buồn bởi trước hết nó ảnh hưởng tới nguồn ODA hiện nay vì rõ ràng tham nhũng trong các dự án ODA là có. Những vụ tham nhũng phát hiện ra đã truy xét tới nơi như vụ ông Huỳnh Ngọc Sĩ sau phải xử tù. Rồi những vụ sau này cũng đều phát hiện từ các nước cấp tiền với những bằng chứng rõ ràng.
Dù phía Việt Nam có tìm cách bào chữa cũng khó bác bỏ được. Ví dụ như vụ PMU 18 hay vụ đường sắt mới đây.
Mặt thứ hai, khi vốn ODA thất thoát kém hiệu quả trong khi toàn bộ gánh nợ đó vẫn đổ lên đầu người dân cả trước mắt cũng như trong tương lai.
Ngoài ra điều này ảnh hưởng đến niềm tin của nhà cung cấp ODA khiến về sau họ ngần ngại hơn rất nhiều bởi chính các nước cấp ODA cũng chịu sự giám sát của Quốc hội và người dân nước họ. Bởi vì ODA chính là tiền thuế của người dân nước họ đóng góp cho chính phủ của họ. Do đó Chính phủ dùng tiền đó cung cấp cho nước khác thì bản thân họ cũng phải kiểm soát tham nhũng.
Nếu chúng ta tạo nên sự phản ứng để Quốc hội và người dân các nước không đồng tình trong việc cung cấp ODA cho Việt Nam thì sẽ làm tổn hại cho Việt Nam. Chúng ta vốn đã có quá nhiều tai tiếng ảnh hưởng đến uy tín rồi.
PV: Có một nghịch lý là, dù những sai phạm về ODA đã hơn một lần được chỉ thẳng, những sai phạm đều rõ ràng, có địa chỉ... nhưng phía Việt Nam luôn bị động trong việc phát hiện các sai phạm này. Điều này có thể được lý giải như thế nào thưa bà? Từ những vụ việc đã xảy ra, bà thấy cách Việt Nam phản ứng với những cáo buộc tham nhũng các dự án ODA thế nào?
Bà Phạm Chi Lan: - Điều này đang phản ánh một phần tình trạng quản lý kém về các mặt trước hết là đối với các dự án.
Hai nữa là quản lý con người trong bộ máy có vấn đề. Ở đây có thể nhìn từ việc tuyển chọn không công bằng đến sử dụng thiếu giám sát.Bởi vì tham nhũng trước hết là ở bản thân con người. Ngoài các quy trình tạo ra những kẽ hở thì chính là những con người đã tạo ra những việc đó. Lòng tham cũng như khả năng đang tạo điều kiện để họ có thể lạm quyền được.
Ngoài ra thiết chế và các quy trình đặt ra cũng cần phải xem xét. Trong nhiều trường hợp những người có trách nhiệm vẫn nói là mọi việc diễn ra đúng quy trình nhưng sai phạm vẫn xảy ra, vậy thì tức là quy trình này đang sai.
Quy trình xem chừng như rất chặt chẽ nhưng cuối cùng vẫn có vấn đề nhưng lại không ai chịu trách nhiệm về việc tạo ra quy trình đó. Đây cũng là điều đánh trách.
Thứ hai là trong việc xử lý rõ ràng là kém, có sự nương nhẹ với nhau đến mức người dân nghi ngờ có hệ thống, đường dây cho nên sợ rút dây động rừng. Cho nên ngại không dám mạnh tay. Điều này dư luận đã nghi ngờ ở các vụ việc trong nước nhưng với vụ việc liên quan đến bên ngoài không xử nghiêm sẽ tạo nên nỗi xấu hổ đối với cộng đồng quốc tế.
Lẽ ra với những vụ đã được phía nước ngoài phát hiện như vậy thì mình nên xử một cách thẳng thắn, sòng phẳng nghiêm minh thì sẽ tạo được lòng tin tốt hơn và quan trọng hơn là ngăn chặn được bước đi tiếp theo. Tức là phần nào có tính chất răn đe và đỡ đi tình trạng tham nhũng trong các dự án ODA.
Còn việc cố tìm cách trì hoãn, bao che hay bào chữa cho phía Việt Nam với lý lẽ là bảo vệ danh dự nhưng thực tế những việc này là không thể bào chữa khi bên ngoài đã có chứng cớ quá rõ.
Như vậy khi đó họ sẽ chỉ nhìn thấy phía Việt Nam không chịu xử lý nghiêm minh và khi đó không thể nào chặn được tham nhũng.
Nghi án hối lộ tại dự án Đường sắt đô thị Hà Nội là một điểm nóng trong quản lý, sử dụng vốn ODA năm qua.
Nghi án hối lộ tại dự án Đường sắt đô thị Hà Nội có sử dụng vốn ODA đã được phía Nhật Bản nêu bằng chứng trong năm 2014 - dư luận vẫn đang chờ phán quyết cuối cùng
PV: Nhiều chuyên gia đã chỉ thẳng, Việt Nam có sự ngộ nhận về ODA, coi đó là một nguồn viện trợ không hoàn lại nên đầu tư chưa hiệu quả. Thưa bà, liệu có thể coi đây chính là một trong những nguyên nhân tạo ra những tham nhũng, tiêu cực trong các dự án ODA hay không và vì sao?Cần truy trách nhiệm đến cùng 
Bà Phạm Chi Lan: - Tôi cho rằng dù có quan niệm ngộ nhận về ODA cũng không được phép tham nhũng. Trong nguồn vốn ODA đúng là cũng có những khoản cho không nhưng đó là cho đất nước Việt Nam còn nghèo với những người dân còn đói khổ chứ không phải cho các ông quan.
Nhận thức như vậy mà lại ở trong tầng lớp cán bộ thì thực sự là trình độ quá kém. Ngay cả hệ thống giáo dục trong nội bộ công chức kém mới để cho cán bộ có nhận thức về ODA như vậy.
Cho nên nếu đổ lỗi cho nhận thức của cán bộ thì phải xem lại việc bổ nhiệm cán bộ này vào các vị trí ra quyết định để có thể tham nhũng nguồn vốn ODA.
PV: - Nhìn lại về nguồn ODA, chúng ta hiện nay đang phải đối mặt với những vấn đề như sau: sử dụng không hiệu quả, thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng vốn, tham nhũng ODA. Trong khi đó, Việt Nam đã bắt đầu phải đi vay để trả lãi vay và trả nợ nước ngoài, nợ công đã tiệm cận mức trần. Ai sẽ là người phải gánh chịu hệ quả trực tiếp từ những vấn nạn trên? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm vì để người dân phải gánh chịu hệ quả như vậy?
Bà Phạm Chi Lan: - Rõ ràng là người dân các thế hệ phải gánh chịu vấn nạn này. Ngay từ bây giờ mỗi cá nhân chúng ta đang bắt đầu phải trả nợ. Từng người dân và cả những người về hưu như cá nhân tôi làm việc gì cũng phải đóng thuế 10% (thuế thu nhập cá nhân). Tức là gánh nặng này đang đánh lên đầu từng người dân Việt Nam từ người già cho đến trẻ con. Những đứa trẻ hiện nay chưa phải đóng thuế nhưng bố mẹ chúng đang phải đóng thuế nhưng rồi chúng sẽ phải lo lắng việc này khi trưởng thành.
Đây là điều rất tệ, đánh lên đầu từng người dân.
Trong khi đó những người chịu trách nhiệm không rõ ràng. Ngay cả những kẻ đã phát hiện tham nhũng xử lý cũng không đến nơi đến chốn và cũng vẫn tìm cách lẩn tránh được.
Ví dụ như vụ đường sắt gần đây nhất dường như cũng đang chìm xuồng. Tôi chưa thấy phía Việt Nam nêu rõ danh tính sai phạm của các cá nhân trong khi phía Nhật Bản đã nêu rất rõ bằng chứng. Không thể có chuyện khoản tiền đó ném vào không trung mà chắc chắn nó phải vào túi ai đó.
Dù khi đó các cơ quan có nói đình chỉ công tác để điều tra và với một Bộ trưởng quyết liệt như ông Đinh La Thăng nhưng đến nay vẫn chưa rõ kết quả.
Tôi nghĩ trong những vụ việc này, ngoài trách nhiệm cá nhân thì vẫn phải quy xét trách nhiệm ở cấp cao hơn, là những người quản lý, giám sát họ. Bởi công trình nào thì cũng có cấp trên, có ban quản lý vậy thì họ chịu trách nhiệm tới đâu? Có dính gì đến tham nhũng này không, có được ‘bôi trơn’ phần nào hay trong quản lý đã buông lỏng…?.
Tất cả cần phải được xem xét nghiêm minh thì mới mong có thể lập lại dần trật tự được.
Ngoài ra trách nhiệm của những người lập ra các quy trình cũng phải chịu trách nhiệm. Ví dụ làm ra luật sai, văn bản sai tác động rất lớn đến biết bao nhiêu người vậy tại sao họ không chịu trách nhiệm gì? Họ ăn lương của dân đóng góp vào mà làm không hết trách nhiệm, để người dân khốn khổ thì phải chịu trách nhiệm chứ?
Nếu chúng ta quyết tâm làm thì tất cả đều có thể tìm ra địa chỉ trong quy trình đã được thiết lập. Vấn đề là có quyết tâm làm hay không mà chỉ sợ như đúng những gì người dân lo ngại đó là sai hệ thống, chỉ thích chịu trách nhiệm tập thể rồi đổ vấy cho nhau thôi.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
  • Bích Ngọc (thực hiện)
***
THAM NHŨNG DỰ ÁN ODA: AI CHỊU THIỆT CUỐI CÙNG ?
Bài pv của BÍCH NGỌC trên ĐVO 24/1/2015
(Tin tức thời sự) - Việc thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong việc quản lý nguồn ODA nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang là vấn đề nóng nổi lên.
 Ông Bùi Đức Thụ, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã nói như vậy với Đất Việt. Theo đó, ông Thụ cho rằng không riêng gì nguồn vốn ODA bị thất thoát, tham nhũng mà ngay cả nguồn lực công, việc quản lý sử dụng cũng cần được đặt ra.
Tiền đi vay không rơi vào công trình thực
PV: Thưa ông, liên quan tới việc sử dụng nguồn vốn ODA mới đây Ngân hàng thế giới cho biết, cơ quan này đã nhận tới 189 khiếu nại liên quan đến tham nhũng trong các dự án ở Việt Nam. Số khiếu nại này chỉ đứng sau Ấn Độ, với 306 khiếu nại. Ông bình luận như thế nào về con số này? Xét ở góc độ vĩ mô, điều này sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới nguồn ODA trong tương lai?
Ông Bùi Đức Thụ: - Tôi cho rằng việc thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong việc quản lý nguồn lực công nói chung và nguồn ODA nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang là vấn đề nóng nổi lên. Thậm chí là ở mức báo động nên Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền cần khẩn trương ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, thất thoát lãng phí này.
Phải ngăn chặn không để tình trạng tái phát, một mặt để việc quản lý sử dụng nguồn tài chính công hiệu quả, mặt khác để bộ máy trong sạch, lấy lại uy tín đối với quốc tế và nhà tài trợ.
Tình trạng này đang làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn ODA, tức là mức cam kết vay và giải ngân không vào công trình thực mà nó bị rơi vãi trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dự án công trình, mục tiêu mà nguồn ODA thực hiện.
Quan trọng hơn là ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam đối với các nhà tài trợ nước ngoài. Làm cho hình ảnh Việt Nam bị mờ nhạt và người ta khó có thể tin tưởng được.
Còn ở trong nước việc tham nhũng làm vẩn đục môi trường kinh doanh, môi trường quản lý nhà nước. Làm phương hại không chỉ đến tài sản của nhà nước mà là của nhân dân.
PV: - Có một nghịch lý là, dù những sai phạm về ODA đã hơn một lần được chỉ thẳng, những sai phạm đều rõ ràng, có địa chỉ... nhưng phía Việt Nam luôn bị động trong việc phát hiện các sai phạm này. Điều này có thể được lý giải như thế nào thưa ông? Từ những vụ việc đã xảy ra, ông thấy cách Việt Nam phản ứng với những cáo buộc tham nhũng các dự án ODA thế nào?
Ông Bùi Đức Thụ: - Nước ngoài phát hiện được thì hết sức hoan nghênh. Người dân Việt Nam thì cũng rất muốn phát hiện nhưng cũng không đủ cơ sở, điều kiện. Chính vì thế là đối tác cung cấp nguồn ODA, tham gia vào việc giám sát quản lý và sử dụng nguồn vốn này đã phát hiện được thì rất tốt cho Việt Nam.
Còn việc phát hiện được rồi cần phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhưng điều đáng đặt lên ở đây là việc phát hiện tham nhũng thất thoát từ ODA nói riêng, quản lý sử dụng tài chính công nói chung dù có phát hiện được nhưng thực sự bỏ sót cũng còn lớn.
Điều này cần phải xem xét lại nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thanh tra kiểm tra để đảm bảo mọi sai phạm đều được phát hiện một cách kịp thời, xử lý một cách công minh thì mới lập lại được trật tự kỷ cương trong quản lý tài chính, kinh tế của nhà nước.
Tham nhũng đang làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn ODA, tức là mức cam kết vay và giải ngân không vào công trình thực mà nó bị rơi vãi trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện.
Tham nhũng đang làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn ODA, tức là mức cam kết vay và giải ngân không vào công trình thực mà nó bị rơi vãi trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện.
PV: - Nhiều chuyên gia đã chỉ thẳng, Việt Nam có sự ngộ nhận về ODA, coi đó là một nguồn viện trợ không hoàn lại nên đầu tư chưa hiệu quả. Thưa ông, liệu có thể coi đây chính là một trong những nguyên nhân tạo ra những tham nhũng, tiêu cực trong các dự án ODA hay không và vì sao?Phải có biện pháp căn cơ
Ông Bùi Đức Thụ: - Trong ODA có một tỉ lệ nhỏ là viện trợ không hoàn lại. Trước kia là khoảng 14-15% nhưng gần đây tỉ lệ này giảm xuống. Có những khoản hỗ trợ từ thiện, nhân đạo nhưng giờ tỉ lệ này đã giảm. Số còn lại là vốn vay lãi suất thấp.
Hiện Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng đang phát triển chuyển sang ngưỡng thu nhập trung bình nên việc tìm kiếm nguồn ODA như trước là khó, lãi suất cũng cao hơn chứ không còn rẻ như trước kia.
Cho nên cần phải tỉnh táo và thấy rõ trong bối cảnh mới như vậy việc ưu đãi vay phải được sử dụng nghiêm túc, có hiệu quả thì hình ảnh Việt Nam mới giữ được trong con mắt của các tổ chức nước ngoài. Có như vậy thì mới mong duy trì được ODA. Hơn nữa nếu quản lý và sử dụng hiệu quả thì mới đảm bảo trả đầy đủ, đúng hạn và hết nợ khi đến hạn.
Còn vừa qua một số cấp ngộ nhận ODA là cho không cũng có nhưng chủ yếu là cấp tỉnh. Qua làm việc giám sát chúng tôi thấy rằng có tình trạng này.
Song phải thấy rằng ODA phần lớn tài trợ cho dự án công trình cụ thể, cũng có khoản nhà nước đi vay sau đó về cho vay lại hoặc đưa vào cân đối ngân sách để phân bổ cho các dự án công trình.
Lúc đó khoản tiền này được hiểu như là khoản tiền ngân sách nhà nước và người sử dụng không trực tiếp phải đảm bảo trách nhiệm thu hồi trả nợ, nhất là phần ODA vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước hoặc vay để đầu tư một số dự án công trình hạ tầng thuộc nhiệm vụ chi của nhà nước.
Những khoản này ngân sách sau này phải bố trí trả nợ. Vì thế cho nên giữa người sử dụng và nghĩa vụ trả nợ không liên quan trực tiếp nên ý thức trong việc lo xử lý nợ công, trả nợ mà ngân sách nhà nước phải lo thì đúng là cũng có nhiều người chưa ý thức được đầy đủ.
PV: Nhìn lại về nguồn ODA, chúng ta hiện nay đang phải đối mặt với những vấn đề như sau: sử dụng không hiệu quả, thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng vốn, tham nhũng ODA. Trong khi đó, Việt Nam đã bắt đầu phải đi vay để trả lãi vay và trả nợ nước ngoài, nợ công đã tiệm cận mức trần. Ai sẽ là người phải gánh chịu hệ quả trực tiếp từ những vấn nạn trên? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm vì để người dân phải gánh chịu hệ quả như vậy?
Ông Bùi Đức Thụ: - Phải thấy rằng dù là ODA đầu tư vào công trình hay đưa vào ngân sách cũng đều phải chi trả vào nghĩa vụ thanh toán từ nguồn thuế đóng góp của dân. Suy cho cùng là người dân phải gánh chịu nên việc quản lý sử dụng một cách hợp lý có hiệu quả là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước nhân dân.
Còn vấn đề nợ công tăng và vì sao tăng là câu trả lời cần được giải đáp. Khi ngân sách nhà nước thu không đủ bù chi thì buộc phải bội chi cao. Khi đó vay trong và ngoài nước tăng lên sẽ khiến nợ tăng lên. Khi đó người quyết định dự toán đó chính là Quốc hội cũng phải xem xét.
Nhưng chúng ta cũng phải thấy rằng trên diễn đàn Quốc hội đã bàn thảo rất kỹ nhưng phải thấy rằng nguồn thu của chúng ta chỉ có hạn, nền kinh tế đang phục hồi nhưng cũng còn rất yếu. Nếu tận thu thì kinh tế thui chột. Trong khi đó tốc độ tăng chi thường xuyên tăng quá cao (chiếm 67% tổng chi ngân sách nhà nước) dẫn đến phần chi trả nợ rất nhỏ.
Tuy nhiên nếu để nói quy trách nhiệm cũng rất khó. Hiện chúng ta đang khuyến khích cơ chế mở rộng dân chủ cơ chế tập thể nên không rõ trách nhiệm.
Như việc quyết định phân bổ ngân sách nhưng đưa vào những dự án chưa thật hiệu quả, cấp bách ở Trung ương là Quốc hội, địa phương là HĐND các cấp. Vậy phải xử lý trách nhiệm tập thể như thế nào?
Cho nên thời gian tới tôi cho rằng vừa đảm bảo nguyên tắc tập thể nhưng cũng phải đảm bảo trách nhiệm quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu. Vừa qua việc phân bổ nguồn lực là cơ quan dân cử nhưng việc tổ chức thực hiện không hiệu quả dẫn tới thất thoát lãng phí lại là trách nhiệm của người tổ chức thực hiện.
Sau này chấn chỉnh ngay cả việc quy hoạch, kế hoạch chủ trương chính sách của chúng ta có hợp lý hay không. Tiếp đến là việc tổ chức thực hiện từ trung ương cho đến đơn vị cơ sở cũng phải chấn chỉnh lại thì mới tạo được chuyển biến đồng bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công.
Hiện Thường vụ Quốc hội đang xây dựng kế hoạch giám sát ODA để giao cho Ủy ban Tài chính ngân sách hoặc Ủy ban kinh tế của Quốc hội đảm nhận.
Trước mắt tôi cho rằng các cơ quan kiểm toán, thanh tra từ trung ương đến địa phương trực tiếp quản lý phải giám sát vào vấn đề đừng để mất bò mới lo làm chuồng, thấy tham nhũng thất thoát rồi mới đi tìm người truy cứu trách nhiệm. Điều đó là cần nhưng quan trọng là ngăn chặn từ cơ chế phân bổ, quyết định chủ trương, quy hoạch đến sử dụng thì mới là căn cơ.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
  • Bích Ngọc (Thực hiện

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét