Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

20141202. XOAY QUANH CHUYỆN NHẬP 20 TRIỆU TẤN THAN MỘT NĂM CỦA VINACOMIN

ĐIỂM BÁO MẠNG
VIỆT NAM KÝ NHẬP 20 TRIỆU TẤN THAN /NĂM: LỜI NGUYỀN ỨNG NGHIỆM
Bài của THÁI AN /Đất Việt / Quechoa 1/12/2014
***
Dự báo nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
***
Theo thông tin từ Bộ Công Thương, đến nay, Vinacomin đã ký 10 Biên bản ghi nhớ, 1 Hợp đồng nguyên tắc với một số công ty than của Indonesia, Australia; Công ty Sojitz, Marubeni, Sumitomo của Nhật Bản và 1 Thoả thuận cung cấp than dài hạn với Công ty ASPECT Resources của Australia với tổng khối lượng than đã ký kết khoảng trên 20 triệu tấn/năm.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cũng đã ký được 4 Hợp đồng khung về cung cấp than với các đối tác Ensham Coal Sales và Peabody của Australia, Tuah Turangga Agung của Inđônêxia, Sojitz Corporation của Nhật Bản và 1 Biên bản ghi nhớ với Noble Group của Indonesia với tổng khối lượng than đã ký khoảng 10 triệu tấn/năm, đáp ứng đủ nhu cầu than cho các nhà máy nhiệt điện của PVN.
 Theo Quy hoạch điện VII (Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030), nguồn nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn điện của Việt Nam, vì vậy trong thời gian tới, nhu cầu than cho phát điện ngày càng cao trong khi đó sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu.
Như vậy, nhập khẩu than để bù đắp cho sự mất cân đối lớn giữa năng lực sản xuất với nhu cầu là điều không thể tránh khỏi.
Bộ Công Thương dự báo từ năm 2016, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than phục vụ các hộ tiêu thụ trong nước, đặc biệt là cho sản xuất điện với khối lượng dự kiến như sau: năm 2016 khoảng 3-4 triệu tấn; năm 2020 khoảng 35 triệu tấn; năm 2025 khoảng 80 triệu tấn, năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu than dài hạn với khối lượng lớn là vô cùng khó khăn. Theo nhiều chuyên gia, nguồn nhập khẩu than là chưa đảm bảo.
Hiện có 4 nguồn mà Việt Nam có thể nhập khẩu than gồm: Indonesia, Australia, Nga, Nam Phi. Hai đối tác Australia và Indonesia có tính khả thi cao hơn, đây cũng là hai nhà cung cấp than chủ chốt cho các nền kinh tế lớn ở châu Á.
Trước đó, 41.500 tấn than vừa cập cảng Hòn Nét (Quảng Ninh). Đây là mẻ than đầu tiên Vinacomin nhập khẩu thí điểm từ Liên bang Nga và sẽ là bước đệm cho kế hoạch nhập than phục vụ nhu cầu trong nước thời gian tới.
Đáng nói, mặc dù nhu cầu than vẫn đang gia tăng, dự kiến đến năm 2020, sẽ phải nhập khẩu cả triệu tấn, nhưng song hành với việc nhập khẩu, ngành than vẫn đang làm một điều nghịch lý: Xuất khẩu than với số lượng không hề nhỏ.
Ồ ạt xuất khẩu
Việt Nam được coi là "mỏ vàng đen” của châu Á và Đông Nam Á, với trữ lượng hiện nay còn khoảng tương đương 3,5 tỷ tấn. Dù có thế mạnh về tài nguyên than, nhưng nhiều thập kỷ qua, Việt Nam chỉ chú trọng khai thác để xuất khẩu. Có thời điểm (giai đoạn 2006-2011) Việt Nam xuất khẩu tới 21 triệu tấn than.
Nguy cơ thiếu than cho nhu cầu trong nước đã từng được giới chuyên gia cảnh báo. Và trên thực tế, Chính phủ cũng đã nêu vấn đề, nhu cầu than trong nước đang ngày càng tăng cao: Năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 triệu tấn, và cho đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải tiêu thụ tới 220,3 triệu tấn.
Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015 (chỉ sau 2 năm) nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần, đến năm 2020 tăng gấp 4 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần.
Trong khi đó, sản lượng than hiện tại mới chỉ đạt 40 triệu tấn và trong tương lai cũng khó có thể tăng sản lượng lên. Thế nhưng lãnh đạo tập đoàn TKV, ông Nguyễn Văn Biên, vẫn cho biết "trong kế hoạch sản xuất và kinh doanh của ngành, vẫn sẽ xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn than/ năm".
Năm 2011, VN cũng là nước nằm trong top 5 nước xuất khẩu than đá lớn nhất thế giới.
Lời nguyền ứng nghiệm
Chính sách đào tài nguyên bán giá rẻ vì sao nó tồn tại được lâu nay khi mà theo nhiều dự báo, Việt Nam đã đứng trước "lời nguyền khoáng sản".
Cho rằng, nỗ lực tận khai, ra sức "đào" và "chặt" khiến nhiều tài nguyên bị cạn kiện. PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, đến nay Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi phương thức tồn tại dựa chủ yếu vào khai thác tự nhiên. Đây là giai đoạn zero trong các giai đoạn tiến lên công nghiệp hóa.
“Trong hơn 20 năm qua, các thành phần kinh tế, mọi ngành, mọi nhà đều ra sức “đào” và “chặt”, ra sức xuất khẩu tài nguyên, bán cho nước ngoài tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia có thể. Và trong thời gian qua, nỗ lực tận khai đó vẫn còn duy trì sự đóng góp mạnh mẽ vào thành tích tăng trưởng kinh tế. Đến bây giờ năng lực đó hầu như đã đạt mức tối đa, nhiều loại tài nguyên gần như cạn kiệt, môi trường đã bị suy thoái nghiêm trọng” - ông Thiên chua chát nói.
Sở dĩ có tình trạng này là một phần công nghệ của chúng ta lạc hậu, mặt khác do bị áp lực bởi các chỉ tiêu về ngân sách nên một số tỉnh, thành cho phép xuất khoáng sản thô. Ông Thiên cho rằng, đó chính là nguyên nhân dẫn tới tình trạng hỗn loạn trong hoạt động khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô mà nhà nước không thể kiểm soát được.
Đặc biệt với những ngành khai thác khoáng sản như than, bauxite, titan… đều xuất khẩu với mức giá rất thấp, chưa kể lại xin đủ thứ ưu đãi về thuế, phí.
Trong khi đó, tình trạng xuất lậu khoáng sản vẫn chưa được kiểm soát, đó chính là cửa kiếm "ăn" của những kẻ cơ hội, trục lợi. TS Lê Đăng Doanh, cho hay theo báo cáo của Trung Quốc thì xuất khẩu của ta sang nước láng giềng này nhiều hơn con số thống kê chính thức những gần 4 tỉ USD, một con số không phải nhỏ. Đây chính là số hàng hóa xuất lậu qua nước ngoài, trong đó có tài nguyên khoáng sản.
Theo TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Ban quản lý dự án than đồng bằng sông Hồng, trong 6 tháng đầu năm 2013 có hơn 2 triệu tấn than bị xuất lậu sang TQ, số liệu này Vinacomin cũng nắm được.
Theo ông Sơn, giá thành khai thác than hiện nay là khoảng 1,2 triệu đồng/tấn, còn giá bán than trong nước hiện nay bình quân là gần 1,3 triệu đồng/tấn, còn xuất khẩu thì phải cao hơn, chưa kể số tiền thuế xuất khẩu hiện nay là 13%, từ đấy tính ra số tiền thất thoát là rất lớn, nhà nước không thu được một đồng nào.
***
TS NGUYỄN THÀNH SƠN: "HÒN THAN MÀ BIẾT NÓI NĂNG..."
Bài của THÀNH LUÂN trên Đất Việt/ 9/12/2014
(Thị trường) - Với phương châm “dê làm khổ bò” vốn có ở TKV, đến nay sau 20 năm, nguồn sở hữu toàn dân (gần 3 tỷ tấn than-PV) đã bốc hơi hơn 30%.
TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc BQL các dự án than Đồng bằng sông Hồng - Vinacomin đã trao đổi thẳng thắn và tâm huyết với Đất Việt xung quanh việc Việt Nam ký nhập khẩu 20 triệu tấn than/năm.
PV: - Việt Nam vừa ký nhập khẩu 20 triệu tấn than/năm với một số công ty than của Indonesia, Australia, Nhật Bản và Australia. Theo dự báo của Bộ Công thương, năm 2016, Việt Nam phải nhập khẩu 3-4 triệu tấn, năm 2020 khoảng 35 triệu tấn và tới năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
Như vậy, Việt Nam đã phải nhập khẩu chính thứ mình đang bán ra. Tại sao lại có sự lạ đời như vậy, thưa ông?
TS Nguyễn Thành Sơn: - Sự “lạ đời” này có cội nguồn từ sự “lạ đời” khác, đó là cung cách và tư duy quản lý ngành than nói riêng, và quản lý lĩnh vực năng lượng nói chung, của Bộ Công Thương. Đã nhiều năm nay, câu hỏi tương tự đã được đặt ra trên các phương tiện thông tin đaị chúng nhưng, Bộ Công Thương và Tập đoàn TKV cùng một giọng “ca” bài xuất khẩu than là cần thiết, là hiệu quả, là đương nhiên, là xuất than tốt không dùng đến v.v… Rất tiếc là trong thể chế quản lý kinh tế của Việt Nam chưa có quy chế truy cứu trách nhiệm nói sai của những người có chức có quyền như vậy.
Lĩnh vực xuất-nhập khẩu than cho thấy rõ nhóm lợi ích: khi giá dầu cao thì đào than lên để xuất khẩu với bất kỳ chi phí nào, khi giá dầu thấp thì mặc kệ các ngành có sử dụng than tự xoay sở nhập khẩu than về để dùng. Miếng mồi xuất khẩu than ngon ăn thì TKV đòi bằng được độc quyền. Cục xương nhập khẩu than khó nhằn thì TKV đã nhanh miệng xin Chính phủ “mở cửa”.Trong tương lai, việc nhập khẩu than không đủ, nhưng TKV hình như “vô can”.
Không ít hơn 1 lần, Chính phủ đã chính thức giao cho TKV nhiệm vụ nhập khẩu than để đảm bảo cân đối đủ than cho các ngành kinh tế. Cũng không ít hơn 1 lần, TKV cứ “ngậm miệng ăn tiền” xuất khẩu than, còn nhiệm vụ cung cấp đủ than cho nền kinh tế được giao thì “hãy đợi đấy”.
Khi mới được “ra ở riêng” (thành lập năm 1994), Chính phủ đã ưu ái giao cho TKV một nguồn tài nguyên gần 3 tỷ tấn than thuộc sở hữu toàn dân làm “của hồi môn”. Với phương châm “dê làm khổ bò” vốn có ở TKV, đến nay sau 20 năm, nguồn sở hữu toàn dân này đã bốc hơi hơn 30%, chỉ còn lại chưa đến 2 tỷ tấn thuộc loại cực kỳ khó khai thác (phải khai thác với chi phí cực kỳ cao- cao nhất thế giới). Nhưng, chẳng có ai chịu trách nhiệm, vẫn vui cả làng và hòa cả làng.
***
TS Nguyễn Thành Sơn
TS Nguyễn Thành Sơn
***
Rõ ràng Việt Nam khai thác tài nguyên để bán cho Trung Quốc với giá rẻ rồi lại nhập về chính loại than mà chúng ta đã và đang tích cực xuất khẩu với giá cao. Ông có bình luận gì trước những con số này?PV: - Nhiều năm qua Trung Quốc là thị trường xuất khẩu than chính của Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất khẩu than đá của Việt Nam sang Trung Quốc giảm cả về lượng và kim ngạch. Theo Tổng cục Hải quan, so với 10 tháng năm 2013, xuất khẩu than sang Trung Quốc đạt 3,87 triệu tấn, giảm gần 50%, với trị giá 229,9 triệu USD. Cũng theo đơn vị này, năm nay Việt Nam bắt đầu nhập khẩu than từ Trung Quốc. Trong 10 tháng năm 2014, Việt Nam đã nhập trên 385.000 tấn than đá từ Trung Quốc, giá trị kim ngạch đạt gần 100 triệu USD.
TS Nguyễn Thành Sơn: - Bộ Công Thương và TKV từ xưa đến nay vẫn báo cáo Chính phủ và giải thích trên các phương tiện thông tin đại chúng là chỉ “xuất than tốt” ở VN không dùng đến. Con số trên (xuất 3,87 triệu tấn than với giá trị 229,9 triệu USD; nhập 0,385 triệu tấn than với giá trị kim ngạch gần 100 triệu USD) cho thấy điều ngược lại: xuất than xấu (giá khoảng 60 USD/tấn), nhập than tốt (giá lên tới gần 260 USD/tấn).
Chẳng thể có bình luận gì khác ngoài câu “hòn than mà biết nói năng, thì ghế chú cuội trên cung trăng cũng chẳng còn”.
PV: Trong khi TKV cứ đào than đi bán thì những tập đoàn nhà nước như EVN, PVN lại đang cố tìm kiếm nguồn than ngoại để nhập khẩu. Tại sao lại có sự lệch pha như vậy, thưa ông? Nếu kéo dài tình trạng này sẽ gây ra tác hại thế nào?Ai là người được hưởng lợi?
TS Nguyễn Thành Sơn: - Câu hỏi này có vẻ “ngô nghê” nhưng cũng hay. Công tác quy hoạch (chức năng chủ yếu thuộc Bộ Công Thương) và chiến lược phát triển ngành than của Việt Nam (chức năng chủ yếu thuộc TKV) từ xưa đến nay rất bất cập.
Chất lượng của các qui hoạch ngành than nói riêng và lĩnh vực khoáng sản nói chung rất thấp.Phần lớn các qui hoạch đều bể ngay từ khi vừa phê duyệt.Ví dụ, Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 được phê duyệt 09/01/2014, chưa kịp triển khai thì đến 09/06/2014 Bộ Công Thương đã phải có văn bản 5075/BCT-TCNL “điều chỉnh quy hoạch”.
Vấn đề ở đây là “sự lêch pha” trong tư duy/tầm nhìn của các nhà quản lý thuộc Bộ Công Thương và cách tiệm cận “khó hiểu” của lãnh đạo TKV từ xưa đến nay.
Nếu kéo dài tư duy “lệch pha” và cách tiệm cận “khó hiểu” này, cộng với nhiều thứ khác thì lĩnh vực năng lượng của Việt Nam về cơ bản và lâu dài sẽ phụ thuộc tiếp vào việc nhập khẩu than và nhập khẩu điện năng từ Trung Quốc - nước láng giềng có mức độ/qui mô sản xuất/tiêu dùng năng lượng hàng đầu thế giới.
***
lĩnh vực năng lượng của VN về cơ bản và lâu dài sẽ phụ thuộc tiếp vào việc nhập khẩu than và nhập khẩu điện năng từ TQ
Lĩnh vực năng lượng của Việt Nam về lâu dài sẽ phụ thuộc tiếp vào việc nhập khẩu than và nhập khẩu điện năng từ Trung Quốc
***
TS Nguyễn Thành Sơn: - Việt Nam đang đối mặt 3 vấn đề nan giải:PV: - Nhiều nước phát triển bảo vệ tài nguyên trong nước bằng cách nhập khẩu tài nguyên từ các nước khác thay vì khai thác nguồn tài nguyên của nước mình như Mỹ nhập khẩu dầu, Na Uy nhập khẩu gỗ... Ngay cả Trung Quốc cũng đóng cửa hàng loạt mỏ than. Trong khi đó, ở Việt Nam, với những con số xuất nhập khẩu như trên, ông có dự báo thế nào về nguy cơ phụ thuộc nước ngoài của Việt Nam?
(i) Nguồn cung về năng lượng của Việt Nam ngày càng giảm (nguồn thủy điện khai thác hết, nguồn năng lượng hóa thạch- dầu mỏ, khí đốt và than đang cạn kiệt nhanh, nguồn năng lượng mới và tái tạo không kịp phát triển và có giá thành cao);
(ii) Nhu cầu năng lượng để phát triển nền kinh tế ngày càng tăng;
Và, (iii) hiệu suất sử dụng năng lượng ở Việt Nam rất thấp. Cả 3 vấn đề này đang làm cho nguy cơ mất an ninh về năng lượng của Việt Nam rất lớn.
Chúng ta đã từng là nước xuất khẩu năng lượng, nay đang chuyển sang phải nhập khẩu năng lượng với mức độ ngày một tăng. Điều này sẽ làm giảm đáng kể sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Còn dự báo về ngành than trong tương lai của Việt Nam có thể thông qua một kịch bản tóm tắt thế này:
(i) Nếu giá dầu mỏ duy trì ở mức trên 65 USD/thùng, sau 30-35 năm nữa ngành than sẽ đóng cửa 95-100% các mỏ ở vùng Quảng Ninh; Nếu giá dầu mỏ hạ xuống dưới 50 USD/thùng, thời gian đóng cửa mỏ sẽ sớm hơn 10-15 năm;
(ii) Vì không được cung cấp đủ than với giá hợp lý: Các dự án nhiệt điện chạy than BOT lớn ở vùng Mông Dương sẽ được bàn giao cho phía Việt Nam để bán sắt vụn; Các dự án nhiệt điện chạy than ở Phả Lại, Mạo Khê, Uông Bí, Đồng Rì, Hòn Gai phát được tối đa 50% công suất; Các dự án điện chạy than được xây dựng ở Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Nghi Sơn, Vũng Áng v.v. phải cải tạo lò hơi để dùng than nhập khẩu từ Trung Quốc, Indonesia, Úc, Nga, Mỹ, Nam Phi; Các dự án nhiệt điện Cao Ngạn và An Khánh không chạy hết công suất và sẽ phải đóng cửa sớm;Dự án nhiệt điện Na Dương sẽ phải dịch chuyển địa điểm (cách vị trí hiện nay 2000m) để mở rộng mỏ than Na Dương;
(iii) Bể than đồng bằng sông Hồng được khai thác ở qui mô thương mại bằng công nghệ khí hóa than ngầm (vào năm 2030) và bằng công nghệ vi sinh (vào năm 2050).
  • Thành Luân
***
TRẢ GIÁ XUẤT THÔ TÀI NGUYÊN
Bài của NGUYỄN KHANH trên Thanh Niên 10/12/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét