Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016

20161118. NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

ĐIỂM BÁO MẠNG
5 NGHỊCH LÝ CỦA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM
NGỘC QUANG/ GD 15-11-2016
TS.Nguyễn Văn Khải chỉ ra 5 nghịch lý của nền giáo dục cần được quan tâm, giải quyết triệt để. ảnh: Hoàng Lực/Giáo dục Việt Nam.
Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trên tinh thần góp ý xây dựng cho GS.TS.Phùng Xuân Nhạ - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, TS.Nguyễn Văn Khải nêu ra 5 nghịch lý của nền giáo dục.
Đó là những vấn đề lớn tồn tại nhiều năm qua, nhưng cần phải được xử lý dứt điểm càng sớm càng tốt để hoàn thành mục tiêu "đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục".
Chương trình – sách giáo khoa ở Việt Nam chỗ thừa chỗ thiếu. Rất nhiều kiến thức cần thiết thì học sinh không được tiếp cận hoặc có thì cũng không đủ, mà môn Ngoại ngữ là thí dụ điển hình.Thứ nhất: Chương trình chỗ thừa, chỗ thiếu, dạy thêm, học thêm tràn lan
Ở kỳ thi tốt nghiệp THPT 2016 vừa qua, trong tổng số hơn 400.000 thí sinh dự thi môn Ngoại ngữ thì có tới 300.000 thí sinh chỉ đạt điểm từ 3,8 trở xuống.
Trong khi đó, chúng ta lại luôn rơi vào cảnh quá tải, đó là do cách dạy, cách học. Khắp nơi bắt ép trẻ con phải học thêm. Đến trường chưa đủ thì đến cả nhà cô giáo để học thêm. Và tất nhiên trước khi học thêm thì phụ huynh phải ký vào giấy cam kết tự nguyện. Đó là "chiếc phao" cho nhà trường, cho giáo viên khi cơ quan chức năng, báo chí vào cuộc.
Ở bậc phổ thông, học sinh học hành rất vất vả. Vừa vào lớp 1 có khi đã bị ép học thêm, vác chiếc ba lô nặng đến lệch cả người. Nhiều gia đình biết điều đó không đúng nhưng họ sợ bị giáo viên thù vặt nên cũng không dám có ý kiến.Thứ hai: Càng học lên cao càng nhàn
Học sinh rất vất vả để vào được lớp 10, rồi vào đại học. Nhưng khi đã vào đại học thì đào tạo và học hành đều lớt phớt, nên cầm tấm bằng tốt nghiệp mà cứ như chưa được học.Mặc dù định hướng thì nói là mong muốn học sinh phát triển toàn diện, nhưng thời gian dành cho các môn học thuộc lòng quá nhiều; trong khi đó thời gian dành cho phát triển kỹ năng sống, văn nghệ, thể thao... lại vô cùng ít ỏi.
Rất nhiều trường đại học công lập là dạy thiên về lý thuyết, thiếu trầm trọng thực tiễn. Đó là sự khác biệt trong đào tạo của Việt Nam so với các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến.
Họ có định hướng hết sức rõ ràng, từng năm sinh viên phải hoàn thành được những nhiệm vụ gì, phải có đề tài hết sức cụ thể và giảng viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp sinh viên hoàn thành công trình.
Họ không giảng lý thuyết tràn lan như ở ta, mà lý thuyết phải do sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu trong quá trình tham gia vào các công trình khoa học, từ đó các em tạo nên những sản phẩm trí tuệ của riêng mình.
Lâu nay, chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề cử nhân thất nghiệp, thậm chí thạc sĩ cũng thất nghiệp. Con số này ngày càng tăng lên và trở thành gánh nặng cho xã hội.Thứ ba: Học giỏi, thi giỏi, nhưng kỹ năng làm việc kém
Vậy phải đặt ra câu hỏi: Tại sao học sinh của Việt Nam học thì giỏi, thậm chí khi ra nước ngoài học tập cũng được đánh giá là chịu khó, có thành tích học tập tốt. Ấy thế nhưng khi tốt nghiệp đi làm thì bộc lộ vô cùng yếu kém về các kỹ năng.

Cộng thêm với một nền hành chính bao cấp, không chịu đổi mới, có quá nhiều trường đại học hưởng ngân sách nhà nước và tuyển sinh, đào tạo ồ ạt, rồi cấp bằng cũng ồ ạt mà không phải chịu trách nhiệm gì khi sản phẩm đào tạo ra thất nghiệp.Phải chăng do lối đào tạo “kinh viện” từ thời phong kiến vẫn còn ảnh hưởng quá mạnh tới công tác đào tạo hiện nay?
Thi thoảng có một số cử nhân giỏi, hay cử nhân học nước ngoài về nước làm việc thì cũng không phát huy được, và nhiều trường hợp chọn giải pháp làm cho doanh nghiệp tư nhân của nước ngoài.
Tức là nhiều cơ quan nhà nước, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp không đánh giá cao sự sáng tạo của các bạn trẻ. Nhất là ở các cơ quan nhà nước, khi bạn sáng tạo, chủ động trong công việc nhưng trái với ý cấp trên thì cũng là một rào cản vô cùng lớn.
Một thí dụ rất điển hình nữa về sức sáng tạo là số lượng các sáng chế của Việt Nam cũng thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, chứ không dám so sánh ra châu Á hay toàn thế giới.
Vừa rồi, báo chí cũng bàn nhiều về chuyện đào tạo tiến sĩ, và nhiều người ngã ngửa khi mà trong 5 năm qua chỉ có 22 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín của quốc tế.
Mới đây thì GS.Hoàng Xuân Sính đã chia sẻ rằng "Học Tiến sĩ, Thạc sĩ ở Việt Nam là một hiện tượng kỳ dị", bởi vì nhiều người học để lấy bằng để đi vào các chức vụ chứ không thực sự muốn học để làm việc tốt hơn.
Cái đáng lo là người ta dùng những tấm “bằng thật - trình độ giả” chỉ để làm vật trang trí hoặc làm phương tiện “bám trụ” và thăng tiến trong những công việc không liên quan đến nghiên cứu khoa học, giáo dục đại học.
Và khi những con người ấy được giao nhiệm vụ, ngồi vào các chức vụ trong hệ thống cơ quan nhà nước thì theo tư duy logic – họ cũng không coi trọng bằng cấp thật khi tuyển dụng nhân sự, đánh giá năng lực của cán bộ dưới quyền.
Thứ tư: Dạy lý tưởng, đạo đức rất nhiều, nhưng hiệu quả thấp
Dạy kiến thức quan trọng, nhưng dạy con trẻ thành người tử tế còn quan trọng hơn.
Chúng ta biết rằng trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, ở đâu mà chẳng khó khăn, ăn không đủ no – mặc không đủ ấm, ấy thế trên khắp các miền quê là cảnh sống thanh bình. Con người thực sự yêu thương, chia sẻ với những quy tắc bất thành văn nhưng có tính giáo dục cao.
Nhưng có nhiều người được học hành tử tế, được đề bạt vào các chức vụ quan trọng lại gây ra những chuyện tày đình, làm thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước.Bây giờ, khi đời sống khấm khá hơn, học sinh có điều kiện học hành tử tế hơn thì lại nảy sinh quá nhiều tệ nạn. Tệ nạn thì ở xã hội nào cũng có, ta cũng thế mà tây cũng vậy.
Tiền ấy suy cho cùng cũng là mồ hôi nước mắt của dân cả đấy chứ. Vậy thì chúng ta nói sao với con trẻ đây khi mà người lớn đang ứng xử tồi?
Vì vậy, muốn dạy được con trẻ thành người tử tế thì trước hết người lớn phải tử tế; mà gần nhất với chúng chính là cha mẹ và thầy cô giáo phải làm gương.
Đối với nhà nước, dứt khoát phải xử lý nghiêm minh những cán bộ lợi dụng chức vụ để tạo vỏ bọc cho “lối sống hai mặt”.
Đây là một vấn đề vô cùng nan giải đối với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự thật hiển nhiên nhiều năm qua là Bộ Giáo dục quản lý hệ thống chung, quản lý tuyển sinh, nhưng kinh phí chi cho giáo dục là do Hội đồng nhân dân ở các địa phương quyết định.Thứ năm: Bộ Giáo dục quản lý hệ thống, quản lý tuyển sinh, nhưng tiền và người thì địa phương quản
Họ chi thế nào đó là vấn đề của riêng từng địa phương và nếu có báo cáo lên Bộ Giáo dục thì cũng chỉ là qua loa, đại khái.
Và, một vấn đề nan giải nữa là quản lý con người cũng do các địa phương tự quyết định. Đã có hàng loạt địa phương từ Hà Nội, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An... xảy ra chuyện vài chục cho tới vài trăm giáo viên ký hợp đồng, rồi đến một ngày bất ngờ chấm dứt hợp đồng, mất việc.
Tức là ông lãnh đạo cũ thì đồng ý ký hợp đồng cho những giáo viên đó; nhưng hết thời hạn và khi có lãnh đạo mới thì lại một loạt hợp đồng kiểu mới.
Không được quản người và cũng không được quản tiền, nhưng lại phải chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Đó chính là khó khăn rất lớn của Bộ Giáo dục.
Ngọc Quang

SUY NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN TRIỆT ĐỂ GIÁO DỤC
TRẦN ĐÌNH SỬ/ 18-11-2016
Giáo sư tiến sĩ Lý luận văn học, khoa Ngữ Văn, Đại học sư phạm Hà Nội
Đã đúng ba năm chẵn tính từ ngày có nghị quyết TW kì họp thứ 8 khoá 11 (4/11/2013) về giáo dục đào tạo. Đây có thể coi là nghị quyết nêu vấn đề sâu sắc nhất, “kiên quyết” nhất,  “bức thiết” nhất, “dứt khoát” nhất, “quyết liệt” nhất của Đảng cộng sản VN về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Tuy nhiên cũng giống như nhiều nghị quyết khác của Đảng đều nêu ra từ trên xuống, không dựa từ cở sở lên, thiếu điều kiện từ cơ sở để thực hiện, nói một cách khác là nghị quyết duy ý chí, cho nên thực hiện bao giờ cũng tốn kém, lúng túng và bất cập, mà kết quả không lấy gì làm hứa hẹn... Cần phải nói ngay rằng nghị quyết ngay từ khi ra đời đã không phải được dư luận đồng thuận. Sau khi nghị quyết ra đời cũng có nhiều ý kiến phản biện, trước hết là vấn đề triết lí giáo dục. GS Phạm Minh Hạc cho rằng triết lí giáo dục đã nằm trong đường lối của Đảng rồi, không cần thảo luận nữa, tuy nhiên nhiều trí thức cho rằng đào tạo con người phải đặt lên đầu mục tiêu con người nhân văn, dân tộc và tự do, trong khi đó mục tiêu của chúng ta nhấn mạnh ở việc đào tạo nhân lực. Có một số ý kiến cho rằng nếu mục tiêu đào tạo ra con người theo kiểu “con ngoan, trò giỏi”, sau thành công dân ngoan, làm việc giỏi theo kiểu vâng lời, bảo sao nghe vậy thì đó không thể là người công dân của một nước phát triển. Cho đến nay vấn đề triết lí giáo dục vẫn chưa ngả ngũ. Trên thực tế, khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” vẫn còn được thờ trong các nhà trường là một điều phi lí, trong khi khẩu hiệu của Unesco học để biết, học để sáng tạo, học để sống và để chung sống vẫn chưa thật sự đi vào nhà trường. Điều này cho thấy tư tưởng bảo thủ trong giáo dục Việt Nam hiện rất nặng nề, nó cản trở giáo dục Việt Nam thay đổi.
Vấn đề thứ hai tôi muốn nêu lên là để thực hiện một nghị quyết lớn như thế chúng ta hầu như thiêú việc tổ chức nghiên cứu khoa học giáo dục và cập nhật các kinh nghiệm giáo dục tiên tiến trên thế giới. Các việc làm của Bộ giáo dục như dự án về ngoại ngữ tiếng Anh, dự án về trường học mới VNEN đều là dự án khép kín, xã hội nói chung là không biết, không ai được biết và tham gia ý kiến. Chỉ để sau khi đã tiêu hết tiền của dự án, sau khi các địa phương tỏ ra bất mản với dự án ấy đề nghị dừng thì xã hội mới biết. Ở đây phải nói rằng cách làm khép kín là rất cũ. Chúng tôi đã nêu kinh nghiệm của việc đổi mới giáo dục lần trước là do thiếu sự đồng thuận của xã hội, bởi vì thiếu công bố thông tin. Lần này lại lặp lại. Tôi nghe nói các vị chuyên gia, lãnh đạo giáo dục sang Columbia hình như vẫn không tiếp cận được chương trình và SGK đem về dịch tham khảo, mà họ chỉ tiếp cận ý tưởng rồi về triển khai riêng có tính chất nhóm. Cách triển khai đã có tiền của Ngân hàng thế giới cho nên họ không cần tham gia của các chuyên gia giáo dục trong nước. Vì quá tin vào một phương án VNEN, cho nên trong thời gian ấy không có phương án khác được thực hiện. Nếu có bây giờ cúng ta đã có các kết quả bổ sung cho nhau. Đến bây giờ thời gian không còn nữa. Bây giờ kêu gọi chắt lọc cái tốt của VNEN để kết hợp với cái khác thì lấy đâu ra? VNEN là nhà trường phát huy năng lực tự quản và năng lực tự học của HS đối với các lớp học ghép các lớp khác nhau, thích hợp với vùng núi, HS ít. Áp dụng cho lớp HS đông như VN là không ổn, phần lớn HS thực hiện theo lối diễn chứ không thực có tự học và tự quản. Trò diễn này chúng tôi đã thấy nhiều rồi. Vấn đề là phải làm sao cho HS VN biết tự học. Đây vẫn là vấn đề mà nhiều nhà giáo VN từ thời các thứ trưởng đáng kính như  các GS Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ đã nêu mà chưa có kết luận khoa học và thực tiễn. Thêm nữa, thiếu nhân tố khêu gợi và gây cảm hững của thầy thì quá trình học tập của HS khó mà khởi động, sẽ không được thực hiện đầy đủ.
Tôi cho rằng để thực hiện một nghị quyết lớn như nghị quyết 29 thì cần triển khai một lúc nhiều đề tài về khoa học giáo dục, từ mục tiêu, phương pháp dạy học, cách thi, tổ chức thi, cách ra đề, cách soạn chương trình mới, phương pháp ra đề mở, cách tích hợp các môn học tự nhiên và xã hội, công bố các dự kiến để lấy dư luận trong xã hội. Cách làm việc của Bộ là có một nhóm nhỏ khép kín, danh sách ấy do ai phụ trách, gồm những chuyên gia nào cũng không thấy công bố. Vì thế cho nên khi đưa ra, về môn sử đã bị dư luận không đồng tình. Và vì lí do đó mà cho đến nay chương trình tổng thể vẫn chưa thông qua được. Mà chương trình này chưa thông qua thì chương trình bộ môn cũng chưa thể biên soạn.
Các trường đại học cũng rất quan tâm, nhưng họ không được giao việc, hoặc chỉ giao các việc phụ như đề xuất form của SGK, mà không đề cập nội dung. Tôi cho rằng một núi công việc còn nguyên chưa đụng đến, ví như tích hợp các môn xã hội, các môn tự nhiên, việc tích hợp đó có thể có những variant nào, variant nào có ưu điểm, hình như chưa ai biết. Trong bộ môn ngữ văn trước đây chương trình phân bố theo lịch sử văn học. Khoa tôi làm chương trình, muốn thay mô hình đó nhưng bị quan điểm bảo thủ phản đối. Nay dạy theo năng lực nghe nói đọc viết, vậy chương trình các lớp sẽ phân hoá như thế nào, chưa thấy ai nghiên cứu và đề xuất, mà thiếu nguyên tắc ấy thì khó mà xây dựng chương trình ngữ văn từ 6 – 9 và từ 10 – 12. Một việc rất lớn như vậy mà chúng ta thiếu chiến lược động viên trí tuệ xã hội vào công việc. Phải chăng là vì tiền? Vì sợ phải chia chác cho nên phải thu thu giấu giấu trong nhóm nhỏ, mà cách làm như vậy rõ ràng đã không thành công. Nếu bộ giáo dục còn theo nguyên tắc lợi ích nhóm (nguyên tắc này chi phối từ trung ương đến địa phương, thì nó chi phối trong Bộ cũng là chuyện bình thường thôi), thì việc đổi mới giáo dục không thể thành công. Khi nói đến điều này tôi đã xác định là mình đã cao tuổi rồi, không có điều kiện tham gia nữa. Nếu có thì chỉ một vài việc không quá nặng nhọc. Cho nên không phải vì lợi ích mà nếu vấn đề này. Cứ nhìn cung cách làm dự án này tôi nghĩ rằng kết quả của đợt đổi mới giáo dục này sẽ khó đạt kết quả mong muốn.
Bây giờ thì thời gian đã quá muộn. Chỉ còn một năm 2017, mà năm 2018 đã phải có sách làm theo cuốn chiếu để đổi mới giáo dục, tôi cho là vội vã và sẽ thất bại. Sách mới chưa có điều kiện thẩm định, thí điểm, rút kinh nghiệm, giáo viên chưa được bồi dưỡng, bồi dưỡng như cách chúng ta đã làm trước đây đã không có kết quả thì tôi cho rằng lần này nếu không thay đổi thì vẫn không kết quả. Chính vì vậy tôi đề nghị lùi thời gian thực hiện chương trình mới lại. Không theo kế hoạch 2018, vì đề ra chúng ta sẽ phải chạy cho kịp, và lúc đó sẽ bộc lộ thêm nhiều khiếm khuyết nữa.
Về dự án dạy tiếng Anh, là lĩnh vực ngoài chuyên môn của tôi xin không góp ý. Mới đây bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ lại công bố sẽ thực hiện dự án dạy tiếng Trung như là ngoại ngữ thứ nhất, còn tiếng Anh được coi là ngôn ngữ thứ hai. Tôi xin nói ngay cách hiểu ngôn ngữ thứ nhất và thứ hai như thế là trái với cách dùng thông thường được giới ngữ học chấp nhận. Đối với nước ta, tiếng Việt là ngôn ngữ duy nhất, tiếng Anh là ngoại ngữ thứ nhất, do đó không có chuyện tiếng Trung là ngoại ngữ thứ nhất được. Một nhà lãnh đạo mà dùng khái niệm sai lệch như thế là không thể chấp nhận, gây hiểu lầm trong xã hội.
Bây giờ xin góp ý về chủ trương thi trắc nghiệm.  Quyết định thi trắc nghiệm trong kỳ thi quốc gia năm 2017 là một quyết định hơi vội, khiến học sinh và giáo viên bị động, chuẩn bị không kịp. Nếu cách thi sẽ chỉ đạo cách học theo nguyên tắc thi thế nào học thế ấy thì học sinh sẽ học theo lối trắc nghiệm. Không học trình bày mạch lạc theo logic. Thêm nữa, có nhiều phương án trắc nghiệm. Chúng ta đã nghiên cứu hết các phương án chưa mà đã quy định hình thức trắc nghiệm. Theo tôi biết, về môn ngữ văn lối trắc nghiệm vẫn sử dụng lâu nay tỏ ra rất sơ lược và ấu trĩ. Chưa đi vào cơ chế đọc hiểu văn học của hoạt động đọc. Nếu không nghiên cứu mà đến khi phải sử dụng trắc nghiệm ở môn ngữ văn thì HS và GV chắc chăn sẽ lúng túng. Trắc nghiệm môn xã hội chưa tích hợp hoặc tích hợp sẽ là vấn đề mới, tôi chưa biết bộ đã tổ chức nghiên cứu như thế nào mà quyết định ra đề trắc nghiệm. Đề tự luận môn ngữ văn không có gì mới, HS có thể là được, nhưng các môn xã hội khác là cả một vấn đề đáng lo. Bây giờ thì Bộ đã quyết định rồi, các trường đều phải thực hiện. Nhưng tôi vẫn lo là chưa chuẩn bị chu đáo sẽ nảy sinh sự cố không mong muốn.
Trên đây là một số ý kiến nêu ra để trao đổi, mong là sẽ có ích cho việc thực hiện nghị quyết 29TW về giáo dục đào tạo. Nếu có gì chưa ổn xin được lượng thứ.
9 tháng 11 năm 2016
T.Đ.S.
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM QUA PHÂN TÍCH CỦA PTT VŨ ĐỨC ĐAM
THÙY LINH/ GD 18-11-2016
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu bổ sung cho phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ chiều 16/11 (Ảnh: Phạm Thịnh)
Phát biểu bổ sung sau phần giải trình của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tại phiên chất vấn chiều 16/11, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã giải đáp băn khoăn về triết lý giáo dục của Việt Nam sau khi một đại biểu có hỏi “Phải chăng chúng ta không có triết lý giáo dục?”

Theo Phó Thủ tướng: “Nếu chúng ta lên mạng Internet gõ cụm từ "triết lý giáo dục Việt Nam" và trưa nay tôi đã gõ thì thấy ra tới 1,3 triệu kết quả tìm kiếm”.

"Việt Nam có triết lý giáo dục chứ không phải không có, có điều Việt Nam không có câu trích dẫn để thành kinh điển", Phó Thủ tướng cho biết.
Đó là xây dựng con người Việt Nam toàn diện, đức trí, thể mỹ, có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước và có trách nhiệm quốc tế”.Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Triết lý giáo dục của Việt Nam trước hết là triết lý xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Theo Phó thủ tướng, ngay trong đề án phê duyệt chương trình sách giáo khoa mới, thì mục tiêu cũng đã nói tương đối đầy đủ các yếu tố cấu thành của triết lý giáo dục Việt Nam. 

Đó là nhằm vào mục tiêu như UNESCO đã đề ra, đó là học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, tự kiếm sống.
Thực tế tự chủ là một yêu cầu của các trường đại học lớn trên thế giới, điển hình như Đức và Pháp, các trường tự chủ nhưng nhà nước vẫn lo 80-90% ngân sách. Đó là để phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức trí, văn - thể - mỹ; đó là làm sao để khuyến khích sáng tạo, phát huy tài năng của học sinh và giáo viên.

Tôi trao đổi với nhân dân, từ những người rất bình thường họ cũng đồng ý.

Nôm na rằng, từ ngày xưa, nền giáo dục của chúng ta đã hướng đến con người - nhân văn, khai mở trí tuệ nhưng không mất gốc tức là có lòng tự tôn dân tộc, yêu nước nhưng không phải dân tộc hẹp hòi mà gắn với ý thức quốc tế, mà bây giờ là ý thức “công dân toàn cầu”.

“Có nghĩa chúng ta có triết lý giáo dục, nhưng tất cả vấn đề nêu ra phần nhiều nằm ở khâu thực hiện chưa được tốt
”, Phó Thủ tướng khẳng định.


Tự chủ tài chính không có nghĩa là cắt toàn bộ ngân sách

Nói về vấn đề tự chủ đại học, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, Bộ và Chính phủ đã cố gắng đẩy mạnh tự chủ đại học, cả về chuyên môn, tài chính, tổ chức nhân sự…

Thứ nhất, tự chủ về tài chính không có nghĩa là nhà nước sẽ cắt toàn bộ ngân sách nhà nước.
Vấn đề tự chủ ở đây thực chất là bớt can thiệp hành chính không cần thiết vào các công việc của nhà trường trong môi trường giáo dục khoa học; yêu cầu đi kèm với đó là chính sách để đảm bảo sự tiếp cận với giáo dục trình độ cao của người nghèo thông qua nhiều chính sách, trong đó có chính sách học bổng.

Thứ hai, tất cả các chỉ tiêu của nhà trường từ tuyển sinh đầu vào, đầu ra, danh sách các cựu sinh viên làm việc ở đâu… tới đây đều phải công khai minh bạch.
Các quy chế phải rõ ràng, cụ thể, bàn bạc dân chủ để nhà trường, phụ huynh, học sinh và toàn xã hội giám sát. Năm vừa qua, đã có 15 trường thực hiện tự chủ đại học, cho kết quả rất tốt.
Thùy Linh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét