Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

20150812. BÀN VỀ NGỤY BIỆN

ĐIỂM BÁO MẠNG
CẦN NGHIÊN CỨU VỀ NGỤY BIỆN ĐỂ CHỐNG NGỤY BIỆN
NGÔ THẾ BÍNH
  Ngụy biện (sophisticate ) là cách trình bày những phán đoán, nhận xét, chứng minh, kết luận không tuân theo những quy tắc logic dẫn đến làm sai lệch bản chất thật của hiện tượng sự vật có liên quan.
  Ngụy biện là thuật ngữ của logic học, mà sự ra đời gắn liền với tên tuổi của nhà tư tưởng và triết học cổ đại  Aristotle (384-322 TCN). Ông là người đầu tiên phát triển các quy tắc và hệ thống suy luận, được đặt tên là “logic” và chỉ ra nhiều lỗi lầm trái với quy tắc đó, nay gọi là “ngụy biện”.
   Kẻ ngụy biện (Sophist ) có thể là bất cứ ai, chừng nào có sử dụng ngôn ngữ (bao gồm cả  chữ viết, ký tự khoa học, thuật toán) như là công cụ để truyền bá tư tưởng, nhận thức, tranh luận trong khoa học, viết và bảo vệ luận văn luận án, phê bình - tự phê bình và cả trong sinh hoạt đời thường.
   Căn cứ vào mục đích, kẻ ngụy biện (KNB) được chia làm 2 loại: KNB cố ý và KNB không cố ý. KNB cố ý là kẻ biết lỗi logic nhưng cố tình sử dụng nhằm đạt được mục đích thuyết phục đối tượng tiếp nhận, dù có thể là xấu xa như lừa dối, che dấu sự thật, đổi sai thành đúng,  đề cao hạ thấp quá mức ai đó, phá bĩnh tranh luận nghiêm túc để đi đến chân lý v.v…KNB không cố ý là kẻ không biết lỗi logic nhưng ngụy biện, đơn thuần là không có kiến thức về logic và lĩnh vực có liên quan. KNB không cố ý còn được GS Nguyễn Đình Cồng gọi là kẻ “ngộ biện”.[10 ].  Tuy không cố ý, nhưng KNB không cố ý cũng có thể gây tác dụng xấu như KNB cố ý. KNB không cố ý thường xuất hiện trong lớp người ít học; lười biếng trong suy nghĩ (kể cả người tự cho là trí thức), thích nói theo sao chép; cả tin vào chủ thuyết, giáo lý,  những nhân vật nổi tiếng, có quyền uy v.v…
   Nhìn chung các “tác phẩm” ngụy biện là có tác dụng tiêu cực, nhưng trong một số trường hợp  “tác phẩm”ngụy biện lại tạo ra tiếng cười sảng khoái vì nó mắc sai lầm quá ngớ ngẩn, ví dụ: “ Bác Hồ nói thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua, anh không đăng ký thi đua là không yêu nước”. Những thuật toán ngụy biện, chứng minh những “sai” hiển nhiên thành “đúng”, ví dụ 2=1, 4=5, 5=7, góc tù bằng góc vuông v.v…lại có ích cho ai say mê toán học tìm ra những lỗ hổng kiến thức bản thân để làm toán tốt hơn.
   Để chống ngụy biện trước hết cần phải có kiến thức về logic, nhưng không phải ai cũng nắm vững. Để thuận lợi cho chống ngụy biện các nhà logic học sau Aristotle (tiêu biêu như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer) đã để công sưu tầm, hệ thống hóa các lỗi ngụy biện thành các nhóm loại. Việt Nam cũng có không ít người nghiên cứu quan tâm tới chủ đề ngụy biện và vận dụng nó trong công tác phản biện xã hội, phản biện khoa học.  GS Nguyễn Văn Tuấn đã hệ thống lỗi ngụy biện thành 7 nhóm bao gồm 45 kiểu mà người Việt hay mắc phải, cùng những phân tích xác đáng về nguyên nhân.[2]. Các tài liệu tham khảo về chủ đề ngụy biện có thể  tìm theo các links dưới bài.
   Tôi cho rằng nghiên cứu ngụy biện là cần thiết cho tất cả những ai mong muốn tìm kiếm sự thật và chân lý trong mọi lĩnh vực của đời sống.ngày nay.
Tài liệu tham khảo
1-ngụy biện – Wiktionary tiếng Việt
2. Ngụy biện và cách đối phó - Facebook- Nguyễn Văn Tuấn
3. Các lỗi ngụy biện thường gặp trong tranh luận – VLOS
4. Phê pháp phép ngụy biện/Ngụy biện là gì? – VLOS
5.  Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện – VLOS
6. Giới thiệu về Ngụy Biện
7.  Logic Và Ngụy biện - Thanh Niên Xa Mẹ
8Lựa chọn của nhân dân(BVN 12/8/2015)- Nguyễn Văn Tuấn
9.Tây Mĩ nó cũng thế(tuan's blog 12/8/2015)- GS Nguyễn Văn Tuấn
10. CHỐNG NGỤY BIỆN VÀ NHẦM LẪN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN (BVN 8/8/2015)- Nguyễn Đình Cống
THÓI NGỤY BIỆN Ở NGƯỜI VIỆT
Bài của GS NGUYỄN VĂN TUẤN/ tuan's blog 5/2010
Tranh luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu được trong một xã hội văn minh. Ở nhiều nước, lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của một xã hội lành mạnh. Ở các nước phương Tây, hầu như ngày nào báo chí cũng có những bài của những cây bỉnh bút tranh luận về một vấn đề nóng nào đó. Trên tivi cũng có những cuộc tranh luận trực tiếp giữa hai hay nhiều người về những chủ đề từ “đại sự” đến những vấn đề tưởng như nhỏ nhất. Trong các hội nghị khoa học, trước một vấn đề còn trong vòng nghi vấn, người ta cũng có những chuyên gia tranh luận dưới dạng những bài giảng khoa học.
Nhưng thế nào là tranh luận nghiêm túc? Nói một cách ngắn gọn, cũng như trong một cuộc đấu võ, một tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui tắc, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi. Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.
Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập trung vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những quan điểm không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của chính mình. Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân thân của người tham gia tranh luận.
Đó là những đòi hỏi khó khăn cho một cuộc tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa, và không phải ai cũng có khả năng đạt được những yêu cầu này, nhất là đối với người Việt vốn chưa quen với văn hóa tranh luận. Do đó, không mấy ai ngạc nhiên khi thấy có quá nhiều trường hợp chất lượng của những cuộc tranh luận giữa người Việt rất thấp. Chỉ cần xem qua những cái-gọi-là “tranh luận” trên các diễn đàn báo chí (và nhất là các “chat room” hay blog), người ta có thể thấy đó không phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng độ giũa các cá nhân tham gia tranh luận, những cuộc chửi bới, chẳng có lí luận của người tranh luận. Ngoài ra, đối với một số người tham gia bình luận về một câu chuyện nào đó là một cuộc dàn xếp, một sự đóng kịch, nhằm tung hỏa mù hoặc lên lớp, hoặc a dua theo đám đông. Đó là những kịch bản ngớ ngẩn đến tội nghiệp. Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện chẳng nói được gì cho đầy đủ, mà cũng chẳng phân tích một vấn đề gì cho đến nơi đến chốn.
Thật vậy, rất nhiều trường hợp, những cuộc tranh luận giữa người Việt chỉ là những cuộc chửi lộn, mà trong đó người ta tha hồ vung vít, ném liệng vốn liếng chữ nghĩa qua lại một cách hỗn độn, mà chẳng cần để ý đến logic hay các nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất dễ dàng nhận thấy rằng trong các cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào mục tiêu là nhân thân, cá nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm và lí lẽ của người đó. Thay vì tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho đối phương một nhãn hiệu, và từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ. Trong hầu như những tranh luận, nhiều người cố tìm hay tạo cho mình một vị trí đạo cao đức trọng cả bằng cách gắn cho đối phương những danh từ và tính từ mang tính miệt thị, một thủ đoạn có khả năng làm cho một cuộc tranh luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức óc thay vì là một trao đổi khoa học.
Thực ra, đó là một hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng nghiêm trọng trong tranh luận. Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong trường hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ. Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.
Điều đáng chú ý là những lỗi lầm về ngụy biện ở người Việt lại hay thấy trong giới có học. Chỉ cần điểm qua báo chí, websites, blog, v.v... chúng ta dễ dàng thấy rất nhiều cái-gọi-là "tranh luận" thật ra chỉ là ngụy biện. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết đó là những ngụy biện, mà thậm chí còn hết lời khen ngợi kẻ ngụy biện là ... uyên bác! Điều này cho thấy trong những người Việt học cũng có người rất lười biếng suy nghĩ và chẳng phân biệt được thật và giả, không có khả năng nhận dạng được ngụy biện. Phải ghi nhận một điều là internet đã rất tuyệt vời, vì qua những "tranh luận" và chửi bới của những kẻ tham gia trên internet, chúng ta biết được bộ mặt xấu xí đằng sau những người mang nhãn mác "trí thức" hay "có học". Những kẻ này tương đối nguy hiểm, vì với cái nhãn mác "có học" đó, họ có cơ hội làm lũng đoạn xã hội và trở thành những con vi khuẩn làm nhiễm trùng nền học thuật nước nhà. Do đó, cần phải giúp họ nhận ra đâu là ngụy biện và đâu là logic.
Thực ra, nhận dạng ngụy biện không phải là một việc làm khó khăn. Nói chung chỉ với một lương năng bình dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang tính ngụy biện với một phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy biện mà vẻ bề ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi logic. Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lý lẽ. Do đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận dạng những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng sai. Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui nạp, lý luận nhập nhằng, phi logic, và sai phạm trù. Trong khuôn khổ giới hạn, người viết bài này không có tham vọng trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì việc này đã được hệ thống hóa trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt kê ra những loại ngụy biện thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể phân biệt giữa chân và giả.
Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như sau:
  • Đánh tráo chủ đề
  • Lợi dụng cảm tính và đám đông
  • Làm lạc hướng vấn đề
  • Qui nạp sai
  • Nhập nhằng đánh lận con đen
  • Phi logic
  • Các nhầm lẫn khác
Nhóm 1. Đánh tráo ch đ
  1. Công kích cá nhân(ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.”
  1. Li dng quyn lc (ad verecundiam).Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.
  2. Li dng nc danh.Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho biết chính anh từng hoạt động cho địch.”
  3. Li dng tác phong.Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
  4. Lun điu cá trích.Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”
  5. Lun điu ngược ngo.Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!
Nhóm 2. Li dng cm tính và đám đông
  1. Da vào bo lc(ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”
  2. Li dng lòng thương hi(ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay để bàn rồi đấy.”
  3. Li dng hu qu(ad consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!)
  4. Lm dng ch nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có lương tri.
  5. Da vào qun chúng(ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”
Nhóm 3. Làm lc hướng vn đ
  1. Lí l ch đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”
  2. Lí l ng nghch(ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân chủ”.
  3. Lí lun lươn trch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay bao giờ.”
  4. Mnh đ ri rc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”
  5. Đơn gin hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
Nhóm 4. Qui np sai
  1. Khái quát hóa vi vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”
  2. Khái quát hóa không đúng ch. Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”
  3. Kéo dài tính tương đng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”
  4. Lí l quanh co.Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau.
  5. Đo ngược điu kin.Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”
  6. Li dng ri ro.Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”
  7. Li dng trường hp cá bit.Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.”
  8. Kết lun lc đ.Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.”
  9. Ngy bin rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”
Nhóm 5. Nguyên nhân gi to
  1. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”
  2. nh hưởng liên đi. Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)
  3. nh hưởng không đáng k. Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các hãng xưởng.
  4. nh hưởng ngược chiu. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.
  5. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.
  6. Nguyên nhân sai(Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
Nhóm 6. Phi logic (non sequitur) và nhn ln trong tam đon lun
  1. Phi logic.Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”
  2. Loi b tin đ.Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi không ở New South Wales”.
  3. Nhét ch vào ming người khác. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng ta?”
    35. Ngy bin t ng.(Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.
  4. Đt đon. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
Nhóm 7. Các nhm ln khác
  1. Dn chng bng giai thoi.Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.
  2. Li dng c tích.Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”39. Da vào cái mi (ad novitatem). Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm ngoái.”
  3. Lí l ca đng tin. Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.
  4. Da vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”
  5. Đip khúc(ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao, cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.
  6. Lm dng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”
Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự nhiên.”
  1. Ngy bin “anh cũng vy”. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
  2. Lm dng thng kê. Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác.
Nhn xét
Có thể nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm chung là (a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để đi đến một kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kì nổi tiếng về ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kì kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.
Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều quái gở về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin sai lạc, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho người ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.
Để không trở thành những nô lệ, cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên lạc, như là một niềm tin cho hành động. Cần phải dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần phải thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.
Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.
Theo dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân (thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có khi hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất hiện quá nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập khuôn trở thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này là những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi chính thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kì quặc kiểu “anh/chị không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,” “anh chê ‘quốc gia’, vậy anh phải là cộng sản,” “anh khen Việt Nam, vậy anh là cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kỳ 75’, vậy anh là cộng sản,” hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là cộng sản đi tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó là một lối phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một cách cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí tuệ, hay lười biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay phát triển vấn đề xa hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia có/không này không thể đem đến một đáp số cho một vấn đề nào cả.
Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.

CHỐNG NGỤY BIỆN VÀ NHẦM LẪN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN
Bài của NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 8/8/2015
 
1-Mở đầu
Trong thời gian dài tôi và nhiều người, trong đó có cả những trí thức lớn, đã bị nhầm lẫn, cho rằng chủ nghĩa Mác Lênin (CNML) là hoàn toàn đúng, là trí tuệ tuyệt vời của nhân loại. Dần dần một số trong những người ấy tỉnh ngộ ra, thấy được cái sai và tác hại của nó, nhưng cũng còn rất nhiều người chưa thấy được. Nguyên nhân của hiện tượng nhầm lẫn là do người tuyên truyền CNML đã dùng lối ngụy biện ở trình độ cao, còn người tiếp nhận, đã bị tình cảm chi phối hoặc do vô minh mà tin một cách ngây thơ hoặc mù quáng. Viết bài này tôi hy vọng phân tích được sự ngụy biện và nhầm lẫn đó để tự giáo dục mình và thức tỉnh các bạn bè còn mê lầm, đặc biệt là để các bạn trẻ đừng vì vô minh đi vào con đường mà một số ông cha đã chọn nhầm, một con đường đầy lầm lạc mà cứ tưởng là tươi sáng. Ngụy biện và nhầm lẫn không chỉ xảy ra với nhận thức CNML mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống, vì vậy biết cách phát hiện ra ngụy biện và chống lại nó cũng là điều có ích cho mọi người.
2-Đại cương về ngụy biện
Với những người đã biết LÔGIC HÌNH THỨC thì những điều được trình bày dưới đây là quá thô thiển, tuy vậy tôi chọn cách đó là để giúp các bạn chưa học Lôgic có thể hiểu được (xin các bạn đã biết về lôgic hình thức bỏ qua mục này).
Ngụy biện là cách diễn đạt từ suy luận sai lầm, thường xảy ra trong thảo luận, tranh luận, tuyên truyền, thuyết trình và cả trong khoa học. Một cách dân dã ngụy biện là kiểu lập luận dối trá để biến sai thành đúng, không thành có, xấu thành tốt, cái này thành cái kia, v.v. hoặc ngược lại. Ngụy biện là dối trá, là lừa bịp ở cấp cao vì nó được thông qua suy luận và chứng minh, có hình thức bên ngoài khá chặt chẽ. Trong lịch sử nhân loại đã có những ngụy biện lôi cuốn được, đánh lừa được hàng chục triệu, hàng trăm triệu người. Trong sách “Phương pháp biện luận” tác giả Triệu Truyền Đống (nhà xuất bản Giáo dục, 1999) vạch ra những thủ đoạn khác nhau của người ngụy biện. GS Nguyễn Văn Tuấn, có bài viết “Thói ngụy biện ở người Việt” (xem ở đây) kể ra 45 kiểu ngụy biện, qui về trong 7 nhóm (đánh tráo chủ đề; lợi dụng cảm tính; làm lạc hướng; qui nạp sai; nhập nhằng đánh lận; phi lôgic; các nhầm lẫn khác). GS Tuấn cho rằng ở Việt Nam thói ngụy biện thường xảy ra trong giới có học.
Ngụy biện có thể do cố ý hoặc vô tình. Kẻ cố ý tự biết mình ngụy biện, với mục đích đánh lừa người khác để mưu cầu một mục đích nào đó. Người vô tình phạm phải ngụy biện có thể do vô minh (trình độ kém) hoặc cũng có thể do lòng tốt mù quáng, Phạm Đình Nghiệm (Nhập môn lôgic học, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2005) gọi trường hợp vô tình này là “ngộ biện”.
Ngụy biện sinh ra từ suy luận sai. Suy luận phải dựa vào phán đoán. Phán đoán do người ta đưa ra bởi nhận thức từ thực tế, thí dụ: trời nhiều mây, gió lạnh thổi, bông hoa màu đỏ, đời sống nông dân được cải thiện, v.v. Phán đoán có thể đúng hoặc sai. Suy luận là từ một hoặc một số phán đoán suy ra một kết luận nào đó. Thí dụ: học sinh A (lớp 12) thông minh và chăm chỉ nên chắc sẽ thi đỗ tốt nghiêp THPT. Quá trình suy luận cũng được xem là quá trình chứng minh để tìm kết luận. Thí dụ: Mọi học sinh lớp 12 thông minh và chăm chỉ đều thi đỗ tốt nghiệp. A là một học sinh như vậy. Thế thì A sẽ thi đỗ tốt nghiệp. Một kết luận do suy luận đem lại (gọi là luận đề) chỉ được công nhận khi thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện: a- Về luận cứ: mọi phán đoán được dựa vào để suy luận là đúng và đầy đủ. b- Về luận chứng: sự suy luận phải phù hợp với các qui tắc của lôgic (không phạm sai lầm về lôgic).
Rất hay gặp ngụy biện do dùng phán đoán không đúng hoặc thiếu. Xin nhớ câu ngạn ngữ nổi tiếng: “Một phần cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một phần của sự thật có khi là dối trá”. Kẻ cố tình ngụy biện chủ động dùng các phán đoán tuy là sự thật nhưng chỉ mới là một phần, mà là phần phụ, còn phần chính được cố tình che giấu, và như vậy kết luận là giả dối. Thí dụ SV B vì ngủ quên nên đi học muộn 30 phút, dọc đường có ghé vào hiệu chữa xe để bơm lốp mất 5 phút, trả lời về nguyên nhân đi học muộn B đã ngụy biện là trên đường xe hỏng phải khắc phục (việc ngủ quên bị che giấu). Người ngộ biện tưởng nhầm các phán đoán được dùng để chứng minh đã đúng và đủ, họ vì vô minh mà tin rằng kết luận là chính xác (thực ra kết luận, còn gọi là luận đề, là giả dối, không được công nhận).
Ngụy biện do sai lầm trong luận chứng diễn ra dưới nhiều dạng, người trình độ yếu mới nghe qua thì thấy đúng nhưng suy nghĩ kỹ mới thấy không hợp lý, không chặt chẽ (không lôgic).
Thí dụ: Dựa vào phán đoán chủ nghĩa xã hội (CNXH) là vô cùng tốt đẹp, suy luận thành: yêu nước thì phải yêu CNXH, hoặc không yêu CNXH không phải là người yêu nước. Suy luận trên là ngụy biện, phạm sai lầm cả trong luận cứ và luận chứng. Luận cứ ở đây là phán đoán CNXH vô cùng tốt đẹp là không chắc chắn, chưa có đủ độ tin cậy. Luận chứng là gắn yêu nước và yêu CNXH với nhau không dựa trên một qui luật, một nguyên lý nào cả, chỉ do áp đặt hoặc cảm tính. Kết luận yêu nước phải yêu CNXH là một kết luận không thể chấp nhận (hàng tỷ người trên thế giới không yêu CNXH, không thể bảo họ không yêu nước). Thế mà hàng chục triệu dân Việt Nam chấp nhận sự ngụy biện trên như một chân lý. Họ vui vẻ chấp nhận vì điều đó được cán bộ của Đảng nói ra, họ đã có sẵn niềm tin vào Đảng, hơn nữa trình độ của họ còn thấp, chưa đủ kiến thức và phương pháp khoa học để phát hiện ra sự ngụy biện. Những người thấy là sai mà không dám nói công khai, không dám phản biện vì sợ mang tội phản động, tội chống Đảng.
Để phát hiện ra ngụy biện không dễ, đặc biệt là khi người ngụy biện có trình độ, có uy tín hoặc chức vụ cao, lại có tài hùng biện hoặc to mồm, khi kết luận của ngụy biện phù hợp với tình cảm và lòng mong muốn của người tiếp nhận. Gặp phải ngụy biện mà không phát hiện ra, nghe theo, tin theo, thế là đã nhầm lẫn, đã bị lừa. Người ta bị lừa thường là do có lòng ham muốn (lòng tham), do thiếu hiểu biết hoặc cũng có thể do lòng tốt mù quáng.
Để không bị mắc lừa do ngụy biện cần có trình độ tương đối cao về suy luận, về kiến thức và có thái độ khoa học (biết suy nghĩ, biết nghi ngờ, dám lật ngược vấn đề…), còn để vạch ra sự ngụy biện, đặc biệt là ngụy biện của người có thế lực, thì còn cần thêm lòng dũng cảm. Khi trình độ của ta quá thấp so với người ngụy biện thì rất khó để phát hiện ra những thủ đoạn của họ, nghe họ nói cái gì cũng thấy đúng. Cũng giống như khi xem ảo thuật, nếu ở vị trí thấp hơn hoặc ngang với người biểu diễn thì không thể nào phát hiện ra kỹ xảo của họ, muốn biết mắt ta đã bị đánh lừa như thế nào thì phải ở vị trí từ trên cao nhìn xuống. Tôi đã vài lần thử trình bày một vài vấn đề trước học viên cao học, kể cả giảng viên đại học và yêu cầu tìm xem trong luận cứ, luận chứng hoặc luận đề có chỗ nào sai không. Thực ra đó là những ngụy biện nhưng tôi không nói trước. Rất ít người tìm được chỗ sai. Một vài người tìm được một phần nói thêm rằng, nếu tôi không yêu cầu phát hiện chỗ sai thì chưa chắc họ tìm ra được. Họ không phát hiện được chỗ tôi đã ngụy biện vì trình độ của tôi cao hơn họ và họ vốn tin tôi là thầy, mà đã là thầy thì thường giảng điều đúng.
3-Vài ngụy biện cơ bản trong chủ nghĩa Mác Lênin
CNML đã tồn tại hàng trăm năm nay, chứa nhiều độc hại, mang đến cho nhân loại lợi ít hại nhiều. Thế nhưng nó đã làm mê say hàng trăm triệu người. Đó là nhờ vào sự ngụy biện của một số người có trình độ cao về triết học, có uy tín cao về học thuật, và khi Đảng Cộng sản đã nắm chính quyền thì họ là người có quyền lực (miệng nhà quan có gang có thép).
Trong bài “Một số nhầm lẫn của Mác” (xem ở đây) tôi cho rằng ông đã có những phán đoán hoặc kết luận chỉ mới là một phần của sự thật, mà dựa vào nó để suy luận thì dễ mắc vào ngụy biện. Mác cho là: Lịch sử của xã hội loài người chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đó là một phán đoán thiếu chính xác. Dựa vào đó Mác suy luận, chứng minh rất hùng hồn về sự tất yếu của cách mạng vô sản, tiếp theo Lênin nâng cao lên thành chuyên chính vô sản, Stalin và Mao Trạch Đông lại biến chuyên chính đó thành độc tài, toàn trị, thành một chế độ tàn bạo. Mác cho rằng mọi sự bất công là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (đó mới chỉ là một nửa sự thật) nên “những người cộng sản chủ trương một luận điểm duy nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu” và khi đã xóa bỏ được tư hữu thì xã hội sẽ phát triển tốt đẹp. Mác đã dựa vào một số quan sát hạn chế để chứng minh vai trò tiên tiến, ưu tú của giai cấp vô sản, đưa họ lên thành những người lãnh đạo xây dựng chế độ XHCN khoa học và chủ nghĩa cộng sản. Tất cả đều là đều là không tưởng, đều là ngụy biện.
Cuộc đời của Mác có thể chia thành ba giai đoạn. Thời trẻ (trước 35 tuổi) Mác vì quá hăng hái mà có những ý kiến quá tả trong đấu tranh tiêu diệt giai cấp tư sản; thời trưởng thành (trước 60 tuổi) Mác đã có những nhận định chín chắn hơn và có một số sửa đổi trong quan điểm; cuối đời (Mác mất năm 1883, lúc 66 tuổi) Mác phát hiện ra một số nhầm lẫn trong thời trẻ và có một vài ý kiến tự phê phán. Trong phần lớn cuộc đời, Mác là một nhà ngộ biện đại tài, có sức hấp dẫn và lôi cuốn rất mạnh. Có được điều ấy là nhờ Mác đã nắm vững, vận dụng lôgic biện chứng kết hợp với lòng tốt, lòng thương yêu giai cấp vô sản. Mác là người có đạo đức và trung thực. Mác hấp dẫn được nhiều người chính nhờ lòng tốt, đạo đức và sự trung thực đó. Mác vấp vào ngụy biện hầu như không phải cố ý mà là vô tình vì lòng tốt và sự vội vàng.
Sự ngụy biện trong CNML càng ngày càng mở rộng. Trong số những người theo CNML có nhiều người cũng do vô tình mà phạm vào ngộ biện, tuy vậy đã xuất hiện nhiều kẻ cố ý, bọn chúng là những kẻ cơ hội, biết CNML có nhiều độc hại và không tưởng nhưng đã ngụy biện để lừa dối người khác.
Trong khi hàng trăm triệu người vì vô minh mà theo CNML thì đồng thời có hàng tỷ người đã sớm phát hiện ra những sự dối trá và độc hại chứa đựng trong ấy. Điều này chính Mác và Engel công nhận trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848): “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu […] Nhiều thế lực đã liên hiệp lại để trừ khử bóng ma đó”. Thế kỷ 19 người ta đã chưa trừ khử được bóng ma cộng sản mà nó còn phát triển mạnh trong một thời gian. Mãi đến cuối thế kỷ 20 nó mới bị xóa bỏ tại quê hương của Mác (nước Đức), tại thành trì của cách mạng vô sản thế giới (Liên Xô), tại các nước Đông Âu. Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuy ngoài mồm vẫn nói theo CNML nhưng thực chất đang xây dựng chế độ phong kiến vô sản chuyên chính. Chỉ còn lại rất ít Đảng Cộng sản, không biết vì lý do gì vẫn tuyên bố kiên trì CNML.
4-Một số ngụy biện của tuyên giáo cộng sản Việt nam
Chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam không phải qua con đường đấu tranh giai cấp mà qua tinh thần chống thực dân của các chiến sĩ yêu nước. Nhưng khi Đảng Cộng sản đã mắc vào vòng cương tỏa của Quốc tế cộng sản, đã lấy CNML làm kim chỉ nam thì dần dần vướng vào sự ngụy biện đã thành hệ thống. Trong bài viết “Tản mạn về lòng yêu nước thời cộng sản” (xem ở đây) tôi trình bày là ở Việt Nam trong thời gian qua CNML tồn tại được là nhờ bám vào lòng yêu nước của nhân dân. Thế nhưng người ta đã đánh tráo khái niệm, ngụy biện ngược lại và cho rằng “Lòng yêu nước của dân Việt Nam phát huy được nhờ vào CNML”. Khi Đảng Cộng sản còn trong giai đoạn vận động làm cách mạng, để lôi kéo được đông đảo quần chúng đi theo thì có nhu cầu tuyên truyền về sự chính nghĩa, về lực lượng hùng hậu, về tài năng và đạo đức của lãnh tụ, về tương lai tươi sáng của xã hội. Những thứ đó phần lớn là chưa có thật, phải dùng lối ngụy biện để bịa ra, bịa một thời gian dài rồi người nói và người nghe đều tưởng như thế thật. Khi thành lập, Mặt trận Việt Minh có mục đích là đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, nhưng thực tế Việt Minh đã không làm cả ba việc đó. Việt Minh đã lãnh đạo toàn dân làm Cách mạng tháng 8 thành công, cướp được chính quyền. Người ta tuyên truyền rằng Cách mạng tháng 8 đã đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, cướp chính quyền về tay nhân dân. Cho đến nay thì đã có nhiều chứng cứ rõ ràng là Cách mạng tháng 8 không đánh Pháp, không đuổi Nhật, còn nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập từ tháng 4 năm 1945. Cách mạng tháng 8 chỉ làm việc cướp chính quyền, nhưng không phải về tay nhân dân mà về tay Đảng Cộng sản. Như thế cả bốn nội dung đều là giả dối, đó là một ngụy biện nổi tiếng của tuyên truyền cộng sản mà cho đến bây giờ hàng chục triệu người vẫn còn bị nhầm.
Sau khi nắm được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam, vì ý thức hệ mà phải theo sự chỉ đạo của Stalin, Mao Trạch Đông để làm cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, hợp tác hóa… Càng làm theo CNML càng dẫn dân tộc vào con đường bế tắc, bần cùng. Trong lúc cần duy trì chế độ và sự thống trị của mình Đảng lại phải ngụy biện, phải gian dối trong tuyên truyền. Sau 1954 đất nước bị chia cắt. Thống nhất là nguyện vọng của toàn dân. Cả hai Hiệp định Genève và Paris đều ghi là sẽ thống nhất bằng đường lối hòa bình, thông qua tổng tuyển cử. Thế nhưng cả hai hiệp định đều bị phá hoại, dẫn tới cuộc chiến tàn khốc 20 năm và Đảng Cộng sản đã thắng trong cuộc chiến đó. Ai đã phá hoại hiệp định. Chúng ta dựa vào một phần sự thật để tuyên truyền là chính Mỹ - Ngụy (Diệm, Thiệu) phá hoại hiệp định và gây chiến tranh, nhưng phía bên kia và phần lớn thế giới lại nêu đầy đủ chứng cứ là chính Bắc Việt mới là bên phá hoại hiệp định trước tiên và chủ động gây chiến. Một việc làm của chính quyền Ngô Đình Diệm là chống cộng sản. Tại sao Diệm lại đào tạo được một đội ngũ chống cộng mạnh mẽ, tích cực và hoạt động khá hiệu quả? Một trong những nguyên nhân chủ yếu là vì một số không ít người miền Bắc, sau khi thoát khỏi sự đàn áp của cộng sản trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong sự đấu tranh cho tự do tư tưởng và ngôn luận đã trốn được vào Nam, họ trở thành nhân chứng sống lên án sự độc ác và bất tín của cộng sản, họ thù oán cộng sản đến tận xương tủy. Thực chất là chế độ Diệm đàn áp cộng sản nhưng người ta lại dùng cách đánh tráo khái niệm để ngụy biện thành “Đàn áp những người yêu nước, đàn áp nhân dân”. Đánh tráo như vậy nhằm kích động hận thù dân tộc.
Một điều ngụy biện mà một số đông người Việt Nam đang mắc phải, vẫn bị nhầm mà cứ tưởng là đang làm chủ chân lý. Người ta dựa vào một số sự thật sau đây:
· Hơn 70 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, làm chiến tranh và xây dựng đất nước theo CNXH.
· Trong chiến tranh dân bị chết chóc, đói khổ, đất nước bị tàn phá.
· Chiến tranh đã kết thúc, lãnh thổ được thống nhất.
· Bây giờ nhân dân được sống hòa bình, có đời sống khá hơn, đất nước được kiến thiết.
Từ những sự thật trên người ta rút ra kết luận: “Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng mà nhân dân ta có được cuộc sống no ấm, hạnh phúc như ngày nay” (*). Thực ra đó là một kết luận ngụy biện vì chỉ dựa trên một phần của sự thật (mà một phần sự thật nhiều khi là dối trá). Một phần rất lớn nữa của sự thật, mà lại là phần quan trọng đã bị che giấu, bị bỏ qua. Đó là chỉ vì theo chủ thuyết cộng sản mà những người lãnh đạo đã biến đất nước thành tiền đồn phe XHCN, xô đẩy nhân dân vào chiến tranh, bỏ qua nhiều cơ hội hòa bình thống nhất đất nước. Đó là vì dựa vào chuyên chính vô sản, dựa vào sự độc quyền của một đảng mà nhiều người lãnh đạo đã đặt quyền lợi nhóm, quyền lợi cá nhân, quyền lợi của Đảng trên quyền lợi dân tộc, kiên trì CNML, dẫn dân tộc vào con đường không lối thoát. Đó là sự lệ thuộc của nhiều lãnh đạo Đảng vào Trung Cộng, không giữ được độc lập, tự chủ. Đó là sự hy sinh xương máu của hàng triệu chiến sĩ để có được thành quả cách mạng là giành chính quyền cho Đảng thì chính quyền đó đang rơi vào tay một nhóm người, bị dùng để tạo ra và bảo vệ lợi ích cho bọn có quyền. Đó là những tệ nạn như tham nhũng, mua quan bán tước, dối trá tràn lan và nhiều tệ nạn khác là do sự kết hợp của CNML với những yếu kém trong nền văn hóa dân tộc. Đó là sự tụt hậu của nước ta so với những nước láng giềng cùng hoàn cảnh, v.v.
Sự ngụy biện ở câu (*) còn ở chỗ đánh tráo ngôn từ. Đáng lẽ, theo sự thật và cách trình bày khoa học cần viết: “Dưới sự lãnh đạo của…” thì đã thay chữ dưới bằng chữ nhờ và thêm vào từ sáng suốt. Đổi và thêm như vậy nhằm đánh lừa tình cảm người tiếp nhận. Lại nữa, đúng ra chỉ trình bày: “nhân dân ta có cuộc sống như ngày nay” thì được thêm các từ được, no ấm, hạnh phúccũng nhằm đánh lừa như trên. Có cuộc sống như ngày nay và “Cóđược cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày nay” là khác nhau rất lớn mà cách trình bày là nhằm ngụy biện. Cuộc sống như ngày nay là cuộc sống thực tế của 90 triệu người, trong đó chỉ có một số ít sống giàu sang, phè phỡn, một số đáng kể còn đói khổ với sự mất dân chủ, bị hạn chế tự do tư tưởng và ngôn luận, một số không ít bỏ xác trong các trại cải tạo và trên đường vượt biển tìm tự do, rất đông phải sống chung với biết bao nhiêu tệ nạn, nhiều người dân bị oan sai, nhiều người bất đồng chính kiến bị đàn áp.
Cũng từ kết luận ngụy biện trên người ta suy diễn tiếp “Nếu không có Bác và Đảng thì nhân dân ta sẽ như thế nào, sẽ vẫn sống cuộc đời nô lệ, bị áp bức, đói khổ”. Đây là kiểu ngụy biện cả trong luận cứ, luận chứng và luận đề. Ngụy biện nhằm đánh tráo một giả thuyết cần kiểm chứng bằng một kết luận khẳng định, một kiểu ngụy biện với trình độ dối trá ở mức tầm thường, tuy vậy rất nhiều người bị nhầm vì không chịu suy nghĩ. Chỉ cần chịu khó đặt câu hỏi “Có thật thế không?” và suy nghĩ tìm câu trả lời thì chẳng khó gì phát hiện ra sự ngụy biện.
5-Một vài nhận xét
Một việc làm tương đối đơn giản, thiết thực và có hiệu quả để phát hiện ra ngụy biện là dùng thực tế cuộc sống, thực tế của xã hội để đối chiếu, để kiểm nghiệm. Nhưng thực tế lại sinh động, có nhiều mặt trái ngược, do đó sự đối chiếu, sự kiểm nghiệm cũng không phải dễ dàng, vì bản chất sự vật thường bị ẩn giấu, mà người ngụy biện khôn ranh biết dùng những phần sự thật có lợi cho lập luận của họ, nhấn mạnh vào, làm nổi bật lên, và tìm cách che giấu đi những sự thật khác.
Trên đây chỉ mới kể ra vài ngụy biện của những nhà tuyên truyền CNML và của Đảng Cộng sản. Còn có thể kể ra nàng ngàn, hàng vạn ngụy biện khác. Ngụy biện là dối trá ở mức cao, thường do những người có trình độ, có quyền lực thực hiện. Dối trá bình thường có thể đánh lừa một số ít những người tham lam, cả tin còn ngụy biện có thể đánh lừa nhiều người hơn. Đặc biệt là ngụy biện của những người có quyền cao chức trọng, có uy tín về học vấn và vị trí trong xã hội, loại ngụy biện này không những làm cho người ta dễ tin mà còn mang áp lực bắt buộc người ta phải chấp nhận, một số người biết là ngụy biện cũng không dám nói ra vì sợ đủ thứ.
Nhân dân nói chung có một tính cách là dễ nghe theo người lãnh đạo, dễ bị chi phối, bị khuất phục bởi thế lực thống trị. Điều này được tuyên giáo cộng sản tổng kết thành ưu điểm của dân Việt Nam là có lòng tin và trung thành với Đảng Cộng sản. Nhưng không phải toàn bộ nhân dân đều như vậy. Trong số họ có những phần tử ưu tú, biết phân biệt phải trái, biết phát hiện ra ngụy biện của chính quyền, có dũng cảm vạch ra sự ngụy biện đó. Dân gian có câu “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng bị lòi ra”. Sự ngụy biện có thể che giấu đối với đại đa số trong một thời gian nào đó nhưng cuối cùng cũng sẽ bị phát hiện, cũng tự lòi ra.
Xã hội Việt Nam hiện nay có nhiều tệ nạn nghiêm trọng mà theo một số học giả thì nghiêm trọng nhất là sự dối trá tràn lan, dối trá đã trở thành phương châm xử thế. Chính quyền dựa một phần vào dối trá để thống trị, dân chúng dựa một phần vào dối trá để tồn tại. Bệnh thành tích dổm chỉ là một trong những hệ quả của dối trá. Gian lận, dối trá đã trở thành một phần của thói quen, một phần của nền văn hóa, của hệ thống chính trị. Ngụy biện là sự dối trá ở cấp cao. Hiện nay thì cái kim trong bọc không những đã thò mũi ra ngoài mà gần như toàn bộ đã lộ ra hết. Vải thưa không còn che nổi mắt thánh.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng có lúc dũng cảm nhận sai lầm để sửa chữa, đó là nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất năm 1956, nhận sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế ở Đại hội VI, năm 1986, để công nhận kinh tế thị trường, ngược lại với CNML, tuy vậy vì ý thức hệ mà cố đèo thêm một điều vô nghĩa là “theo định hướng XHCN”. Liệu năm 2016, với Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam có dám hay không dám nhận sai lầm là đã ngụy biện quá nhiều, dối trá quá nhiều, nhầm lẫn quá nhiều khi lấy CNML làm kim chỉ nam để vô tình dẫn dân tộc vào ngõ cụt, không lối thoát.
Một con người sống bằng dối trá và lừa đảo sẽ đến lúc bị mọi người thấy rõ và xa lánh. Một học thuyết dựa chủ yếu vào ngụy biện sớm muộn cũng bị phát hiện và tẩy chay. Một chính quyền phải dùng đến ngụy biện trong hành xử sẽ mất lòng tin của dân, mất lòng tin của các nước. Dù cho người ta có đón tiếp đại diện của bạn một cách trọng thị, có ký kết với bạn hiệp ước về quan hệ đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược thì ngoài những cái bắt tay chào hỏi xã giao, trong lòng họ vẫn canh cánh một tinh thần cảnh giác là đang quan hệ với một người dối trá đáng khinh bỉ.
N. Đ. C.
Tác giả gửi BVN.
TÂY MỸ NÓ CŨNG THẾ
GS  NGUYỄN VĂN TUẤN / tuan's blog 12/8/2015
Đó là một phản ứng khá phổ biến khi có ai đó (như tôi chẳng hạn) chỉ ra những sự bất cập trong chính sách của Việt Nam. Đó cũng là một cách biện minh dĩ nhiên là thiếu tính thuyết phục. Thật ra, có thể xem đó là một sự nguỵ biện, và tôi sẽ giải thích tại sao.
Lối nguỵ biện này rất phổ biến ở chính khách. Chẳng hạn như mới đây có người mới đi thăm Mĩ về, ông ấy nói rằng ở Mĩ cũng có những dân biểu "cúp cua" họp Quốc hội. Ông này muốn nói rằng đại biểu QH Mĩ cúp cua thì đại biểu VN làm thế có gì sai đâu?!
Thoạt đầu mới nghe qua loại phản ứng này, có lẽ nhiều người sẽ gật gù đồng ý, vì nó có lí và ở khía cạnh nào đó cũng đúng. Nhưng nếu là người có kĩ năng tranh biện thì cách phản ứng đó có vấn đề. Vấn đề thứ nhất là nó phạm vào nguỵ biện đánh tráo chủ đề (còn gọi là distraction). Chủ đề là việc Việt Nam tiêu tiền tỉ để xây tượng đài của một cá nhân, là việc tham nhũng (là sai và xấu), chứ chủ đề bàn luận không phải các chính khách bên Mĩ, bên Tây làm gì. Kiểu nguỵ biện này có mục tiêu làm cho người đặt vấn đề phải mất thì giờ bàn chuyện chẳng liên quan gì với vấn đề được đặt ra. Kẻ nguỵ biện làm cho cuộc bàn luận đi ra ngoài chủ đề chính của bàn luận, và thế là họ đạt mục tiêu làm loãng câu chuyện.
Vấn đề thứ hai là hàm ý nói rằng ở Âu Mĩ, nơi văn minh và dân chủ, mà chính khách còn tham nhũng, thì chính khách VN tham nhũng cũng là chuyện có thể chấp nhận được. Đây là một cách biện minh dở nhất, vì nó dựa vào một giả định rằng Âu Mĩ là chuẩn mực, nhưng dĩ nhiên giả định này sai. Chẳng lẽ người Âu Mĩ phạm tội giết người, và điều đó biện minh rằng người Việt cũng giết người?! Cách nguỵ biện đó cũng hàm ý đổ thừa việc tham nhũng cho người khác, đó là chính khách Âu Mĩ. Một cái sai của biện minh này là tham nhũng là chấp nhận được!
Ngoài những thói nguỵ biện đó ra, tôi thấy có khá nhiều người dùng nguỵ biện kiểu tấn công cá nhân (ad hominem, tu quoque). Những loại này thì dễ nhận ra, vì chúng thường xuất hiện dưới dạng như “đừng có ngồi đó mà làm anh hùng bàn phím”, “có làm gì được cho đất nước chưa mà lớn tiếng phê bình”, “giao cho anh làm lãnh đạo, anh có làm được không”, “không hài lòng thì cút đi khỏi Việt Nam”, v.v. Loại ngụy biện này thể hiện trình độ thấp của kẻ phát ngôn. Thật ra, họ đáng thương hại hơn là đáng trách, bởi vì họ chưa được dạy cách thức bàn luận đàng hoàng, mà chỉ quen với thói lưu manh mà hệ thống đã gieo vào đầu óc họ.
Như tôi từng nói, nguỵ biện là hệ quả của sự lười biếng suy nghĩ. Vì lười biếng suy nghĩ nên người ta phải sử dụng những gì sẵn có. Những gì sẵn có là khẩu hiệu nhan nhãn từ mấy chục năm nay. Thành ra, không ngạc nhiên khi thấy sinh viên (và những người lười suy nghĩ) thấy ai có quan điểm và suy nghĩ khác họ thì họ cho ngay cái nhận xét "phản động". Thấy ai nói về hành động tàn ác trong chiến tranh, họ nghĩ ngay đến "phía bên kia cũng ác ôn". Dùng phía bên kia để biện minh cho sự ác ôn của mình là khó thuyết phục, nhưng nó làm cho họ cảm thấy an lòng. Họ chỉ thốt cái chữ đó ra theo quán tính, chứ chưa chắc họ biết cái nghĩa thật của chữ đó là gì.
Nguỵ biện nói cho cùng là vấn đề chân lí và sự thật. Vấn đề ở VN là chân lí nó được bóp méo và vặn vẹo làm cho người dân nghĩ rằng chỉ có một chân lí duy nhất. Quan sát trên báo chí, internet, đến nghị trường, từ những người có học (cỡ sư sĩ), đến chính khách, và cả thường dân ai ai cũng dùng những lí lẽ mà họ không biết là lỗi nguỵ biện. Chẳng hạn như gần đây nhất có người cảnh báo rằng coi chừng lợi dụng dân chủ, nhưng trong thực tế đó cũng là một dạng của nguỵ biện – nguỵ biện dựa vào nguồn tin vu vơ. Còn sự thật thì cũng bị giả tạo và giả dối sản sinh (như vụ Lê Văn Tám). Những thói nguỵ biện nó được xây dựng trên sự dối trá đã được tạo ra quá lâu, nên khó có thể chỉnh sửa một sớm một chiều. Chỉ khi nào nền giáo dục có sự tham gia bình đẳng từ các nhóm xã hội, thay vì bị sự kiểm soát của một thế lực chính trị, thì tình trạng nguỵ biện vẫn còn.
Rất thường xuyên, khi có người phản biện những bất cập ở Việt Nam, là có người phản ứng theo kiểu biện minh rằng “ở đâu cũng thế”. Hai chữ "ở đâu" thường là lấy Mĩ và Âu châu làm tiền đề. Chẳng hạn như khi đứng trước những chứng cứ không thể chối cãi về quan chức tham nhũng, thì có hai phản ứng chính. Phản ứng cực đoan là chửi bới người nêu vấn đề là ... phản động. Loại người với phản ứng này thì chúng ta không nên mất thì giờ, vì rõ ràng là họ thuộc vào loại lười biếng suy nghĩ và vô giáo dục. Một phản ứng nhẹ nhàng hơn là "Ôi, ở đâu cũng thế. Ở Âu Mĩ, chính khách cũng tham nhũng đó thôi."

"LỰA CHỌN CỦA NHÂN DÂN"
Bài của NGUYỄN TUẤN/ BVN 12/8/2015

 

Một trong những phát biểu rất quen thuộc mà chúng ta hay đọc và nghe được là nhân danh “nhân dân”. Ví dụ như người ta nói rằng con đường đi lên XHCN là do đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Hay như mới đây nhất là “câu kinh” của những người muốn xây dựng tượng đài 1400 tỉ đồng là nhằm đáp ứng nguyện vọng và ý muốn của quần chúng. Nhưng rất tiếc đó là một nguỵ biện khá thô thiển, và trong cái note này, tôi sẽ giải thích tại sao.
Để biện minh hay tăng trọng lượng của một quan điểm nào đó, người ta thường hay biện minh rằng đa số quần chúng hay một nhân vật nổi tiếng nào đó cũng có quan điểm đó. Chẳng hạn như báo Vnexpress.net cho biết việc xây tượng đài HCM là nhằm "đáp ứng nguyện vọng và tình cảm biết ơn sâu sắc của đồng bào các dân tộc Tây Bắc nói chung và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La nói riêng đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh" [1]. Một câu nói tương tự nhưng với ý nghĩa khác cũng thường hay xuất hiện trên báo chí và cửa miệng của các quan chức, đó là phát ngôn cho rằng nhân dân VN đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa, rằng chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân (2). Vì cách nói như thế xuất hiện quá nhiều lần trong quá khứ, nên hình như chẳng ai chất vấn nó đúng hay sai, và nếu nó sai thì sai ở chỗ nào.
Tôi thì nghĩ cách nói như thế là một sự nguỵ biện. Loại nguỵ biện này là “dựa vào đám đông”, hay nói theo thuật ngữ tiếng Latin là “ad populum”. Cách nguỵ biện dựa vào đám đông là dùng một cách gán ghép một quan điểm với một đa số để hàm ý nói rằng đó quan điểm đó là đúng, là chân lí. Chúng ta thường hay nghe cách lí giải của những người theo chủ nghĩa thần thánh rằng bởi vì bất cứ nền văn hoá nào cũng tin vào một thế lực siêu nhiên, nên Thượng đế ắt phải hiện hữu. Một lí giải khác về án tử hình chẳng hạn, thì phát ngôn dễ “lọt tai” nhất là “kết quả điều tra xã hội cho thấy 80% dân số ủng hộ án tử hình; do đó, hình phạt tử hình là một hình phạt đúng đắn”. Thoạt đầu nghe thì cũng có vẻ dân chủ và có lí, nhưng nếu chịu khó suy nghĩ một chút thì sẽ thấy lí giải này sai. Tương tự, ở Việt Nam, nhiều quan chức và giới chính trị cũng hay dùng cách biện minh rằng vì người dân chọn XHCN, nên XHCN ắt phải đúng là một hướng đi của dân tộc. Tất cả những phát ngôn đó đều là những nguỵ biện dựa vào đám đông.
Cái gọi là “đám đông” rất khó có thể định nghĩa. Thế nào là đám đông, là đa số? Con số có thể là 51%, 70%, 80%, hay thậm chí 95%. Trong thực tế không có một cái ngưỡng số học nào để có thể nói là “đa số”. Do đó, nói rằng “đa số ủng hộ quan điểm” là không thuyết phục, và có phần thiếu thành thật tri thức.
Chỉ vì đa số ủng hộ một quan điểm nào đó không có nghĩa rằng quan điểm đó đúng. Chúng ta nên nhớ rằng có thời hàng triệu người tin rằng hình dạng của trái đất là phẳng, nhưng nay thì khoa học chứng minh rằng quan niệm đó là hoàn toàn sai lầm. Ở bên Tàu, hàng triệu người tin vào Cách mạng Văn hoá, và chúng ta đã thấy hệ quả của nó ra sao. Ở Việt Nam, cái gọi là “đa số” đó cũng từng chạy theo cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất, và đã để lại biết bao di hại cho dân tộc. Nên nhớ rằng đám đông trong một môi trường nóng bỏng rất dễ bị kích động chỉ vì một vài người đứng lên hô hào (gọi là agitator). Do đó, cái khái niệm gọi là “nhân dân” không phải là yếu tố quyết định một quan điểm đó đúng hay sai. Thật ra, nói “lựa chọn của nhân dân” thì câu hỏi kế tiếp là “chứng cứ đâu”? Cái đúng và sai phải được xem xét trên chứng cứ, tính liên quan và logic, chứ không phải dựa trên một yếu tố nào đó chẳng có liên quan gì đến sự việc.
Tương tự, cũng có một loại nguỵ biện khác là dựa vào người nổi tiếng. Chẳng hạn như khi một chuyên gia về một khía cạnh nào đó, nhưng rất nổi tiếng, mà lên tiếng ủng hộ một quan điểm xã hội, thì đám đông thường có xu hướng cho rằng quan điểm đó đúng. Đây cũng là một sai lầm đáng tiếc, bởi vì sai hay đúng không tuỳ thuộc vào mức độ nổi tiếng của người phát biểu. Một nhà khoa học được trao giải Nobel về vật lí hoàn toàn có quyền phát biểu về giáo dục (hay bất cứ đề tài gì mà nhà khoa học quan tâm), nhưng người đọc không nên mặc nhiên xem quan điểm của nhà khoa học đó là chân lí, vì chân lí phải được xem xét và đặt trong bối cảnh và chứng cứ thực tế. Nhưng rất tiếc là ở VN, báo chí có vẻ phản ứng cuống cuồng trước một phát biểu có khi rất vô duyên và thiếu tri thức của người nổi tiếng, và làm cho công chúng phải tiêu hao năng lượng cho những vấn đề không xứng đáng. Có thể nói rằng thói quen tin tưởng vào hay chạy theo những câu nói của những người nổi tiếng của giới báo chí là một sai lầm hết sức ấu trĩ. Họ (báo chí), với thói quen chạy theo “sao”, có thể bán nhiều báo hay thành công trong việc câu view, nhưng họ không đóng góp gì tích cực cho tranh luận.
Tóm lại, lí luận dựa vào đám đông (như “lựa chọn của nhân dân”) hay dựa vào người nổi tiếng là một hình thức nguỵ biện quá thấp kém. Nên nhớ rằng cái đúng/sai của một quan điểm cần phải được xem sét trong bối cảnh, logic, và chứng cứ, chứ không phụ thuộc vào đám đông hay bất cứ người nổi tiếng nào ủng hộ quan điểm đó. Do đó, những lập luận như “Thể theo nguyện vọng” và “Đa số quần chúng ủng hộ” chỉ là những phát ngôn gian manh và lém lĩnh nhằm thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ; đối với người có tinh thần phản biện thì những phát ngôn đó không hẳn thuyết phục, mà cần phải đặt chúng vào cái rọ nguỵ biện.
N.T.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét