(PL)- Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa được công bố, trong đó có đề cập đến những cảnh báo đáng ngại về nợ công của Việt Nam với số nợ đang lên tới 110 tỉ USD.
Gần đây nhất Thủ tướng Chính phủ cũng đã cam kết không để nợ công của Việt Nam vượt ngưỡng 65%. Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh đến sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam qua các con số về nợ công.
Liệu rằng với số nợ, Việt Nam (VN) có đang đi dần tới tình trạng như Hy Lạp? Liệu rằng với con số nợ này, việc đi vay của VN tới đây có gặp trở ngại không? Theo TS Dương Như Hùng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM), nợ công lên tới 110 tỉ USD là một dấu hiệu đáng lo ngại nhưng tính minh bạch và hiệu quả của quản lý chi tiêu ngân sách mới là nguyên nhân của vấn đề.
Đầu tư không hiệu quả thì vay nợ bao nhiêu cũng là quá nhiều
Phóng viên: Là một chuyên gia từng làm việc ở Mỹ nhiều năm, ông đánh giá thế nào về con số nợ công hiện tại của VN?

+ TSDương Như Hùng: Tỉ lệ nợ công/GDP tăng thì chính phủ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong trả nợ và nguy cơ vỡ nợ sẽ cao hơn. Khi khủng hoảng tài chính của Hy Lạp xảy ra năm 2010 thì tỉ lệ nợ của Hy Lạp lúc đó là 148%. Khủng hoảng tài chính cũng đã xảy ra ở một số quốc gia khác như Hungary (2008), Iceland (2008), Tây Ban Nha (2011), Slovenia (2013) khi tỉ lệ nợ công nằm trong khoảng 70%-80%.
Có nhiều con số khác nhau về tỉ lệ nợ công của VN. Ứng với con số nợ 110 tỉ USD do WB báo cáo thì tỉ lệ nợ công/GDP cuối năm 2014 của VN là 59,13%. Tuy nhiên, con số này có lẽ chưa tính đến khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), quỹ bảo hiểm xã hội và nợ của Ngân hàng Nhà nước VN. Theo một số báo cáo của Bộ KH&ĐT thì tỉ lệ nợ công cuối năm 2014 là khoảng 66,4%. Nếu bỏ qua khác biệt về tính toán thì tỉ lệ nợ này là nhiều hay ít? Theo thông tin của một tổ chức kinh tế, tỉ lệ nợ công của toàn thế giới năm 2014 là 57,7%, trong khi tỉ lệ nợ công của các nước đang phát triển chỉ khoảng 40%. Ngưỡng an toàn nợ công cho các quốc gia trong Hiệp ước Maastricht là 60%. Như vậy, tỉ lệ nợ công của VN tuy chỉ cao hơn chút đỉnh so với trung bình thế giới và ngưỡng an toàn 60% của Hiệp ước Maastricht nhưng lại gấp rưỡi so với trung bình của các nước đang phát triển. Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Nhiều đầu tư công lãng phí
. Vậy có nên vay nợ thêm khi tỉ lệ nợ công cao không, thưa ông?
Một quốc gia có nợ công cao thì không nhất thiết phải ngừng ngay vay nợ mới. Nhật Bản trước năm 1993 luôn có thặng dư ngân sách nhưng sau đó nền kinh tế gặp suy thoái, chính phủ phải tăng chi tiêu và giảm áp lực thu ngân sách để kích thích nền kinh tế. Điều này khiến nợ công tăng cao trong hai thập niên. Vấn đề này càng trầm trọng khi Nhật Bản gặp phải một loạt thiên tai, tai nạn hạt nhân và hậu quả của khủng hoảng tài chính 2008. Mỹ tăng tỉ lệ nợ công vì cắt giảm thuế để kích thích nền kinh tế sau khủng bố 11-9-2001, sau đó lại tăng chi tiêu chính phủ để kích cầu sau khủng hoảng kinh tế 2008.
Tương tự, nhiều quốc gia trong khối Eurozone và cả VN cũng tăng chi tiêu để kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng thế giới 2008. Các quốc gia này chấp nhận vay nợ để tăng chi tiêu, kích cầu với hy vọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nếu GDP tăng thì tỉ lệ nợ công/GDP trong dài hạn sẽ giảm. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng thành công. Hy Lạp cũng đã tăng chi tiêu công nhưng GDP vẫn suy giảm, khiến họ phải thắt lưng buộc bụng cắt giảm chi tiêu, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao (hơn một nửa thanh niên độ tuổi lao động không kiếm được việc làm), đời sống người lao động khó khăn và hậu quả là một loạt bạo loạn đã nổ ra.
Trở lại vấn đề VN, nếu chúng ta vay nợ và sử dụng đồng tiền hiệu quả như Vinamilk thì sẽ không những có tiền để trả nợ sau này mà còn góp phần tăng GDP. Khi GDP tăng trưởng bền vững thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ giảm xuống. Nếu sử dụng đồng tiền không hiệu quả như Vinashin, Vinalines thì trong ngắn hạn GDP vẫn có thể tăng trưởng vì cứ chi tiền thì sẽ có GDP tăng. Tuy nhiên, tăng GDP kiểu này không bền vững lâu dài, không tạo ra giá trị gia tăng và không có khả năng trả nợ và lãi, dẫn đến tỉ lệ nợ công/GDP càng cao và rủi ro vỡ nợ sẽ tăng.
. Nghĩa là nợ công cao là một vấn đề quan ngại lớn nhưng không có nghĩa là không nên vay. Vấn đề quyết định là vay để làm gì?
+ Đúng vậy, nếu vay và sử dụng vốn vay hiệu quả thì là một việc nên làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều đầu tư công của ta lãng phí. Không có một chắc chắn nào là nếu vay mới thì ta sẽ không lãng phí trong tương lai. Chính vì vậy WB và nhiều tổ chức tín dụng cũng có lý khi cảnh báo vấn đề nợ công của VN. Để tránh vấn đề này, chúng ta cần phải quản lý nợ công minh bạch và hiệu quả hơn.
Nhiều ngàn tỉ đồng không biết chi đi đâu
. Các khoản chi tiêu của chúng ta cũng được báo cáo như thế không thể nói là không minh bạch, thưa ông?
+ Theo một bài viết của chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt, tính công khai, minh bạch của ngân sách nhà nước (NSNN) đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đủ. Chẳng hạn ngân sách chi cho Bộ GD&ĐT 32.000 tỉ đồng nhưng xem thông tin chi ngân sách cho các bộ, ngành trung ương có địa chỉ rõ ràng thì cũng chỉ thấy được 12.000 tỉ đồng. Trong đó, Bộ GD&ĐT được phân 6.300 tỉ đồng; hai trường ĐHQG là Hà Nội và TP.HCM được phân 2.000 tỉ đồng và phần còn lại gần 4.000 tỉ đồng được phân cho các bộ, ngành khác như Học viện HCM, Bộ Y tế, Bộ VH-TT&DL, Bộ NN&PTNT... Vậy số tiền 20.000 tỉ đồng còn lại không rõ về đâu. Đây lại là một mục được cho là minh bạch nhất trong báo cáo ngân sách mà còn như vậy thì các khoản khác như thế nào? Vậy nên cần phải minh bạch trong quản lý chi tiêu công.
DNNN cũng phải minh bạch hóa vì các DNNN nắm nhiều nguồn lực và được ưu đãi nhiều nhưng lại đóng góp ít hơn so với tỉ lệ nguồn lực nắm giữ. Nhà nước cần phải thúc đẩy cổ phần hóa, giảm bớt nắm giữ cổ phần trong các DNNN và Nhà nước chỉ nên đóng vai trò như trọng tài để giám sát luật chơi sao cho công bằng để DN cùng cạnh tranh phát triển. Điều này vừa tăng nguồn thu của Nhà nước, giảm tỉ lệ nợ công, vừa buộc DN hoạt động hiệu quả hơn, vừa thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển vì sẽ có nhiều hàng hóa cho nhà đầu tư hơn. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần phải siết chặt hơn kỷ luật ngân sách. Chúng ta cần học Singapore về điểm này.
. Với tình hình như hiện nay, theo ông sắp tới VN có gặp trở ngại khi đi vay vốn?
+ Chắc chắn sẽ khó khăn hơn vì tỉ lệ nợ công của ta cũng tương đối cao. Tôi không rõ lãi suất đi vay trong quá khứ của VN là bao nhiêu nhưng cũng có thể lãi suất vay mới thấp hơn nếu điều kiện thị trường thuận lợi. Ngoài vấn đề lãi suất chúng ta cũng cần phải xem xét các điều kiện cho vay, đặc biệt là các khoản vay ODA. Họ có cho vay lãi suất thấp nhưng buộc ta sử dụng nhà thầu của họ. Gần đây có một câu chuyện mà báo chí hay nêu về chất lượng một nhà thầu nước ngoài yếu kém xảy ra nhiều tai nạn, chi phí cao nhưng lại không thay nhà thầu này được vì vốn của dự án có nguồn ODA.
. Xin cám ơn ông.