ĐIỂM BÁO MẠNG
- Quốc tế:Yêu sách thái quá của TQ ở biển Đông(TVN 2/11/2015)-Ai thống trị biển cả?(VNN 2/11/2015)-Trung Cộng yếu, chống chế quẩn quanh(BVN 2/11/2015)-Ngô Nhân Dụng-Nhật Bản với Biển Đông(BVB 2/11/2015)-Người dân Trung Quốc thực sự khổ như thế nào?(BVB 2/11/2015)-Trung Quốc phải chấp nhận phán quyết Biển Đông?(BVB 2/11/2015)
- Trong nước:Từ đảng trị tới gia đình trị: cặp đôi hoàn hảo (RFA Blog 28-10-15)-Ông Kim Quốc Hoa bị đề nghị truy tố (BBC 1-11-15)-Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Hà Nội gây bất ngờ tại đại hội đảng (VnEx 1-11-15)-Visa và thông điệp đặc biệt đón Đại sứ VN ở Cali(VNN 1-11-15)-Những “ông trùm” tổ chức mại dâm cao cấp ở Sài Gòn: Muôn mặt mời chào, muôn kiểu núp bóng (LĐ 1-11-15)-Ông Nguyễn Đức Chung làm Phó Bí thư Hà Nội(VNN 2/11/2015)-Ông Đỗ Tiến Sỹ tái đắc cử Bí thư Hưng Yên(VNN 2/11/2015)-TUYÊN BỐ VỀ CHUYẾN THĂM VIỆT NAM CỦA ÔNG TẬP CẬN BÌNH(BVN 2/11/2015)-Em vợ Thủ tướng & "siêu lừa" Dương Thanh Cường(BVN 2/11/2015)-Huy Đức-Ngồi trên mây làm chính sách, đẩy cái khó cho dân thì xử tội gì?(BVB 2/11/2015)
- Kinh tế:“Khó khăn lớn nhất của nền kinh tế là bệnh thành tích”(VnE 1-11-15)-Lương khối doanh nghiệp Nhà nước đã vượt FDI (VnE 1-11-15)-'Nghiên cứu thể chế, chính sách đặc thù để Hà Nội phát triển xứng tầm' (TN 1-11-15) -- Vương Đình Huệ -Nợ công: Thách thức quản lý minh bạch, hiệu quả (PLTP 1-11-15) -- P/v Dương Như Hùng-Sẵn sàng cho điện hạt nhân (Petrotimes 1-11-15)-Đằng sau chuyện bán "con bò sữa tỷ đô"(TVN 2/11/2015)-'Vết chém' xẻ nát đô thị kiểu mẫu Linh Đàm(Vef 2/11/2015)-
- Giáo dục:Sợ thất nghiệp, sinh viên đại học sư phạm bỏ trường về... làm thợ (LĐ 1-11-15) 199.400 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp: Do quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực (DT 1-11-15) -Cố GS, TS, AHLĐ Nguyễn Thiện Thành: Một biểu tượng về nhân cách y đức (ĐĐK 1-11-15) -- Thân sinh của Nguyễn Thiện Nhân?-Cơ cấu lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng (TBKTSG 1-11-15) -- P/v Nguyễn Minh Thuyết-Quy mô đào tạo đại học chưa hợp lý, cần rà soát lại (Infonet 1-11-15)-Chuyên gia giáo dục: Cảnh cáo học sinh trước toàn trường giống 'đấu tố' (VnEx 31-10-15)-Triết học phân tích về giáo dục: Thịnh và Suy (VHNA 30-10-15) -- Bài Bùi Văn Nam Sơn-GS. Lâm Quang Thiệp: Tôi thấy Bộ Giáo dục ôm đồm thành ra...khổ quá! (GD 30-10-15)
- Phản biện:"Con nhà nòi" làm chính trị và đặc thù Việt Nam (BTTT 2/11/2015)-Vào nhà nước, đi đâu cũng gặp… họ hàng(TVN 30/10/2015)-Một kết luận nguy hiểm!(BVN 2/11/2015)-Nguyễn Văn Tuấn về các đập trên sông Mekong-Cần nhìn thẳng vào vấn đề nợ công(BVB 1/11/2015)-TS Phạm Thế Anh
- Thư giãn:Tại sao uống cà phê bằng dĩa? (PLTP 1-11-5) -Phát hiện cách tăng tốc độ chụp ảnh gấp nhiều lần(VNN 2/11/2015)
NỢ CÔNG: THÁCH THỨC QUẢN LÝ MINH BẠCH, HIỆU QUẢ
Bài của pv YẾN TRANG/PLTP 1/11/2015
(PL)- Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa được công bố, trong đó có đề cập đến những cảnh báo đáng ngại về nợ công của Việt Nam với số nợ đang lên tới 110 tỉ USD.
Gần đây nhất Thủ tướng Chính phủ cũng đã cam kết không để nợ công của Việt Nam vượt ngưỡng 65%. Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh đến sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam qua các con số về nợ công.
Liệu rằng với số nợ, Việt Nam (VN) có đang đi dần tới tình trạng như Hy Lạp? Liệu rằng với con số nợ này, việc đi vay của VN tới đây có gặp trở ngại không? Theo TS Dương Như Hùng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM), nợ công lên tới 110 tỉ USD là một dấu hiệu đáng lo ngại nhưng tính minh bạch và hiệu quả của quản lý chi tiêu ngân sách mới là nguyên nhân của vấn đề.
Đầu tư không hiệu quả thì vay nợ bao nhiêu cũng là quá nhiều
. Phóng viên: Là một chuyên gia từng làm việc ở Mỹ nhiều năm, ông đánh giá thế nào về con số nợ công hiện tại của VN?
+ TSDương Như Hùng: Tỉ lệ nợ công/GDP tăng thì chính phủ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong trả nợ và nguy cơ vỡ nợ sẽ cao hơn. Khi khủng hoảng tài chính của Hy Lạp xảy ra năm 2010 thì tỉ lệ nợ của Hy Lạp lúc đó là 148%. Khủng hoảng tài chính cũng đã xảy ra ở một số quốc gia khác như Hungary (2008), Iceland (2008), Tây Ban Nha (2011), Slovenia (2013) khi tỉ lệ nợ công nằm trong khoảng 70%-80%.
Có nhiều con số khác nhau về tỉ lệ nợ công của VN. Ứng với con số nợ 110 tỉ USD do WB báo cáo thì tỉ lệ nợ công/GDP cuối năm 2014 của VN là 59,13%. Tuy nhiên, con số này có lẽ chưa tính đến khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), quỹ bảo hiểm xã hội và nợ của Ngân hàng Nhà nước VN. Theo một số báo cáo của Bộ KH&ĐT thì tỉ lệ nợ công cuối năm 2014 là khoảng 66,4%. Nếu bỏ qua khác biệt về tính toán thì tỉ lệ nợ này là nhiều hay ít? Theo thông tin của một tổ chức kinh tế, tỉ lệ nợ công của toàn thế giới năm 2014 là 57,7%, trong khi tỉ lệ nợ công của các nước đang phát triển chỉ khoảng 40%. Ngưỡng an toàn nợ công cho các quốc gia trong Hiệp ước Maastricht là 60%. Như vậy, tỉ lệ nợ công của VN tuy chỉ cao hơn chút đỉnh so với trung bình thế giới và ngưỡng an toàn 60% của Hiệp ước Maastricht nhưng lại gấp rưỡi so với trung bình của các nước đang phát triển. Đây là một dấu hiệu đáng lo ngại.
Nhiều đầu tư công lãng phí
. Vậy có nên vay nợ thêm khi tỉ lệ nợ công cao không, thưa ông?
+ Một quốc gia có nợ công cao thì không nhất thiết phải ngừng ngay vay nợ mới. Nhật Bản trước năm 1993 luôn có thặng dư ngân sách nhưng sau đó nền kinh tế gặp suy thoái, chính phủ phải tăng chi tiêu và giảm áp lực thu ngân sách để kích thích nền kinh tế. Điều này khiến nợ công tăng cao trong hai thập niên. Vấn đề này càng trầm trọng khi Nhật Bản gặp phải một loạt thiên tai, tai nạn hạt nhân và hậu quả của khủng hoảng tài chính 2008. Mỹ tăng tỉ lệ nợ công vì cắt giảm thuế để kích thích nền kinh tế sau khủng bố 11-9-2001, sau đó lại tăng chi tiêu chính phủ để kích cầu sau khủng hoảng kinh tế 2008.
Tương tự, nhiều quốc gia trong khối Eurozone và cả VN cũng tăng chi tiêu để kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng thế giới 2008. Các quốc gia này chấp nhận vay nợ để tăng chi tiêu, kích cầu với hy vọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nếu GDP tăng thì tỉ lệ nợ công/GDP trong dài hạn sẽ giảm. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng thành công. Hy Lạp cũng đã tăng chi tiêu công nhưng GDP vẫn suy giảm, khiến họ phải thắt lưng buộc bụng cắt giảm chi tiêu, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao (hơn một nửa thanh niên độ tuổi lao động không kiếm được việc làm), đời sống người lao động khó khăn và hậu quả là một loạt bạo loạn đã nổ ra.
Trở lại vấn đề VN, nếu chúng ta vay nợ và sử dụng đồng tiền hiệu quả như Vinamilk thì sẽ không những có tiền để trả nợ sau này mà còn góp phần tăng GDP. Khi GDP tăng trưởng bền vững thì tỉ lệ nợ công/GDP sẽ giảm xuống. Nếu sử dụng đồng tiền không hiệu quả như Vinashin, Vinalines thì trong ngắn hạn GDP vẫn có thể tăng trưởng vì cứ chi tiền thì sẽ có GDP tăng. Tuy nhiên, tăng GDP kiểu này không bền vững lâu dài, không tạo ra giá trị gia tăng và không có khả năng trả nợ và lãi, dẫn đến tỉ lệ nợ công/GDP càng cao và rủi ro vỡ nợ sẽ tăng.
. Nghĩa là nợ công cao là một vấn đề quan ngại lớn nhưng không có nghĩa là không nên vay. Vấn đề quyết định là vay để làm gì?
+ Đúng vậy, nếu vay và sử dụng vốn vay hiệu quả thì là một việc nên làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều đầu tư công của ta lãng phí. Không có một chắc chắn nào là nếu vay mới thì ta sẽ không lãng phí trong tương lai. Chính vì vậy WB và nhiều tổ chức tín dụng cũng có lý khi cảnh báo vấn đề nợ công của VN. Để tránh vấn đề này, chúng ta cần phải quản lý nợ công minh bạch và hiệu quả hơn.
Nhiều ngàn tỉ đồng không biết chi đi đâu
. Các khoản chi tiêu của chúng ta cũng được báo cáo như thế không thể nói là không minh bạch, thưa ông?
+ Theo một bài viết của chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt, tính công khai, minh bạch của ngân sách nhà nước (NSNN) đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đủ. Chẳng hạn ngân sách chi cho Bộ GD&ĐT 32.000 tỉ đồng nhưng xem thông tin chi ngân sách cho các bộ, ngành trung ương có địa chỉ rõ ràng thì cũng chỉ thấy được 12.000 tỉ đồng. Trong đó, Bộ GD&ĐT được phân 6.300 tỉ đồng; hai trường ĐHQG là Hà Nội và TP.HCM được phân 2.000 tỉ đồng và phần còn lại gần 4.000 tỉ đồng được phân cho các bộ, ngành khác như Học viện HCM, Bộ Y tế, Bộ VH-TT&DL, Bộ NN&PTNT... Vậy số tiền 20.000 tỉ đồng còn lại không rõ về đâu. Đây lại là một mục được cho là minh bạch nhất trong báo cáo ngân sách mà còn như vậy thì các khoản khác như thế nào? Vậy nên cần phải minh bạch trong quản lý chi tiêu công.
DNNN cũng phải minh bạch hóa vì các DNNN nắm nhiều nguồn lực và được ưu đãi nhiều nhưng lại đóng góp ít hơn so với tỉ lệ nguồn lực nắm giữ. Nhà nước cần phải thúc đẩy cổ phần hóa, giảm bớt nắm giữ cổ phần trong các DNNN và Nhà nước chỉ nên đóng vai trò như trọng tài để giám sát luật chơi sao cho công bằng để DN cùng cạnh tranh phát triển. Điều này vừa tăng nguồn thu của Nhà nước, giảm tỉ lệ nợ công, vừa buộc DN hoạt động hiệu quả hơn, vừa thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển vì sẽ có nhiều hàng hóa cho nhà đầu tư hơn. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần phải siết chặt hơn kỷ luật ngân sách. Chúng ta cần học Singapore về điểm này.
. Với tình hình như hiện nay, theo ông sắp tới VN có gặp trở ngại khi đi vay vốn?
+ Chắc chắn sẽ khó khăn hơn vì tỉ lệ nợ công của ta cũng tương đối cao. Tôi không rõ lãi suất đi vay trong quá khứ của VN là bao nhiêu nhưng cũng có thể lãi suất vay mới thấp hơn nếu điều kiện thị trường thuận lợi. Ngoài vấn đề lãi suất chúng ta cũng cần phải xem xét các điều kiện cho vay, đặc biệt là các khoản vay ODA. Họ có cho vay lãi suất thấp nhưng buộc ta sử dụng nhà thầu của họ. Gần đây có một câu chuyện mà báo chí hay nêu về chất lượng một nhà thầu nước ngoài yếu kém xảy ra nhiều tai nạn, chi phí cao nhưng lại không thay nhà thầu này được vì vốn của dự án có nguồn ODA.
. Xin cám ơn ông.
Đại biểu Quốc hội BÙI ĐỨC THỤ, Ủy viên Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội:
Phát hành 3 tỉ USD trái phiếu quốc tế là cần thiết
Tình hình kinh tế năm 2015 vẫn còn những thách thức khó khăn. Trước hết là chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn thấp, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao cộng thêm chi phí sản xuất của các DN cao khiến cho sức cạnh tranh yếu. Trong nền kinh tế hội nhập nếu chúng ta không thay đổi thì nguy cơ đào thải khỏi nền kinh tế thị trường là rất lớn và lệ thuộc nền kinh tế nước ngoài.
Cũng cần lưu ý rằng hai năm nay NSNN đều tập trung trả nợ nhưng số nợ trả lại chỉ bằng một nửa số vay mới, dẫn đến dù nợ công dưới 65% GDP nhưng số tuyệt đối vẫn tăng. Để giải quyết được vấn đề này, Chính phủ cần tính toán để số tiền vay mới phải nhỏ hơn số tiền trả nợ cũ, làm cho bội chi giảm dần thì nợ công mới giảm.
Bên cạnh đó, Chính phủ đề xuất phát hành 3 tỉ USD trái phiếu quốc tế là cần thiết để đảo nợ, tức là để trả các khoản ngắn hạn. Về bản chất là không làm tăng dư nợ công. Tuy nhiên, nếu Quốc hội (QH) đồng ý đề xuất này thì phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu này, chỉ sử dụng vào việc đảo nợ và không được chi tiêu vào các khoản khác, kể cả với những việc cần thiết, cấp bách. Theo Luật Quản lý nợ công thì không được phép vay nước ngoài để đảo nợ trong nước nhưng vì lợi ích nền kinh tế của đất nước tôi đề nghị nên chấp thuận.
Đại biểu TRẦN HOÀNG NGÂN (TP.HCM):
Cần giảm các nguồn chi không cần thiết để tăng lương
Theo tôi, tình hình NSNN hiện nay không đến nỗi căng thẳng lắm. Vấn đề quan trọng nhất là Chính phủ cần giảm các nguồn chi không cần thiết để tăng lương; bởi chi thường xuyên đang tăng cao qua các năm, cụ thể trong giai đoạn năm năm trước chi thường xuyên chiếm 55% trong tổng chi NSNN nhưng các năm gần đây đã lên 65%.
Nợ công của VN đang ở mức cao. Do đó, Chính phủ cần giảm chi NSNN cho chi thường xuyên như xe công, dịch vụ công nuôi bộ máy hành chính, xây trụ sở,…; tăng hiệu quả đầu tư, đẩy mạnh tăng trưởng GDP. Bên cạnh đó phải giám sát được nợ công, các khoản vay nợ; một nền kinh tế mà năm nào cũng tăng nợ công thì cũng cần xem lại.
TS PHẠM THẾ ANH, chuyên gia kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân:
Do chi tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu
Ts. Phạm Thế Anh
Chi thường xuyên quá cao trong khi nhiều nguồn thu không bền vững. Cần phải nhận thức rõ ràng thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây là do chúng ta chi tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu. Tổng thu NSNN và viện trợ trung bình trong bốn năm gần đây đạt khoảng 24% GDP, với tốc độ tăng khoảng 10,4% mỗi năm. Trong cùng thời gian đó, chưa kể các khoản chi tiêu công để ngoại bảng, tổng chi ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc lên tới 31,5% GDP, với tốc độ tăng là khoảng 7% mỗi năm.
Tỉ lệ nợ công/GDP của VN hiện vẫn còn ở dưới mức trần 65% quy định bởi QH. Tuy nhiên, sở dĩ tỉ lệ này vẫn nằm trong giới hạn cho phép của QH chủ yếu là nhờ việc Tổng cục Thống kê vào năm 2013 đã điều chỉnh phương pháp tính GDP, bổ sung thêm giá trị kinh doanh của ngành ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư.
Tuy nhiên, dù tính theo phương pháp nào thì với tốc độ tăng nhanh của nợ công hiện nay, thước đo kỷ luật nợ công mà QH đặt ra không sớm thì muộn cũng sẽ bị vi phạm nếu chúng ta không có những điều chỉnh.
Bên cạnh đó, việc tuân thủ kỷ luật thâm hụt ngân sách của VN trong những năm gần đây rất kém. Trong giai đoạn 2011-2015, mục tiêu của Chính phủ là đưa mức thâm hụt ngân sách giảm dần xuống còn 4,5% GDP vào năm 2015 nhưng thực tế lại cho thấy mức thâm hụt ngân sách những năm qua ngày càng trầm trọng hơn. Thâm hụt ngân sách của các năm 2012, 2013 và 2014 lần lượt đã lên tới xấp xỉ 5,4%, 6,6% và 5,7% GDP. Những con số này cũng cao hơn so với mức dự toán 4,8% GDP mỗi năm trong các năm này. Đặc biệt, mức thâm hụt ngân sách ngày càng cao và có xu hướng vượt chi cho đầu tư phát triển, hàm ý nguy cơ VN phải vay nợ cho tiêu dùng ngày càng lớn. Tức là VN sẽ không chỉ phải vay nợ cho đầu tư phát triển mà còn phải vay nợ để tài trợ một phần cho tiêu dùng, vi phạm quy định đề ra trong Luật NSNN 2002 và Luật NSNN sửa đổi 2015.
Cần nhìn thẳng vào vấn đề nợ công
* Ts. PHẠM THẾ ANH/ BVB 2/11/2015
Các cuộc khủng hoảng nợ công, mặc dù được trì hoãn, nhưng khi đã xảy ra thì sẽ kéo theo lạm phát cao, đồng tiền mất giá mạnh, thâm thủng dự trữ ngoại hối và vốn quốc tế tháo chạy. Do vậy, các hậu quả kinh tế xã hội của cuộc khủng hoảng nợ công là rất trầm trọng và khó phục hồi…Không một ngân sách quốc gia nào trên thế giới có thể kham được một bộ máy hành chính lớn, song hành giữa Đảng và chính quyền, như ở Việt Nam.
Những vấn đề tài khóa và nợ công đang được công luận đặc biệt quan tâm, và đòi hỏi có những biện pháp điều chỉnh tài khóa kịp thời. TBKTSG Online trích đăng bài phân tích của tiến sĩ Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Quy mô nợ công tăng quá nhanh
Theo các thống kê chính thức của Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách và nợ công ViệtNam trong những năm gần đây liên tục có xu hướng tăng nhanh.
Cùng với thâm hụt ngân sách cao là sự gia tăng nhanh của nợ công. Ước tính đến cuối năm 2014, bất chấp sự điều chỉnh tăng GDP thiếu thuyết phục bởi cơ quan thống kê, nợ công Việt Nam đã lên tới khoảng 59,6% GDP, và dự kiến tiệm cận rất gần với mức trần nợ công 65% cho phép vào năm 2015.Cụ thể, thâm hụt ngân sách là 5,4% GDP vào năm 2012, tăng lên 6,6% GDP vào năm 2013 và ước tính 5,7% GDP vào năm 2014, cao hơn rất nhiều so với mức trần 5,0% GDP quy định bởi Quốc hội cho giai đoạn 5 năm 2011-2015.
Đặc biệt, nếu so với tổng thu ngân sách nhà nước thì nợ công đã tăng từ khoảng 1,93 lần trong năm 2011 lên tới 2,81 lần trong năm 2014, tương đương với mức tăng 45,6% (về tỉ trọng) chỉ trong vòng ba năm. Với nguồn thu hạn chế, con số này được dự kiến còn tăng mạnh trong những năm tới.
Mập mờ nghĩa vụ trả nợ
Bên cạnh quy mô nợ công tăng nhanh, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ (không bao gồm nợ Chính phủ bảo lãnh) cũng ngày càng lớn.
Theo Báo cáo Nợ công số 3 thì nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ (không bao gồm nợ Chính phủ bảo lãnh) so với tổng thu ngân sách nhà nước lại cao hơn rất nhiều và có sự gia tăng đột biến trong ba năm gần đây, lên 21,0% vào năm 2012, 22,4% vào năm 2013 và ước tính khoảng 24,2% vào năm 2014. Những con số này đang tiếp cận rất gần với ngưỡng 25% cho phép bởi Quốc hội. Điều này có nghĩa là, Chính phủ Việt Nam hiện phải chi tới một phần tư tổng thu ngân sách nhà nước mỗi năm chỉ để trả nợ gốc và lãi.
Thâm hụt ngân sách cao đi kèm với nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh là nguyên nhân chính khiến Chính phủ đang phải thực hiện hàng loạt các chương trình phát hành trái phiếu, cả trong nước lẫn quốc tế, để đảo nợ.
Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách thâm hụt cao như hiện nay, thậm chí đã phải đi vay một phần để tiêu dùng, thì không ai có thể đảm bảo rằng những khoản vay mới này sẽ được dùng để trang trải cho những khoản nợ cũ. Mà trái lại, rất có thể chúng sẽ lại được dùng để tài trợ cho các khoản chi tiêu mới (gồm cả tiêu dùng) và tích lũy vào gánh nặng nợ công hiện tại. Đảo nợ có thể chỉ là những mỹ từ dùng trong trạng thái cấp bách của ngân sách.
Chi thường xuyên quá cao
Thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây là do chúng ta chi tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu.
Tổng thu ngân sách nhà nước và viện trợ trung bình trong bốn năm gần đây đạt khoảng 24% GDP, với tốc độ tăng khoảng 10,4% mỗi năm. Trong cùng thời gian đó, chưa kể các khoản chi tiêu công để ngoại bảng, tổng chi ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc lên tới 31,5% GDP, với tốc độ tăng là khoảng 7% mỗi năm.
Đặc biệt, trong hai năm gần đây, chi thường xuyên mỗi năm đã gấp khoảng 4 lần chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. Điều này cho thấy các nỗ lực cắt giảm chi tiêu công chủ yếu nhằm vào cắt giảm chi đầu tư phát triển, còn chi thường xuyên - nhân tố được coi là có ít đóng góp hơn cho tăng trưởng kinh tế dài hạn - lại chưa được chú trọng.
Trong hai năm gần đây ngân sách Việt Nam đã vi phạm một trong những kỷ luật quan trọng của an toàn tài khóa, đó là thâm hụt ngân sách không được lớn hơn chi cho đầu tư phát triển. Tức là, muốn có an toàn tài khóa, một quốc gia không thể đi vay để tiêu dùng.
Vai trò giám sát của Quốc hội có vẻ như đang mờ nhạt và thụ động
trước các chương trình chi tiêu của Chính phủ.
trước các chương trình chi tiêu của Chính phủ.
Việc thực thi kỷ luật tài khóa ở Việt Nam được đánh giá là rất lỏng lẻo khi thâm hụt ngân sách thường xuyên vượt quá mức mục tiêu, còn nợ công và nghĩa vụ trả nợ đang ngấp nghé mức giới hạn của giai đoạn 2011-2015.Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo
Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam hiện vẫn còn ở dưới mức trần 65% quy định bởi Quốc hội. Tuy nhiên, sở dĩ tỷ lệ này vẫn nằm trong giới hạn cho phép của Quốc hội chủ yếu là nhờ việc Tổng cục Thống kê vào năm 2013 đã điều chỉnh phương pháp tính GDP, bổ sung thêm giá trị kinh doanh của ngành ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư.
Nếu không sử dụng GDP của phương pháp này, tỷ lệ nợ công/GDP và nợ chính phủ/GDP của Việt Nam đã vượt các ngưỡng cho phép 65% và 50% vào cuối năm 2014.
Bên cạnh đó, việc tuân thủ kỷ luật thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong những năm gần đây rất kém. Trong giai đoạn 2011-2015, mục tiêu của Chính phủ là đưa mức thâm hụt ngân sách giảm dần xuống còn 4,5% GDP vào năm 2015, nhưng thực tế lại cho thấy mức thâm hụt ngân sách những năm qua ngày càng trầm trọng hơn.
Thâm hụt ngân sách của các năm 2012, 2013 và 2014 lần lượt đã lên tới xấp xỉ 5,4%, 6,6% và 5,7% GDP. Những con số này cũng cao hơn so với mức dự toán 4,8% GDP mỗi năm trong các năm này. Đặc biệt, mức thâm hụt ngân sách ngày càng cao và có xu hướng vượt chi cho đầu tư phát triển, hàm ý nguy cơ Việt Nam phải vay nợ cho tiêu dùng ngày càng lớn.
Dự toán ngân sách nhà nước các năm 2014 và 2015 đều cho thấy thâm hụt ngân sách sẽ vượt chi đầu tư phát triển. Tức là, Việt Nam sẽ không chỉ phải vay nợ cho đầu tư phát triển mà còn phải vay nợ để tài trợ một phần cho tiêu dùng, vi phạm quy định đề ra trong Luật ngân sách nhà nước 2002 và Luật ngân sách nhà nước sửa đổi 2015.
Duy trì an toàn nợ công bằng cách nào ?
Trước tiên đó là cần phải thực thi các kỷ luật tài khóa một cách nghiêm minh. Mục đích của kỷ luật tài khóa là nhằm đưa ra định hướng cho chính sách tài khóa nhằm đảm bảo an ninh tài khóa trong dài hạn.
Vai trò giám sát của Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất, có vẻ như đang mờ nhạt và thụ động trước các chương trình chi tiêu của Chính phủ.
Do vậy, để tiết giảm chi tiêu công thì không thể thiếu vai trò cứng rắn của Quốc hội trong việc giám sát các chương trình chi tiêu của Chính phủ. Đồng thời, minh bạch thông tin và gắn trách nhiệm của việc tuân thủ kỷ luật tài khóa tới từng cá nhân là điều cần thiết.
Tiếp theo, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong mối quan hệ với ngân sách nhà nước cũng cần phải minh bạch và được giám sát chặt chẽ bởi Quốc hội. Thâm hụt ngân sách cao thường kéo theo sự gia tăng cung tiền ồ ạt khi ngân hàng trung ương không có sự độc lập từ chính phủ ở nhiều nước trước khi xảy ra khủng hoảng nợ.
Hệ quả là, các cuộc khủng hoảng nợ công, mặc dù được trì hoãn, nhưng khi đã xảy ra thì sẽ kéo theo lạm phát cao, đồng tiền mất giá mạnh, thâm thủng dự trữ ngoại hối và vốn quốc tế tháo chạy. Do vậy, các hậu quả kinh tế xã hội của cuộc khủng hoảng nợ công là rất trầm trọng và khó phục hồi.
Đặc biệt, việc duy trì an toàn nợ công không có cách gì khác hơn là phải bắt nguồn từ việc cắt giảm chi tiêu công, bất kể là chi đầu tư hay thường xuyên. Tỷ trọng chi thường xuyên/chi đầu tư phải được điều tiết giảm về mức phù hợp. Cắt giảm chi tiêu công và quy mô của chính phủ là việc làm rất khó khăn bởi nó thường gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ các nhóm có lợi ích liên quan.
Đó có thể là công chức/viên chức mất việc, các công ty nhà nước mất dự án đầu tư, hay các chính quyền địa phương thiếu nguồn tài trợ từ trung ương, v.v... Tuy nhiên, đây là một việc không thể né tránh nếu muốn duy trì an toàn tài khóa trong tương lai.
Không một ngân sách quốc gia nào trên thế giới có thể kham được một bộ máy hành chính lớn, song hành giữa Đảng và chính quyền, như ở Việt Nam. Thúc đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa hai cơ quan này sẽ giúp giảm nhiều bộ máy hành chính cồng kềnh, trùng lắp, và thiếu hiệu quả hiện tại.
Cuối cùng, nhưng có lẽ là quan trọng nhất, một chương trình cải cách chi tiêu công toàn diện nghiêm túc cần phải được nghiên cứu và thực hiện, bao phủ các nội dung từ việc xây dựng các quy tắc chi tiêu, cơ chế phân bổ và phân cấp chi tiêu, phân loại chi tiêu, xác định phạm vi tài trợ của ngân sách.
Những nội dung của chương trình cải cách này phải tạo ra được các khuyến khích cũng như trừng phạt sao cho hướng tới giảm thiểu được các chương trình chi tiêu lãng phí, thu hẹp bộ máy hành chính và chống lạm phát cán bộ lãnh đạo, thúc đẩy quá trình rút lui khỏi thị trường và phát huy vai trò của một nhà nước kiến tạo phát triển.
Ts.P.T.A/Tư Hoànglược thuật/(Thông Luận)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét