Thứ Tư, 13 tháng 2, 2019

20190213. BÀN VỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG NĂM 1979

ĐIỂM BÁO MẠNG
TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC BIÊN GIỚI  VIỆT NAM NĂM 1979 VÀ BÀI HỌC QUAN HỆ VỚI NƯỚC LỚN

NGUYỄN HUY VIỆN/ GDVN 13-2-2019


Đặng Tiểu Bình đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979 ngay sau chuyến công du Hoa Kỳ gặp Jimmy Carter, ảnh: flickr.

Cách đây vừa tròn 40 năm, ngày 17/2/1979, Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn xâm lược Việt Nam - nước láng giềng mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đó luôn khẳng định: “vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Trong cuộc chiến tranh này, Trung Quốc huy động trên 600.000 quân, tấn công toàn tuyến biên giới Việt - Trung trên bộ, với chiều dài 1449,566 km.
Quân số Trung Quốc tham chiến trong cuộc chiến tranh này đông hơn các đạo quân của Mỹ và Pháp xâm lược Việt Nam trước đó.
Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, thời điểm cao nhất, Mỹ tham chiến trên chiến trường gần 550.000 quân; Pháp khoảng 250.000 quân. [1]
Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc theo Đặng Tiểu Bình chỉ là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, nhưng đã xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập; để lại tổn thất nặng nề về nhân lực, vật lực cho nhân dân hai nước; để lại vết thương sâu sắc cho quan hệ của hai quốc gia.
Từ Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc và một số sự kiện lịch sử, người viết bài có đôi điều bàn về quan hệ giữa nước lớn với nước bé ở các khía cạnh dưới đây:
Khi người cầm quyền của nước lớn chỉ vì mục tiêu và lợi ích quốc gia hẹp hòi thì mọi cam kết, hứa hẹn của họ với nước bé dễ bị hủy bỏ
Trước năm 1979, trong tất cả các tuyên bố chung được những người đứng đầu hai nước Việt Nam và Trung Quốc ký kết đều khẳng định quan hệ Việt - Trung là mối quan hệ đồng chí, láng giềng đặc biệt, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Xuất phát từ quan điểm trên đây, thời đó trong đường lối đối ngoại, Việt Nam xác định quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là hòn đá tảng chiến lược.
Lãnh đạo Trung Quốc cũng thường xuyên khẳng định quan hệ hữu nghị với Việt Nam là quan hệ đồng chí, anh em láng giềng “như môi với răng”.
Năm 2017, trước khi sang dự Hội nghị APEC do Việt Nam đăng cai, ông Tập Cận Bình - Tổng Bí thư Đảng cộng sản, Chủ tịch Trung Quốc gửi bài viết đăng trên Báo Nhân Dân (08/11/2017), có tiêu đề: “Mở ra cục diện mới hữu nghị Trung - Việt”.
Trong bài viết này, ông Tập Cận Bình, tiếp tục nhắc lại câu nói từ những năm 60 thế kỷ XX của Mao Trạch Ðông (Chủ tịch Trung Quốc 1949 - 1976):
“700 triệu người dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững chắc của nhân dân Việt Nam, Trung Quốc bao la là hậu phương tin cậy của nhân dân Việt Nam.". [2]
Nhưng trên thực tế thì sao?
Trên thực tế người đồng chí, người anh em của chúng ta đã phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979. Trước đó, năm 1956, họ đưa quân chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tiếp đến ngày 19/01/1974, Trung Quốc chiếm đóng trái phép toàn bộ phần còn lại quần đảo này của nước ta.
Ngày 14/3/1988, Hải quân Trung Quốc đã gây ra vụ thảm sát dã man 64 chiến sĩ Công binh Hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ canh giữ chủ quyền của Tổ quốc ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Sau đó, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép 5 bãi đá ngầm của Việt Nam ở khu vực này.
Như vậy, vì mục đích chính trị, vì tham vọng mở rộng lãnh thổ lãnh đạo Trung Quốc đã hủy bỏ mọi cam kết giữa hai quốc gia và xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Vì lợi ích quốc gia, khi cần các nước lớn sử dụng các nước bé như những quân cờ
Hơn ai hết, người Việt Nam rất thấm thía điều này. Tháng 2/1972, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc Việt Nam đang ở giai đoạn gay go quyết liệt, Mao Trạch Đông đã mời Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Bắc Kinh.
Theo các nhà phân tích thời sự quốc tế, một trong những nội dung quan trọng nhất chuyến thăm của Nixon là tìm kiếm thỏa thuận với Trung Quốc để đảm bảo cho Mỹ kết thúc Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam có lợi nhất.
Luật gia J. Amter, đồng Chủ tịch Hội nghị Nhà trắng nghiên cứu về công tác quốc tế của Mỹ, người nắm nhiều tài liệu đặc biệt quan trọng của cuộc chiến Việt Nam qua các đời Tổng thống Mỹ, đã viết về chuyến đi Bắc Kinh của Nixon trong cuốn “Lời phán quyết về Việt Nam”:
“Trên thực tế, Nixon gợi ý Trung Quốc ép Hà Nội chấp nhận những điều kiện hòa bình của Mỹ và tổng thống Nixon muốn Bắc Kinh giúp ông ta thương lượng với Hà Nội những điều kiện hòa bình thuận lợi (cho phía Mỹ) đó”. [3] 
J. Amter viết tiếp: “Nixon nói rằng nếu Bắc Kinh giúp làm giảm các căng thẳng ở Việt Nam thì Nixon thấy không có lý do tại sao các lực lượng Mỹ ở Đài Loan lại không thể rút đi”.
Theo J. Amter: “Đó là “thông điệp” của Nixon trực tiếp gửi đến Trung Quốc, rằng: “Mỹ hoàn toàn sẵn sàng thỏa hiệp vấn đề Đài Loan để đổi một giải pháp ở Việt Nam”! [4] (sđd, tr.374).
Phải chăng, tháng 1/1974, Trung Quốc đưa quân chiếm quần đảo Hoàng Sa (lúc đó do quân đội Việt Nam Cộng hòa - đồng minh của Mỹ quản lý), nhưng Mỹ làm ngơ cũng nằm trong “thông điệp” của Nixon chuyển tới lãnh đạo Trung Quốc?
Ngày 28/01/1979, Đặng Tiểu Bình thực hiện chuyến công du Hoa Kỳ với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc.
Một trong những mục tiêu hàng đầu của chuyến thăm này là dọn đường đưa quân xâm lược Việt Nam.
Hai ngày sau khi từ Mỹ trở về, Đặng Tiểu Bình triệu tập phiên họp Bộ Chính trị mở rộng, giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam. 
Qua đó, có cơ sở để có thể khẳng định, Đặng Tiểu Bình đã đạt được thỏa thuận với Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Jimmy Carter trong việc đưa quân xâm lược Việt Nam.
Qua các sự kiện trên đây có thể thấy, vì lợi ích quốc gia, các nước lớn sử dụng các nước bé như những quân cờ, cho dù đó là đồng chí hay đồng minh. 
Hãy nhìn hành động, đừng chỉ nghe lời nói 
Có một nội dung mà từ hàng chục năm nay, luôn được lãnh đạo hai nước Việt - Trung khẳng định trong các tuyên bố chung hoặc thông cáo báo chí khi viếng thăm nhau, đó là:
Hai bên cần xử lý tốt vấn đề trên biển trên tinh thần tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hai bên cần thực hiện nghiêm túc nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển và các quy định của luật pháp quốc tế để giải quyết hòa bình tranh chấp trên biển.
Hai bên cần kiểm soát tốt bất đồng, không có hành động làm phức tạp tình hình, góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Ai cũng có thể thấy, Việt Nam luôn nhất quán thực hiện quan điểm trên đây cả trong lời nói và việc làm.
Nhưng với Trung Quốc thì hoàn toàn khác. Trên thực tế, ở quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa (của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép), Trung Quốc đã huy động tối đa nhân lực, vật lực để biến các đảo mà họ chiếm đóng thành các căn cứ quân sự.
Đến nay, Trung Quốc đã bồi đắp các bãi đá ngầm thành các đảo nhân tạo, có tổng diện tích trên 13 km2 (chiếm khoảng 95% tổng diện tích các đảo đảo tự nhiên và đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa). [5]
Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài và qua hình ảnh vệ tinh cho thấy, Trung Quốc đang khẩn trương biến các đảo chiếm đóng trái phép của Việt Nam thành những căn cứ quân sự hiện đại, khống chế toàn bộ biển Đông và khu vực Đông Nam Á.
Qua đó cho thấy, hành động của Trung Quốc khác xa (không muốn nói là trái ngược) với những gì mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cam kết với lãnh đạo Việt Nam trên các bàn hội nghị.
Từ ba vấn đề trên đây có thể rút ra bài học rằng, với những nước lớn có tư tưởng cực đoan về lợi ích dân tộc, trong quan hệ với nước bé, họ sẵn sàng bỏ qua các hiệp ước, các cam kết; bỏ qua tình đồng chí, đồng minh với nước bé; sẵn sàng bán rẻ lợi ích của nước bé để bắt tay các nước lớn khác, phục vụ cho lợi ích quốc gia mình.
Cho nên, đòi hỏi nước bé phải luôn tỉnh táo, cảnh giác với đối sách của các nước lớn, nhất là nước lớn láng giềng, nước lớn có tư tưởng dân tộc cực đoan. Có như vậy các nước bé mới không bị biến thành quân cờ trong tay các nước lớn.
Quay lại luận bàn về cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc tháng 2/1979. Phải khẳng định đây là cuộc chiến tranh Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam và dân tộc ta phải một lần nữa đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Trên quan điểm đó, cần phải loại bỏ tư tưởng e ngại khi luận bàn cuộc chiến ái quốc này của dân tộc.
Và cũng đừng cho rằng phê phán một cách khoa học và khách quan tính chất phi nghĩa, xâm lược của Trung Quốc trong việc gây ra cuộc chiến tranh tháng 2/1979 và việc họ đã và đang thôn tính biển đảo của Việt Nam, là kích động, chia rẽ quan hệ Việt - Trung.
Có như vậy mới tôn trọng và công bằng với sự hy sinh của hàng chục nghìn chiến sĩ và đồng bào trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tháng 2/1979 và các trận chiến bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông.
Cũng chỉ như vậy mới đảm bảo được sự công bằng, khách quan, chính danh của lịch sử.
Cho nên cần phải đánh giá, tổng kết và tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ về tính phi nghĩa của nước đi xâm lược và tính chính nghĩa chống xâm lược của dân tộc ta trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc tháng 2/1979, tương xứng như các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Thay cho lời kết, người viết xin trích dẫn quan điểm rất xác đáng của Phó giáo sư Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng về Cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc tháng 2/1979:
"Đây là cuộc chiến tranh quy mô lớn, cuộc động binh xâm lược mà không dùng từ nào khác để diễn tả đúng bản chất của nó.
Nếu không đề cập đến thì mười năm, hai mươi năm nữa con cháu lớn lên không hiểu gì về mối quan hệ Việt - Trung giai đoạn này. Để cho thế hệ sau không biết gì hoặc hiểu sai về cuộc chiến là có tội với lịch sử". [6]
Tài liệu tham khảo:
[1] https://vnexpress.net/projects/chien-tranh-bien-gioi-phia-bac-nhung-dieu-khong-the-quen-3542378/index.html
[2] http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/34654802-mo-ra-cuc-dien-moi-huu-nghi-trung-viet.html.
[3] NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 1985, trang 375.
[4] SĐD, tr.374).
[5] http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Gio-Gac-Ma-nhin-lai-qua-trinh-Trung-Quoc-thon-tinh-Hoang-Sa-mot-phan-Truong-Sa-post184439.gd
[6] https://vnexpress.net/projects/chien-tranh-bien-gioi-phia-bac-nhung-dieu-khong-the-quen-3542378/index.html
NGUYỄN HUY VIỆN
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:
BIÊN GIỚI THÁNG 2/1979: BÀI HỌC XƯƠNG MÁU CHO HẬU THẾ 

HOÀNG VIỆT/ TVN 13-2-2019
 Nguyên nhân nào đã dẫn đến việc Trung Quốc vốn “vừa là đồng chí vừa là anh em” đã đột ngột tấn công Việt Nam như vậy? Và bài học kinh nghiệm của Việt Nam từ cuộc chiến này?
 Biên giới tháng 2/1979: Bài học xương máu cho hậu thế
Cách đây 40 năm, “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào trận chiến đấu mới".

Cách đây 40 năm, cũng vào ngày này, Trung Quốc đã xua quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam. “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào trận chiến đấu mới. Quân xâm lược bành trướng Bắc kinh, đã dày xéo mảnh đất tiền phương. Lửa đã cháy và máu đã đổ, trên khắp nẻo quê hương.”
Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 này tuy chỉ kéo dài 16 ngày, nhưng sự căng thẳng giữa Việt Nam với Trung Quốc sau cuộc chiến còn kéo dài cho đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Và hệ lụy của cuộc chiến còn dai dẳng cho đến tận bây giờ.
Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến việc Trung Quốc vốn “vừa là đồng chí vừa là anh em” đã trở mặt tấn công Việt Nam như vậy? Mặc dù cả hai bên đều tuyên bố mình đã chiến thắng, nhưng dưới con mắt của các nhà  nghiên cứu sẽ đánh giá thắng lợi của các bên như thế nào? Và bài học kinh nghiệm của Việt Nam từ cuộc chiến này sẽ ra sao?
Nguyên nhân cuộc chiến
Nguyên nhân dẫn đến việc Trung Quốc khởi phát cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới này thì có nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên có những điểm chung, đó là bởi những va chạm về lợi ích và tính toán chiến lược của Trung Quốc trong bối cảnh khu vực và quốc tế lúc bấy giờ.
King C. Chen trong một công trình nghiên cứu của mình cho rằng Trung Quốc khởi phát cuộc chiến bởi các nguyên nhân sau: Sự thăng trầm trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt một thời gian dài; Tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa hai quốc gia; Sự gia tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại châu Á; Vấn đề Campuchia dưới thời Khmer đỏ; Làn sóng di tản của Hoa kiều tại Việt Nam.
Thăng trầm trong quan hệ Việt - Trung
Mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã rất tốt đẹp từ khi hai quốc gia này được thành lập. Trước đó, giữa hai Đảng cộng sản cũng đã có mối quan hệ khăng khít. Tuy nhiên, càng về sau, đặc biệt từ 1970 trở đi, quan hệ giữa hai nước không còn tích cực như trước.
Điều này được Sophie Quinn Judge lý giải là Việt Nam ngày càng độc lập khỏi khuynh hướng Maoist từ Trung Quốc, trong đó Việt Nam đã từ chối tiến hành cuộc Cách mạng Văn hóa theo đường lối của Mao Trạch Đông. Việt Nam cũng độc lập trong các quyết định của mình, việc tấn công Việt Nam Cộng hòa để thống nhất đất nước năm 1975 rõ ràng đã khiến Trung Quốc không hài lòng.
Campuchia dưới thời Khmer đỏ
Trung Quốc luôn muốn mở rộng ảnh hưởng của mình tại khu vực châu Á, trong đó Đông Nam Á là khu vực Trung Quốc muốn mình chi phối, Campuchia là trường hợp điển hình. Năm 1963, sau cái chết của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Shihanouk đã lo sợ nên đã yêu cầu tất cả các phái đoàn quân sự và hỗ trợ kinh tế của Hoa Kỳ rút khỏi Campuchia. Ngay lập tức, sự hiện diện của Trung Quốc đã thế chỗ của Hoa Kỳ tại Campuchia.
Tháng 3 năm 1970, Lon Non với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, đã tiến hành cuộc đảo chính, lật đổ Shihanouk. Shihanouk cùng liên minh của mình chống lại Lon Non cùng Hoa Kỳ. Trung Quốc đã ủng hộ Shihanouk. Shihanouk đã ở lại Bắc Kinh từ 1970 cho đến 1975. Sau đó, Trung Quốc đã hỗ trợ và cung cấp vũ khí cho Khmer Đỏ để tấn công và lật đổ chính quyền Lon Non.
Trung Quốc với các lợi ích địa chiến lược của mình, đã ngăn ngừa ảnh hưởng của Việt Nam tại Đông Dương, tăng cường ảnh hưởng của mình tại khu vực này bằng cách đẩy mạnh hỗ trợ cho Khmer Đỏ - vốn nhiệt thành xây dựng mô hình Maoist tại Campuchia.
Sau đó Khmer Đỏ đã cho quân tấn công một số khu vực tại biên giới Việt Nam – Campuchia năm 1978, tàn sát nhiều người dân thường Việt Nam tại các vùng biên giới. Việt Nam đã phải tự vệ và sau đó đã tấn công vào trung tâm chính quyền của Khmer Đỏ tại Phnompenh. Và một lý do quan trọng để Bắc Kinh tấn công Việt Nam là muốn giải cứu cho lực lượng Khmer đỏ, buộc Việt Nam phải rút lực lượng quân sự từ Campuchia đối phó với quân đội của Bắc Kinh.
Các tranh chấp biên giới, lãnh thổ Việt – Trung
Một nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến là các tranh chấp dai dẳng giữa hai nước về biên giới và lãnh thổ. Vào thời điểm đó, khi quan hệ hai nước xấu đi, các tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa hai bên lại trở nên trầm trọng. Tranh chấp lúc đó bao gồm tranh chấp biên giới trên đất liền, tranh chấp phân định biển tại Vịnh Bắc Bộ và tranh chấp trên biển Đông.
Sau này, các học giả Trung Quốc, trong đó có PGS Hoàng Tranh biện minh lý do dẫn đến việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh biên giới trên bộ của Việt Nam là do “VN chuẩn bị tấn công chiếm quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc nên Trung Quốc phải tự vệ trước”. Đây là một sự biện minh ngớ ngẩn cho một hành vi côn đồ, vi phạm luật quốc tế.
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia hành xử chủ quyền hòa bình, liên tục và lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này. Chính vì vậy, không có chuyện Việt Nam chuẩn bị tấn công chiếm đảo của Trung Quốc. Thứ hai, theo quy định tại điều 51 của Hiến chương LHQ, một quốc gia có thể tự vệ khi bị xâm lược, nhưng đằng này, Trung Quốc đã chủ động tấn công xâm lược Việt Nam trước, như vậy, không có chuyện đó là cuộc chiến tranh tự vệ được. 
Sự gia tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại châu Á
Từ năm 1970 trở đi, Liên Xô tìm cách tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng tại châu Á để đối trọng lại với các đối thủ Hoa Kỳ và Trung Quốc. Mặc dù cùng thuộc “phe XHCN” nhưng quan hệ giữa Trung Quốc với Liên Xô đã rơi vào cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Đỉnh điểm của quan hệ căng thẳng này là Trung Quốc đã chủ động tấn công Liên Xô để giành quyền kiểm soát đảo Zhen Bao năm 1969.
Sau này, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy đã nhận xét là Trung Quốc luôn “tiên thủ hạ vi cường”, “thà ta phụ người còn hơn để người phụ ta”. Liên Xô đã ký kết một loạt các hiệp định song phương về an ninh với các nước châu Á. Liên Xô ký hiệp ước với Ấn Độ năm 1971, với I Rắc năm 1972, với Afganistan năm 1978, với Việt Nam năm 1978, với Nam Yemen năm 1979 và với Syria năm 1980.
Cùng với việc tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng của Liên Xô, sự không hài lòng của Trung Quốc càng trở nên sự căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung. Ngày 3/11/1978, Việt Nam và Liên Xô đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt – Xô. Điều này dường như càng “chọc giận” Trung Quốc.
Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô ghi nhận: “Hai bên tham gia ký kết Hiệp ước phải có trách nhiệm trao đổi quan điểm về tất cả các vấn đề quốc tế liên quan đến lợi ích của hai nước. Trong trường hợp một quốc gia khác tấn công hoặc đe dọa tấn công, hai bên ký kết hiệp ước phải ngay lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh của hai nước.”
Lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, trong lúc đi thăm Thái Lan đã gọi Hiệp định này là “đe dọa an ninh và hòa bình của châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới”. Thêm nữa, Liên Xô lại đang đóng quân tại cảng Cam Ranh, vốn là một hải cảng có vị trí chiến lược tốt nhất khu vực cho các tàu ngầm. Điều này đã làm dấy lên nỗi bực dọc của Trung Quốc.
Vấn đề Hoa kiều di tản khỏi Việt Nam
Sau năm 1975, với chính sách Cải tạo công thương nghiệp và đánh tư sản, các Hoa kiều tại miền Nam đã cảm thấy sự bất ổn, dẫn tới làn sóng Hoa kiều di tản khỏi Việt Nam đến các quốc gia khác làm ăn, sinh sống. Sự căng thẳng giữa hai quốc gia lại thúc đẩy cho việc các Hoa kiều rời bỏ Việt Nam, trong đó có cả các Hoa kiều sống dọc biên giới trên đất liền đã phải trở về cố hương.
Tất cả các nguyên nhân trên đã dẫn tới việc Trung Quốc khởi phát cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam năm 1979.

Biên giới tháng 2/1979: Bài học xương máu cho hậu thế
Cách đây 40 năm, “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào trận chiến đấu mới".
Đánh giá về thắng lợi của hai bên
Sau cuộc chiến kéo dài 16 ngày, Trung Quốc đột ngột rút quân khỏi Việt Nam. Phía Trung Quốc tuyên bố đã thành công trong việc “dạy cho Việt Nam một bài học”, nhưng thực chất thì thực lực quân sự và chi phí cho cuộc chiến đã khiến Trung Quốc phải kết thúc cuộc chiến.
Trong nghiên cứu của King C. Chen, tác giả cho biết phía Việt Nam tuyên bố là đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Phía Trung Quốc thì cho rằng đã tiêu diệt và làm bị thương 50.000 quân Việt Nam. Còn một số nguồn thông tin khác thì cho biết quân số bị chết và bị thương của hai bên xấp xỉ nhau. Nguồn của King C. Chen cũng cho biết có khoảng 30.000 lính Trung Quốc bị thương phải nhập các bệnh viện ở Quảng Tây.
Một số mục tiêu của Trung Quốc đã không đạt được thành công. Trung Quốc đã không tiêu diệt được các cánh quân chủ lực nào của Việt Nam. Trung Quốc cũng không thể chiếm giữ các vùng đất của Việt Nam được. Cuộc chiến biên giới cũng không khiến Việt Nam rút quân khỏi Campuchia như Trung Quốc mong đợi. Trung Quốc cũng không thể dùng cuộc chiến này mà buộc Việt Nam thay đổi các chính sách đối ngoại được.
Tuy nhiên, mục tiêu lớn nhất mà Trung Quốc đạt được qua cuộc chiến này chính là việc lãnh đạo Trung Quốc đã nhận thấy được sự lạc hậu và yếu kém của quân đội Trung Quốc, cả về vũ khí, khí tài và chiến lược quân sự cũng như hoạt động tác chiến trên chiến trường thực địa. Từ đó, lãnh đạo Trung Quốc đã quyết tâm hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Đối với Việt Nam, hai bài học sâu sắc mà Việt Nam thấm thía, đó là: Không thể bảo vệ Tổ quốc khi trông chờ vào một cường quốc thông qua một hiệp ước. Hiệp định Hợp tác và Hữu nghị Việt – Xô ký chưa ráo mực, nhưng khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, vẫn không thấy Liên Xô có động thái quyết liệt nào theo tinh thần của Hiệp định.
Thứ hai là cuộc chiến tranh Biên giới 1979 đã khiến cho Việt Nam thêm kiệt quệ về kinh tế. Mặc dù, Việt Nam vẫn đạt được những thắng lợi nhất định. Tuy nhiên, cái giá phải trả về kinh tế cũng rất lớn. Trận chiến tuy kéo dài 16 ngày, nhưng hệ lụy của nó rất lớn, mãi tới tận sau này.
Cho tới nay, cuộc chiến đã trôi qua 40 năm, rất nhiều người trẻ dường như không nhớ gì về cuộc chiến này.  Mặc dù vậy, phải nói rằng, cuộc chiến này đã có một phần tác động đến Việt Nam, đặc biệt trong đường lối đối ngoại đa phương, đa dạng hóa, sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới như hiện nay.
Việt Nam đã và đang áp dụng chính sách quốc phòng “Ba không”, theo đó, Việt Nam không tham gia  một liên minh quân sự nào, cũng không cho quốc gia nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và Việt Nam đã quá hiểu cái giá phải trả cho việc chạy theo các cường quốc, nên quyết định không tham gia trò chơi nước lớn, không chạy theo bên này để chống bên kia.
Có lẽ, nhiều người cũng đã hiểu tại sao Việt Nam kiên quyết từ chối tham gia các liên minh quân sự. Bởi chúng ta đã thấm thía việc bảo vệ Tổ quốc phải do chính chúng ta, mà muốn vậy, chúng ta phải xây dựng đất nước hùng cường. Muốn xây dựng đất nước hùng mạnh, chúng ta phải gìn giữ được nền hòa bình của chúng ta.
Hoàng Việt
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN:
CHIẾN TRANH VIỆT-TRUNG 1979: NGUYÊN NHÂN VÀ MỤC TIÊU

VIỆT LONG/ NCQT 12-2-2019

Kính tặng những người đã đổ máu, sức lực cho biên giới mãi trường tồn
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến đi bí mật của cố vấn Kissinger đã đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung năm 1972 tại Thượng Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn các tính toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trung Quốc muốn duy trì hai miền Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình.
Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm 1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm 1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác. Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao Trung Quốc đánh Việt Nam? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không? Số lượng quân tham chiến mỗi bên? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất? Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979?…Các tài liệu chiến tranh đều không được hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài. Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh này là do Trung Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì? Đâu là mục tiêu chính?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự: biên giới, chính trị, quân sự, kinh tế.
Mục tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ:
Chỉ trong vòng sáu tháng qua người Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn châu Á.
Lập trường kiên định của Chính phủ và nhân dân Trung Hoa là “chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị tấn công, – nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công”. Các đạo quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý ”.[1]
Theo tuyên bố này, hành động của Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân: tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) , chống lại sự “tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt – Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa” để “có một đường biên giới hòa bình và ổn định” theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc chiến do Trung Quốc phát động là: “tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn”.[2]
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà Cộng sản Trung Hoa đã phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà Cộng sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến. Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam; xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần”.
Theo Nguyễn Ngọc Minh,[3] từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974: 179 vụ; 1975: 294 vụ; 1976: 812 vụ; 1977: 873 vụ; 1978: 2175 vụ; 1979: trước ngày 17/2/1979, 230 vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết: năm 1974 – 179 vụ, trong đó có vụ rất nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh – Cao Bằng) và vào 16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông – Sóc Giang, Cao Bằng; dùng hàng ngàn người gây nên trận “mưa đá” làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương); năm 1975 – 294 vụ (gấp đôi năm 1974); năm 1976 – 812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3 lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam  lên đến 300 người; năm 1977 – 873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với hung khí  (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng); năm 1978 – 2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương 72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam.[4]
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng “từ năm 1975 đến 16 tháng 2 năm 1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số liệu các sự việc đó như sau: năm 1975: 439 vụ; năm 1976: 986 vụ; năm 1977: 572 vụ; năm 1978: 1108 vụ; năm 1979 (tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979): 129 vụ.”
Khó có thể đánh giá con số nào là chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh 180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng 20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng, cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước ngoài định cư khác.[5]
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam đã vào quốc tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất.[6] Trong khi hai bên chưa thống nhất thì người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. mà không có sự đồng ý của Hà Nội.[7] Các tổ chức này tuyên truyền, nhập khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang.[8] Để đối phó với sức ép chiến tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân Việt Nam tiến hành cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp” năm 1978. Nó tác động đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa.[9] Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, gây ra vấn đề “nạn kiều” cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp lực với chính quyền sở tại. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Đây là động thái gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.[10] Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tổ chức cho người Việt gốc Hoa  vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày 28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc không muốn đón “những khúc ruột ngoài ngàn dặm” khi họ không có giấy nhập cảnh của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người có quốc tịch Việt Nam. Đáng chú ý, trong khi phản ứng với chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại. Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với lục địa; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa[11]…. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống  “tiểu bá” Việt Nam và “đại bá” Liên Xô.[12] Trung Quốc cũng có chính sách phân biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Polpot, đồng minh của Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại. Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc “đến cuối năm 1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt kinh tế và xã hội vv … Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955 giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp và sự “phản bội đồng chí” của Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là các nguyên nhân sau:
  1. Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
  2. Việt Nam đánh tư sản mại bản xua đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
  3. Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  4. Cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Womack lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam với Liên Xô, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia trong tháng 12 năm 1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Hoa của Việt Nam, và các tranh cãi về lãnh thổ”.[13]
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới, chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy.[14]
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”.[15] “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”.[16] Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các bài xã luận: “Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ nghĩa Nga Xô”.[17]
Tại họp báo trong chuyến thăm Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia”.[18] Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học.[19] Herbert S. Yee bình luận “Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào  và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung Quốc hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa vào trong một vũng lầy” tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.[20] Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc, hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình,[21] thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô quy định: “Trong trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”. Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn: “Không  bên nào tìm kiếm bá quyền tại châu Á-Thái Bình dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền”.[22]
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt – Xô là mối de dọa đối với các nước ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” là: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[23]. Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một từ biên giới Xô – Trung, hai từ biên giới Việt – Trung thông qua vai trò của Việt Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô đứng đầu. Bruce Elleman nhận định “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.[24] Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống XHCN, hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn phát triển quan hệ với Mỹ.[25]
Mục tiêu quân sự: tiêu diệt một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các “cối xay thịt” để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế: làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội: Tấn công Việt Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng, Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết,[26] Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô. Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô – Trung 1969 ta thấy có những điểm khá tương đồng. Xung đột tháng 3 năm 1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung cho Đặng Tiểu Bình cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền chỉ có tính “tự vệ” song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới Việt – Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
Mục tiêu của Việt Nam
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại. Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 18/2/1979: “Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, những kẻ cầm quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh thổ nước ta dọc theo biên giới từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn, các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta. …Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc”.
Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi it được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm:
  • Bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Bắc.
  • Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
  • Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
  • Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy mô lớn.
  • Đánh bại về mặt chiến thuật lực lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém.[27]
Cuộc chiến 1979 được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo diễn biến và mục tiêu phía Trung Quốc đặt ra. Lúc đầu nó được gọi là cuộc chiến ‘dạy cho Việt Nam một bài học”, là “phản kích tự vệ”, sau đó lại đổi thành “đánh trả”, dù nghĩa đó dùng cho phía Việt Nam mới tương xứng. Việt Nam xác định Trung Quốc “phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km”.[28]Phương Tây gọi nó là cuộc chiến giữa những người anh em đỏ. Song cái tên đúng nghĩa về cả không gian và thời gian của cuộc chiến  vẫn là chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Cuộc chiến này được Trung Quốc coi là “phản kích tự vệ” các hành động xâm lược của Việt Nam, một nước có diện tích, số dân và tiềm lực kinh tế nhỏ hơn Trung Quốc hàng chục, hàng trăm lần. Cuộc chiến 1979 xảy ra ngay sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia để thực hiện quyền tự vệ chính đáng và cứu dân tộc anh em khỏi họa diệt chủng. Phía Trung Quốc hoàn toàn chủ động lựa chọn thời điểm tấn công, quy mô chiến tranh và chỉ phải đối phó với lực lượng dân quân du lích của Việt Nam trong khi quân chính quy Việt Nam còn ở phía Nam. Trên góc độ chính trị, quân sự, rõ ràng Việt Nam không có lý do gì để “xâm lược Trung Quốc”, tự tạo ra thế bị ép hai mặt, khó tránh khỏi diệt vong.
Phía Việt Nam cho rằng đây là một cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh – Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra “mô hình dạy một bài học” của Trung Quốc lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 33 ngày năm 1962.  “Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất lực của quốc gia nạn nhân.  Cũng với cùng “mô hình dạy một bài học” này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam.  Bất hạnh thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ”.[29] Gerald Segal  kết luận “những tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công”.[30]
Hai lý do chính liên quan đến biên giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế,  hoàn toàn có thể giải quyết hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì không thể gọi là “phản kích tự vệ”. Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định nghĩa “xâm lược” trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé”, một “hành động trả thù vô cớ”, một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc vẫn được coi là một bên sáng lập.
(Còn nữa)
———–
[1]Statement by Xinhua News Agency upon Authorization of the Government of PRC on February 17, 1979, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118480
[2] Sự thật quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, tháng 10 năm 1979, phần 4.
[3]Nguyễn Ngọc Minh, “Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế;” UBKHXHVN, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội: KHXH, 1979), tr. 126-127, 130-131
[4]Huỳnh Văn Trình, Sự hình thành đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, 1979, Uỷ ban Biên giới quốc gia.
[5] Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[6] Statement of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China on the expulsion of Chinese residents by Vietnam on June 12. 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118404
[7] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, Hà Nội tháng 10 năm 1979, phần 4
[8]Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, chương V Nạn Kiều, tr. 67
[9] King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, 1987, pp. 51-53 (King C. Chen, China’s War with Vietnam)
[10]Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978, http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118403
[11] D.V. Mosiakov, Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á từ quá khứ đến hiện tại,Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) dịch, NXB Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội 2016, 358 trang.
[12]Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India), Volume 16, No 1, 1980, p. 15-32.
[13]Womack, Brantly.  China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, Cambridge University Press 2006, p. 192
Vogel, Ezra F.  Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard University Press, 2013. Chapter 9.  The Soviet-Vietnamese Threat 1978– 1979, pp 266-276
[14]King C. Chen, China’s War Against Vietnam, A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[15]Renmin Ribao, 9 Tháng Một 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 12 Tháng Một 1979).
[16]Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, No 1, 1980, p. 69.
[17]“Regional hegemonist policy,” “Indochina Federation,” They found a patron in Soviet social-imperialism;” Tighter to the apron strings of social-imperialism”. Renmin Ribao(Beijing), 4/9/1978; Peking Review No 36, 8/9/1978, pp. 23-4.
[18]Renmin Ribao, 9 November 1978.
[19]Beijing Review, 9 February 1979, p. 13; và New York Times, 1 February 1979.
[20]Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[21]Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego – New York – London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, p.134
[22] Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979, http://13ndxw3o9yns2zjjq31htyst.wpengine.netdna-cdn.com/wp-content/uploads/2017/08/choices-china-US-china.pdf
[23]邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话, Junshi.xilu.com.

[24]Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996

[25]Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt Nam “Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng Sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món quà tặng cho Mỹ”.
[26] Thẩm Thính Tuyết, diễn đàn “Điểm lại cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979” tổ chức ngày 9/2/2015 ở Hồng Kông, trích lại từ Kiều Tỉnh, http://soha.vn/quoc-te/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het-20160216223609194.htm, 18/2/2016.
[27]John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States Army, Strategy In Regional Conflicy: A Case Study of China in the Third Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania: U. S. Army War College, 2001, 48 p.
[28] Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
[29]Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000.
[30] Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 211-227

HAI CUỘC CHIẾN XÂM LƯỢC VIỆT NAM CÓ CHUNG MỘT KỊCH BẢN

TT NGUYỄN QUỐC THƯỚC/ GDVN 12-2-2019

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, ảnh do tác giả cung cấp.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cất quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979, buộc dân tộc ta một lần nữa phải vùng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng tôi viết mấy dòng thay nén tâm hương tưởng niệm hàng vạn đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống.
Nhìn thẳng vào sự thật lịch sử cuộc chiến này để trân quý hơn hòa bình được xây dựng và vun bồi từ xương máu của bao thế hệ cha anh, cũng là để giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, lòng tri ân các thế hệ đi trước.
Về đối nội, việc đánh giá đúng cuộc chiến tranh vệ quốc, ghi nhớ, tri ân, tôn vinh 4 vạn liệt sĩ cùng đồng bào đã ngã xuống là để yên lòng dân, những người đang sống. Lơ là việc này là có tội.
Về đối ngoại, việc đánh giá đúng bản chất, nguyên nhân và rút ra bài học từ cuộc chiến hoàn toàn không có nghĩa là kích động hận thù dân tộc hay chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mà để tránh lặp lại điều này trong tương lai.
Đánh giá một cách khách quan, thẳng thắn và cầu thị sự kiện lịch sử này từ cả hai phía là cách tốt nhất để góp phần hiện thực hóa phương châm hợp tác giữa 2 Đảng, 2 nước: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.
Bởi quá khứ có thể gác lại sau những đánh giá đúng mực, chứ không phải khép lại, càng không thể né tránh hay chôn vùi mà mong có một tương lai tốt đẹp.
Cần phải nói cho rõ trong cuộc chiến này ai là kẻ phi nghĩa, ai là người chính nghĩa.
Việc Trung Quốc cất quân xâm lược toàn tuyến biên giới Việt Nam tháng Hai năm 1979 buộc dân tộc ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là một sự thật, chính Trung Quốc phải rút ra bài học cho hiện tại và tương lai
Việt Nam không bao giờ gây hấn, luôn luôn mong muốn chung sống hòa bình với các quốc gia khác, nhưng dân tộc Việt Nam cũng không lùi bước trước bất cứ kẻ thù nào lăm le thôn tính bờ cõi của cha ông.
Trên tinh thần ấy, tôi xin có vài lời chia sẻ với các bạn trẻ nhân dịp xuân mới Kỷ Hợi, đồng thời nhắn nhủ với nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, công lý rằng, chính một số nhà lãnh đạo của họ thời điểm đó đã gây ra cuộc chiến xâm lược Việt Nam với nhiều toan tính.
Hai cuộc chiến chung một kịch bản
Đầu tiên, chúng tôi xin lưu ý rằng cuộc chiến tranh vệ quốc chống Pol Pot xâm lược trên biên giới Tây Nam của Tổ quốc năm 1978 và cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc tháng Hai năm 1979 là cùng chung một kịch bản.
Bản chất cuộc chiến tranh này là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược từ hai hướng, biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, mà mục đích cuối cùng của kẻ thù là làm Việt Nam suy yếu đi.
Chúng tôi phải nhấn mạnh điều này, vì nếu chỉ gọi đơn giản là "chiến tranh biên giới Tây Nam", "chiến tranh biên giới phía Bắc" dễ khiến người ta hiểu sai bản chất cuộc chiến.
Việt Nam không gây hấn hay xâm lược ai, ngược lại chúng ta bị xâm lược và buộc phải chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đây là điểm rất quan trọng, bởi từ đó mới rút ra được bài học kinh nghiệm cho mai sau. 
Trực tiếp tham gia chiến đấu chống tập đoàn phản động, diệt chủng Pol Pot -Ieng Sary ngay từ đầu, lúc đó chúng tôi vẫn nghĩ, kẻ gây ra cuộc chiến xâm lược biên giới Tây Nam và nuôi dã tâm đánh thẳng tới thành phố Sài Gòn chỉ là của nhóm Khmer Đỏ cực đoan, nhưng có thế lực bên ngoài tiếp sức.
Khi ấy còn đang chiến đấu ở chiến trường Tây Nam, chúng tôi chỉ hiểu thế thôi.
Nhưng đến lúc Trung Quốc thực hiện tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học", thì chúng tôi mới hiểu ra rằng, hai cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên hai mặt trận, biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, là cùng một kịch bản.
Phải nói đến chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới Tây Nam trước rồi mới nói đến cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới phía Bắc được.
Đánh trả quân xâm lược Pol Pot, lúc qua Campuchia truy kích Khmer Đỏ theo lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, chúng tôi mới thấy, không biết Khmer Đỏ lấy đâu ra nhiều vũ khí hạng nặng đến thế.
Xe tăng của chúng đông, pháo binh của chúng đông, phòng của chúng không đông, đạn dược của chúng nhiều, chúng có hàng nghìn xe quân sự. Khmer Đỏ lấy đâu ra?
Đánh xong mới thấy pháo của Trung Quốc, xe tăng T-59 của Trung Quốc, pháo cao xạ 2 nòng của Trung Quốc và xe Hồng Hà của Trung Quốc tràn ngập.
Lúc ấy, chúng tôi mới càng thấy rằng lãnh đạo Trung Quốc khi đó đã mượn tay Pol Pot để thực hiện một âm mưu khác với Việt Nam trên hướng biên giới Tây Nam.
Đến ngày 17 tháng Hai năm 1979, Trung Quốc đã cất quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Thời điểm đó, có 4 quân đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam thì 3 quân đoàn đang phải đối phó với tập đoàn diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary;
Miền Bắc chỉ còn Quân đoàn 1 chủ yếu là các đơn vị dự bị làm nhiệm vụ phòng thủ, nhưng là đề phòng với Mỹ chứ không phải Trung Quốc. 
Dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc là các lực lượng vũ trang địa phương, dân quân làm nhiệm vụ trong điều kiện đội hình biên chế thiếu.
Chúng ta đã giảm bớt quân số sau kháng chiến chống Mỹ từ những năm 1976, 1977 để giảm bớt gánh nặng cho nền kinh tế sau chiến tranh, cho nên nhiều đơn vị phiên hiệu thì còn, khung chỉ huy còn, nhưng quân số không còn đủ theo biên chế như trước.
Với lực lượng mỏng như vậy, Việt Nam lấy đâu ra quân "đánh" Trung Quốc mà họ tuyên truyền cho dân chúng về cuộc chiến xâm lược biên giới Việt Nam là "phản kích tự vệ"?
Hai bên cùng phải rút kinh nghiệm, tránh chiến tranh không có nghĩa "cầu hòa"
Cuộc chiến xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 là bước thứ hai để Trung Quốc đỡ đòn và để trả thù cho thất bại của cuộc chiến xâm lược trên hướng thứ nhất - biên giới Tây Nam Việt Nam - mượn tay Khmer Đỏ.
Khi tập đoàn phản động, diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary tấn công xâm lược Việt Nam và bị đánh trả đích đáng, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học".
Có những quan điểm cho rằng, việc Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước tương trợ năm 1978 là nguyên nhân dẫn đến các hành động quân sự chống Việt Nam từ phía Trung Quốc.
Nhưng chúng tôi cho rằng, nguyên nhân cơ bản hơn là một nhóm lãnh đạo Trung Quốc khi đó không muốn thấy một Việt Nam mạnh lên ở bên cạnh.
Cần phải khẳng định rõ ràng rằng cuộc chiến đấu năm 1978, 1979 trên 2 hướng biên giới là hành động tự vệ chính đáng, đập tan cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do một nhóm phản động trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc thời điểm bấy giờ, phát động.
Lịch sử có lúc thế này, lúc thế khác, đó là quy luật. Bây giờ tình hình đã khác nhiều, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã bình thường hóa trở lại, tình hữu nghị giữa hai nước cũng như hai dân tộc được khôi phục.
Để tránh lặp lại những xung đột không dân tộc nào mong muốn, chúng tôi thiết nghĩ cần gác lại quá khứ nhưng không lãng quên quá khứ.
Ngược lại, cả hai bên cần nhìn nhận, đánh giá nó một cách khoa học, khách quan và cầu thị.
Không thể có hòa bình hữu nghị lâu dài, tin cậy lẫn nhau một khi Trung Quốc vẫn đánh tráo bản chất cuộc chiến tranh xâm lược thành cái gọi là "phản kích tự vệ" như cách họ tuyên truyền cho người dân nước này.
Quyết định tiến hành hai cuộc chiến chống Việt Nam trên 2 hướng biên giới là của một nhóm lãnh đạo cực đoan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc thời điểm bấy giờ, chứ không phải mong muốn hay ý chí của nhân dân Trung Quốc.
Thiết nghĩ đây là những tiền đề quan trọng để củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi giữa hai Đảng, hai nước hiện nay.
Đó mới thực sự là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Gác lại không có nghĩa là né tránh, lãng quên hay nhập nhằng, đánh tráo bản chất cuộc chiến.
Kỷ niệm 40 năm sự kiện này, chúng tôi cho rằng cả Trung Quốc và Việt Nam đều nên nghiêm túc rút ra bài học.
Chúng ta có hàng vạn liệt sĩ, đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc năm 1979, và số binh lính Trung Quốc tử trận cũng không ít hơn, thậm chí nhiều hơn Việt Nam.
Tổn thất về con người và vật chất cả hai bên đều có, nhưng cuộc chiến tranh xâm lược này tổn hại đến chính uy tín và hình ảnh của Trung Quốc trên thế giới.
Trung Quốc nên nhìn thẳng vào vấn đề này, để tránh lặp lại vết xe đổ mà một nhóm lãnh đạo của họ từng gây ra.
Ai gây ra chiến tranh, kẻ đó phải biết rút kinh nghiệm, bởi trạng chết, chúa cũng băng hà! 
Chúng tôi cần nhấn mạnh rằng, bảo vệ hòa bình, hợp tác và hữu nghị là mong muốn, nguyện vọng chung của nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, rút bài học để tránh chiến tranh không có nghĩa là cầu hòa. 
Do đó, tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai chỉ có ý nghĩa thực tiễn, lâu dài nếu như các sự kiện lịch sử, các khúc quanh trong quan hệ Việt Nam -  Trung Quốc được hai Đảng, hai Nhà nước nói thẳng, nói thật trên tinh thần xây dựng.
Nếu ngày nay mà để xảy ra chiến tranh, thì chắc chắn người hưởng lợi không phải là Trung Quốc, mà là các đối thủ của Trung Quốc trên vũ đài chính trị toàn cầu cũng như khu vực.
Thiết nghĩ Trung Quốc cần phải ý thức rõ điều này trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực siêu cường ngày càng phức tạp.
Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ còn diễn biến rất phức tạp và khó lường.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc càng phải nghiêm túc xây dựng tình hữu nghị với các quốc gia trong khu vực trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác và hữu nghị thì Việt Nam được và Trung Quốc cũng được, xung đột hay chiến tranh thì cả hai đều suy yếu. Khi đó cái thế và lực của Trung Quốc trên trường quốc tế sẽ không còn được như hiện tại.
Hoa Kỳ có thời gian khó khăn cũng là vì sa lầy vào cuộc chiến xâm lược Việt Nam, Trung Quốc cần phải nhìn thấy điều đó.
Giữ được hòa bình, hợp tác và hữu nghị thì cả Việt Nam và Trung Quốc đều được, để xảy ra xung đột và chiến tranh thì hai bên đều mất.
Nói như vậy để thấy rằng, dân tộc Việt Nam không bao giờ khiêu chiến, gây sự với Trung Quốc để có cái gọi là "chiến tranh phản kích tự vệ", còn một khi bất kỳ thế lực nào lăm le xâm lược Việt Nam, thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!
Nhận thức chung của hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc là giữ vững hòa bình, ổn định sẽ càng được củng cố một cách thực chất, lâu dài trên cơ sở đánh giá đúng đắn các sự kiện lịch sử, khách quan và cầu thị.
Những tranh chấp do lịch sử để lại, ví dụ Trung Quốc xâm lược nốt quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và gây ra cuộc thảm sát Gạc Ma năm 1988 để thôn tính một phần quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam, sẽ từng bước phải tìm cách giải quyết bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Với bối cảnh Biển Đông đang trở thành đấu trường của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong cuộc so găng tranh giành vị thế siêu cường số 1 như hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia Đông Nam Á làm sao giữ cho được hòa bình, là điều phải tính tới. Vì sao?
Muốn đòi lại chủ quyền lãnh thổ, Việt Nam phải có sức mạnh
Cục diện Biển Đông ngày nay liên quan mật thiết và là diễn biến tiếp theo của Chiến tranh Lạnh, là địa bàn cạnh tranh chiến lược chuyển từ mâu thuẫn ý thức hệ Hoa Kỳ - Liên Xô sang tranh giành vị thế siêu cường số 1 giữa Mỹ và Trung Quốc.
Trung Quốc lần lượt xâm lược quần đảo Hoàng Sa và thôn tính một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam đều trong bối cảnh chúng ta đang trong tình thế rất ngặt nghèo và có sự thỏa hiệp, bắt tay hoặc làm ngơ của Mỹ.
Nếu như năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa vì cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc đang bước vào giai đoạn nước rút, thì cuộc thảm sát, xâm lược Gạc Ma và 5 cấu trúc địa lý ở Trường Sa tháng Ba năm 1988 diễn ra trong bối cảnh Việt Nam bị bao vây cấm vận, chiến tranh tàn phá, kinh tế kiệt quệ.
Ngay cả Hoa Kỳ là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa cũng nhắm mắt làm ngơ cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.
Liên Xô là đồng minh của chúng ta, có lực lượng quân sự đóng tại Cam Ranh thời điểm 1988 cũng không thể giúp gì trong sự kiện Trung Quốc chiếm Gạc Ma, vì bản thân họ phải tính đến lợi ích của mình trước.

Nhắc lại những điều này, chúng tôi muốn chia sẻ một điều trăn trở, rằng phải làm sao để nước nhà phát triển cường thịnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phải tự lực cánh sinh và tận dụng mọi cơ hội để phát triển đất nước ngày một giàu, mạnh.
Chỉ có như vậy, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mới được giữ vững, những phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc còn chưa về với Đất mẹ, mới có thể đấu tranh đòi lại bằng biện pháp hòa bình.
Trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cha ông ta đã từng đàm phán thành công khiến triều đình nhà Tống ở Trung Quốc trả lại phần đất đai họ xâm chiếm của Đại Việt thời Hoàng đế Lý Nhân Tông.
Cha ông ta đòi được phần lãnh thổ đã mất là nhờ tài bang giao khéo léo của những người được triều đình phó thác trọng trách. Nhưng nền tảng cho thắng lợi ấy phải là thế và lực của một đất nước hòa bình, thịnh trị, chứ không phải một quốc gia nhược tiểu.
Biết rằng Hoàng Sa, một phần Trường Sa là máu thịt của Tổ quốc Việt Nam đang nằm trong tay Trung Quốc và một số nước khác, con cháu đời đời không quên nghĩa vụ phải lấy lại, nhưng không phải là lúc này, càng không phải bằng vũ lực.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược chung 1 kịch bản trên 2 hướng biên giới Tây Nam năm 1978, phía Bắc năm 1979 cũng như cuộc chiến bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa năm 1974, bảo vệ chủ quyền Trường Sa năm 1988 là thực tế lịch sử.
Cần giáo dục cho thế hệ trẻ về các sự kiện lịch sử này với đầy đủ thông tin, bài học được đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, khoa học, cầu thị nhất.
Làm việc này không chỉ để tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của cha anh, mà còn tạo nền tảng cho sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức trong nội bộ, cũng như đấu tranh, đàm phán trong các hoạt động bang giao, củng cố hữu nghị, bảo vệ hòa bình và giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Biết người là quan trọng, nhưng biết ta còn quan trọng hơn. Chỉ khi nào nắm chắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, chúng ta mới có thể tự tin trong đối nội lẫn đối ngoại, hóa giải hận thù và nguy cơ chiến tranh.
Hàng vạn liệt sĩ, đồng bào nằm xuống năm 1978, 1979 để bảo vệ biên cương cũng như xương máu của con em Đất Việt đổ xuống vì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 cần được tôn vinh, tri ân như đồng bào, chiến sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
4 vạn liệt sĩ hy sinh trên tuyến biên giới phía Bắc đã hóa thân vào sông núi, các thế hệ thanh niên sau này cần phải nhớ rằng, trong bối cảnh ngặt nghèo, kiệt quệ sau 2 cuộc chiến tranh như thế, tưởng rằng đã được trở về với gia đình thì cha anh mình lại tiếp tục hy sinh vì Tổ quốc.
Riêng Quân đoàn 3 chúng tôi, chỉ trong 1 tháng đã phải cơ động từ chiến trường chống tập đoàn diệt chủng Khmer Đỏ ở Campuchia về miền Bắc làm dự bị chiến lược sau khi Trung Quốc nổ súng xâm lược biên giới phía Bắc, và cũng có hàng trăm liệt sĩ hy sinh.
Có tuyên dương, vinh danh xứng đáng những người ngã xuống vì Tổ quốc trên biên giới năm 1978, 1979 hay ngoài hải đảo năm 1974, 1988, thì các thế hệ sau này mới thấm được tinh thần bảo vệ Tổ quốc của cha anh và trách nhiệm của mình.
Điều này cần phải được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục cho các thế hệ trẻ, và phải để thế hệ trẻ tự rút ra được những bài học, tiếp tục gìn giữ truyền thống của cha anh, vận dụng tinh thần ấy vào hoàn cảnh mới, điều kiện mới của bản thân, gia đình và đất nước.
Không gì "nhạy cảm" bằng lòng dân
Đối ngoại rất quan trọng, nhưng đối nội quan trọng hơn, quan trọng sống còn, bởi trong có ấm thì ngoài mới êm, nội bộ loạn ly thì dễ mất nước.
Chúng tôi nhận thấy đâu đó vẫn còn những quan điểm e dè khi nhắc đến sự kiện lịch sử cuộc kháng chiến chống Trung Quốc xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979 vì "nhạy cảm".
Nhưng không có gì "nhạy cảm" bằng lòng dân.
4 vạn liệt sĩ đã ngã xuống khi đánh trả quân xâm lược cùng biết bao đồng bào, nam phụ lão ấu chết dưới tay chúng, nếu không được tuyên dương, vinh danh xứng đáng thì một mai nếu không may nổ ra chiến tranh, ai sẽ là người cầm súng ra trận bảo vệ nước nhà?
Chúng tôi cũng xin nhấn mạnh một lần nữa, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là kích động hận thù, mà để bảo vệ những gì là chính nghĩa, là lẽ phải;
Đấy là đạo lý, luân thường, đồng thời cũng để bảo vệ hòa bình và hữu nghị đúng nghĩa, xây dựng trên mối quan hệ hợp tác bình đẳng của nhân loại văn minh.
Trong kháng chiến cứu quốc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, cần phải ghi nhớ nằm lòng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Ý chí của dân tộc này đã được thử thách bởi những siêu cường hàng đầu thế giới, phải được vun bồi và thổi vào công cuộc kiến thiết đất nước giàu mạnh, sức mạnh của Việt Nam nằm ở lòng dân.
Ngược lại cũng phải nói rằng, những quan điểm bài xích quan hệ hợp tác, hữu nghị trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc hay bài bác Trung Quốc, cũng là một thái cực cực đoan phải tránh.
Đẩy Việt Nam vào thế đối đầu với Trung Quốc là đưa dân tộc vào chỗ suy vong, bởi dân tộc Việt Nam kiên cường chống ngoại xâm nhưng luôn yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu chứ không hiếu chiến.
Xử lý các vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ Việt - Trung, xử lý các vấn đề đối tượng trên nền đối tác sẽ chỉ có hiệu quả thực chất khi nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng bản chất các sự kiện lịch sử.
Cho nên khi sức khỏe còn cho phép, chúng tôi vẫn cố gắng về Vị Xuyên để thắp hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc năm 1979 và chống Trung Quốc gây hấn ở biên giới suốt thập niên 1980.
Còn có một số người e dè cho rằng việc này là "nhạy cảm", chúng tôi cho rằng nếu vì "nhạy cảm" mà né tránh việc tưởng niệm, tôn vinh, tuyên dương các anh hùng liệt sĩ như thế là có tội với Tổ quốc và có tội với những người ngã xuống.
Mỗi khi có dịp thăm lại các chiến trường xưa, chúng tôi cũng đã từng thắp hương cho những người phía bên kia khi gặp mộ phần của họ nằm lại. Có những người không dám làm điều này vì "nhạy cảm". Đã có thắc mắc, tại sao chúng tôi lại làm thế?
Chiến tranh đã lùi xa, những người bên này hay bên kia nằm xuống đều đã trở thành một phần của lịch sử.
Chúng tôi mong muốn những nghiệp duyên họ gieo trong quá khứ được hóa giải, tránh để oan oan tương báo, mới mong có hòa bình miên viễn, để hòa bình và hữu nghị thực sự đến ngay từ trong lòng người, chứ không phải các khẩu hiệu.
Thể chế có thể biến thiên theo dòng lịch sử, nhưng dân tộc mãi mãi trường tồn. Không có lợi ích nào cao hơn lợi ích quốc gia, dân tộc.
Với những khúc quanh lịch sử quan hệ Việt - Trung như cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979 cần được cả hai bên đánh giá và rút ra bài học cho mình, để không lặp lại.
Với những nước từng là kẻ thù trong chiến tranh như Pháp, Mỹ, Hàn Quốc chúng ta đã làm được, thậm chí trở thành những đối tác mật thiết, thì với Trung Quốc cũng phải như vậy, để chung sống hòa bình. 
Quan trọng hơn nữa là, với người ngoài chúng ta làm được, thì với người nhà chúng ta cũng phải học cách bao dung và chia sẻ với nhau, theo đúng tinh thần người trong một nước thì thương nhau cùng, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Xuân mới Kỷ Hợi là tròn 40 năm cuộc chiến chống cuộc chiến xâm lược do một nhóm phản động trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc thời điểm cuối thập niên 1980 phát động, chúng tôi có mấy lời tâm huyết, vừa là nén hương tri ân những người đi trước, vừa là lời nhắn nhủ các bạn trẻ hôm nay và mai sau, học theo người xưa để xây dựng nước nhà cường thịnh!

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét