Thứ Bảy, 5 tháng 2, 2022

20220206. THẢO LUẬN KINH TẾ XUÂN NHÂM DẦN

ĐIỂM BÁO MẠNG

LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU MỚI
NGUYỄN ĐỨC THÀNH */ viet-studies 1-2-2022



Việt Nam tiến dần vào thập niên mới

Hai năm đầu tiên của thập niên 2020 đã trôi qua. Việt Nam bước vào năm 2022 trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều chuyển biến phức tạp, bất ngờ. Một điều không thể phủ nhận là trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã thành công trong việc tạo và duy trì được đà phát triển tương đối nhanh trong khu vực và trên thế giới, dần tự hình thành cho mình một vị thế địa-chính trị-kinh tế trong khu vực.

Việt Nam có lợi thế về quy mô dân số tương đối lớn, với cơ cấu dân số còn khá trẻ và độ dung hợp xã hội cao, tầng lớp trung lưu đang phát triển và từng bước định hình lý tính về một xã hội hiện đại. Quy mô sản xuất của nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, nguồn lực xã hội được tích lũy, và hợp tác quốc tế ngày càng tự tin hơn. Nhưng bên cạnh đó, Việt Nam còn khá nhiều hạn chế như trình độ kỹ năng của lao động còn thấp, năng lực sản xuất phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chưa tự chủ công nghệ dù ở mức cơ bản. Thiết chế xã hội và hệ thống luật pháp còn chưa theo kịp sự phát triển kinh tế. Kết quả là cấu trúc nền kinh tế chưa vững chắc vì khu vực tư nhân còn yếu và dàn trải, mô hình tăng trưởng chất lượng thấp, nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, dễ tổn thương trong môi trường thể chế và kinh tế vĩ mô bất trắc.

Còn quá sớm để có thế đánh giá xem trong thập niên trước, Việt Nam đã tận dụng được hết cơ hội và tiềm năng của mình hay chưa. Tuy nhiên, nhìn vào thập niên trước mắt, có thể thấy Việt Nam chắc chắn phải đối mặt với những lựa chọn to lớn có vai trò quyết định con đường phát triển và ổn định của đất nước trong dài hạn. Vì vậy, tư duy về một tầm nhìn chiến lược cho Việt Nam trong thập kỷ này là việc làm cần thiết. Trong bài viết này, tác giả mong muốn tham gia vào cuộc thảo luận về những lựa chọn chiến lược cho Việt Nam. Sự thảo luận này, trước hết, phải gắn liền với nhận định chiến lược về bối cảnh thế giới và khu vực trong thời gian tới.

 Đánh giá sự thay đổi bối cảnh khu vực và thế giới

Nhân tố quyết định bức tranh thế giới và khu vực trong thập niên tới và xa hơn, rõ ràng là mối quan hệ giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Trung Quốc. Mối quan hệ này sau bốn thập kỷ mang tính hỗ trợ (giai đoạn đầu từ 1972) và hợp tác (cho tới khoảng 2014) có tính chủ động từ phía Mỹ, đã đổ vỡ trong cuộc va chạm gay gắt vào nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump. Khi Mỹ đã nhận ra ở Trung Quốc thái độ xét lại trật tự thế giới Hậu Chiến Tranh Lạnh do Mỹ làm bá chủ, và Trung Quốc không hề có ý định xuống thang từ chối nhận định này, cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung đã trở nên quyết liệt. Chúng ta sẽ không mong đợi sự trở lại những ngày rộn ràng của chủ nghĩa Tân-Tự do khi Mỹ và đồng minh mở cửa đón Trung Quốc gia nhập WTO với niềm hy vọng về một trật tự thế giới nguyên trạng về chính trị và phát đạt về kinh tế. Giờ đây, từ sự trưởng thành nội tại, vì lợi ích và an ninh của chính mình, Trung Quốc phải củng cố một vùng ảnh hưởng trước hết là xung quanh lãnh thổ của họ càng rộng, càng vững chắc, càng tốt. Tất cả những nỗ lực như hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân; thúc đẩy chiến lược Vành đai-Con đường; quyết tâm thay đổi thực trạng trên Biển Đông và tăng cường đe dọa Đài Loan, v.v… đều được coi là nhằm đạt tới vị thế thống trị khu vực. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một cường quốc nếu không thể thống trị khu vực địa lý của mình, thì chẳng những không thể mở rộng sức mạnh ra toàn cầu, mà còn không có khả năng bảo đảm cho chính số phận của mình. Ngược lại, nếu một cường quốc đã bảo đảm được an ninh cho chính mình nhờ đạt tới quyền bá chủ khu vực, thì lại lập tức trở thành mối đe dọa ở cấp độ toàn cầu cho bất cứ một cường quốc hay thậm chí là siêu cường nào đang tồn tại. Đây là thế “lưỡng nan an ninh” nổi tiếng trong chính trị thế giới.

Vì lẽ trớ trêu đó, Mỹ sẽ bằng mọi giá ngăn cản Trung Quốc trở thành bá chủ khu vực – hay một triển vọng hãi hùng hơn là bá chủ toàn bộ lục địa Á-Âu – vì mục đích an ninh và quyền lợi của chính nước Mỹ. Còn Trung Quốc sẽ không từ bỏ cơ hội cũng như niềm kiêu hãnh của mình để chống lại ý đồ đó của Mỹ. Việc ngửa bài cạnh tranh không che đậy từ nay trở đi, còn giúp lãnh đạo hai siêu cường củng cố tính chính danh của mình trong chính trị đối nội. Do đó, từ vị thế của mình, Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc Chiến tranh Lạnh mới tất yếu leo thang giữa hai siêu cường đối đầu nhau không chỉ vì quyền thống trị thế giới, mà vì sự tồn vong của chính họ.

Cần phải thừa nhận rằng, cho tới nay, thế trận của Mỹ vẫn mang tính áp đảo nhờ nắm giữ nhiều điểm chặn chiến lược. Mỹ đang và sẽ tiếp tục chia thế giới thành ba vùng địa chiến lược: Vùng Một ở vòng ngoài, xa Trung Quốc, gồm những đồng minh truyền thống và lôi kéo những nước kém thân thiện với Trung Quốc. Vùng Hai gồm khu vực địa lý tiếp giáp Trung Quốc, bao gồm những nước đã có sẵn mâu thuẫn với Trung Quốc và có thể làm đồng minh với Mỹ. Vùng Ba cũng là khu vực sát với Trung Quốc, nhưng gồm những nước là đồng minh của Trung Quốc, thù địch hoặc kém thân thiện với Mỹ.  

Với hai Vùng đầu tiên, Mỹ sẽ mở rộng hợp tác kinh tế thương mại, và nếu cần thì liên minh quân sự. Điển hình ở Vùng Một là Mỹ mới thành lập Liên minh quân sự Úc-Mỹ-Anh (AUKUS). Trục xương sống cho Vùng Hai hiện nay, ngoài hệ thống chuỗi đảo trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn ổn định từ sau Thế chiến II, đang hình thành nhóm Bộ tứ Mỹ-Nhật-Ấn Độ-Úc (QUAD) và Bộ tứ mở rộng (QUAD ++) hy vọng bổ sung một số trung cường trong khu vực như Indonesia và Hàn Quốc. Có thể nói QUAD++ sẽ đóng vai trò trục chính cho chiến lược Indo-Pacific mà Mỹ sẽ theo đuổi trong dài hạn nhằm ngăn chặn vị thế bá quyền của Trung Quốc trên lục địa Á-Âu.

Với Vùng Ba, Mỹ sẽ thực hiện thu hẹp hợp tác kinh tế thương mại, và nếu có lý do sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt hoặc bao vây kinh tế, nhằm làm suy yếu các nước này. Điển hình các nước trong khu vực này là Nga, Bắc Hàn và gần đây là Campuchia. Các nước tiềm năng khác là Myanmar và Pakistan.

Ngược lại, từ phía Trung Quốc, nước này cũng sẽ mở rộng vùng ảnh hưởng của mình thông qua hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư qua nền tảng Vành đai-Con đường đã được thiết lập. Mục tiêu của Trung Quốc là kết nối ổn định với các vùng nguyên liệu và năng lượng lớn, bảo đảm thông thương và mở rộng thị trường.

Khi cuộc xung đột tiến dần lên những nấc thang mới, Mỹ và đồng minh sẽ sẵn sàng loại bỏ Trung Quốc khỏi các thị trường quan trọng của họ, và điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn gốc sức mạnh kinh tế của Trung Quốc trong dài hạn.

Lịch sử cho thấy, như mới đây nhất qua gần nửa thế kỷ Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, cục diện và trật tự thế giới được định hình bởi các siêu cường đã chi phối đáng kể số phận các nước nhỏ. Nhiều nền kinh tế trong khu vực Đông Á đã trỗi dậy mãnh liệt nhờ tham gia vào chuỗi cung ứng hậu cần cho bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ ở Đông Dương, hoặc sự phục hồi thần kỳ của kinh tế Tây Âu dưới sự viện trợ của Mỹ nhằm cân bằng sức mạnh với Liên Xô và Đông Âu. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã đánh mất cơ hội phát triển hoặc mang những vết thương lớn vì trở thành nạn nhân trong thế trận Chiến tranh Lạnh.

Nhận thức được tầm quan trọng chiến lược trong bối cảnh thế giới ngày nay, Việt Nam cần làm gì để tìm kiếm và phát huy những cơ hội giúp đất nước tiếp tục phát triển, thậm chí phát triển nhảy vọt, trong thập niên này và xa hơn?

 Định vị chiến lược của Việt Nam

Có thể nói, trong những thập niên qua, Việt Nam đã thực hiện sự lựa chọn phù hợp với bối cảnh chung, là mở cửa và hội nhập quốc tế, tập trung phát triển kinh tế. Việt Nam về cơ bản đã tận dụng được cơ hội của giai đoạn cơm ngon canh ngọt giữa Mỹ và Trung Quốc, cùng đồng hành với sự cải thiện kinh tế chung của khu vực. Đến bây giờ, khi cái bóng của cuộc xung đột dài hạn Mỹ-Trung đang đổ trùm lên khu vực, Việt Nam đứng trước một số thách thức quan trọng, nhưng nhìn chung, có thể đánh giá thời cuộc đang mang lại cho Việt Nam cơ hội nhiều hơn thách thức, nếu Hà Nội không bị lôi kéo vào những tính toán địa chính trị sai lầm.

Như phân tích ở phần trước, Việt Nam có vị trí địa chính trị thuộc cả Vùng Hai và Vùng Ba trong quan điểm của Mỹ, và tọa lạc ngay sát cửa ngõ đi xuống phía Nam trong mắt Trung Quốc. Cho đến nay, Hà Nội đang chọn giải pháp trung dung như một vùng xám giữa hai vùng nêu trên, nhằm tránh bị lôi kéo về một vùng cụ thể, đồng thời khai thác lợi thế hợp tác với cả hai siêu cường.

Nhìn vào mục tiêu phát triển dài hạn, điều kiện tiên quyết đối với Việt Nam là phải đảm bảo an ninh cả đối nội và đối ngoại. Vì lý do đó, chắc chắn Việt Nam sẽ không muốn chủ động chọn trở thành một nước thuộc Vùng Ba. Khác với Campuchia hoặc Triều Tiên, thậm chí Pakistan, Việt Nam hiểu rằng thị trường Trung Quốc là không đủ và chỉ có toàn bộ thị trường thế giới mới tương xứng với tiềm năng phát triển của đất nước. Việt Nam đã theo đuổi chiến lược này trong suốt 30 năm cải cách mở cửa và chắc chắn sẽ không từ bỏ điều đó.

Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là Việt Nam sẽ gia nhập Vùng Hai. Nhiều người cho rằng hiển nhiên Mỹ muốn Việt Nam thuộc về Vùng Hai. Nhưng xét về tính toán chiến lược, Mỹ thực chất sẽ giữ một thái độ trung dung thận trọng, không vồn vã lôi kéo cũng không nài nỉ ép buộc Việt Nam. Lý do đơn giản là bản thân Mỹ sẽ không muốn cam kết là đồng minh với Việt Nam – ngay cả khi khả năng đó tồn tại. Như một số tướng lĩnh cao cấp và chiến lược gia Mỹ đã nhận định, việc Mỹ kết thân quá mức với Việt Nam có thể khiến Trung Quốc phát động xung đột với Việt Nam nhằm thách thức uy quyền của Mỹ. Trong trường hợp đó, Mỹ gặp phải thế lưỡng nan là nếu có can thiệp thì tốn kém mà không có nhiều lợi ích, trong khi đó nếu không can thiệp thì vô hình trung phát đi một tín hiệu (sai lầm) cho thấy sự bất lực của Mỹ và thừa nhận vị thế bá chủ khu vực của Trung Quốc. Do đó, Mỹ có ít động lực cam kết đồng minh với Việt Nam để Trung Quốc không có lý do “ghi điểm” trong khu vực. Nhiệm vụ của Mỹ tại chốt chặn Đài Loan có lẽ là đã đủ về mặt chiến lược.

Hiểu được bối cảnh này, Hà Nội nhận ra Việt Nam có một không gian lựa chọn tương đối linh hoạt, và sức ép chọn bên không quá căng thẳng, ngay cả khi cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung leo thang. Việt Nam có lẽ là một trong số ít quốc gia có thể duy trì vị trí trung dung của mình một cách khôn ngoan và quyết đoán, để vừa hợp tác với hai siêu cường vừa duy trì an ninh cho chính mình. Nói cách khác, về đường lối đối ngoại, Việt Nam có thể áp dụng phương châm, theo cách nói thời cổ đại, “ngoại Nho nội Pháp” (bên ngoài mềm dẻo khiêm nhường linh hoạt, nhưng bên trong cứng rắn có nguyên tắc). Trong ngôn ngữ chính trị học hiện đại, người viết đề xuất gọi đó là thái độ “do dự chiến lược” giữa các siêu cường.

Một số chiến lược cụ thể

Việc lựa chọn một đường lối chiến lược nhằm duy trì ổn định cho đất nước, là nền tảng để thực hiện mục tiêu cốt lõi là bảo đảm sự phát triển kinh tế vững chắc. Trong thập kỷ này và xa hơn, phát triển kinh tế vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong tiến trình phát triển chung của Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế cần diễn ra song hành cả trong lĩnh vực hơp tác quốc tế và cải cách trong nước như đã được thực hiện trong quá khứ.

Về chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam đã có một “lưng vốn” tương đối đầy đặn với các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký với các nước trong khu vực cũng như các nền kinh tế lớn trên thế giới. Việt Nam cần tiếp tục nghiêm túc cải cách thể chế, củng cố luật pháp và môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp khai thác tối đa lợi ích từ các FTA này. Bên cạnh đó, có thể hình dung trước động thái của Mỹ muốn quay trở lại CPTPP trước khi Trung Quốc tìm cách xâm nhập vào hiệp định quan trọng này. Trong trường hợp Mỹ thấy có nhiều ràng buộc trong nước cản trở việc sớm gia nhập CPTPP, Việt Nam có thể hướng tới viễn cảnh về một hiệp định thương mại tự do với Mỹ. Mặc dù điều này không hề dễ dàng, vì trong lịch sử Mỹ chỉ ký các hiệp định kiểu này một cách rất chọn lọc với những đối tác có vai trò chiến lược tại những khu vực địa chính trị chiến lược, nhưng Việt Nam hoàn toàn có thể khai thác vị trí đặc biệt của mình hiện nay từ góc độ “do dự chiến lược.”  Đây sẽ là một bước đột phá quan trọng đem lại lợi ích lớn cho Việt Nam trong hiện thực. Thêm vào đó, việc mở rộng và thắt chặt hợp tác kinh tế-đầu tư với các nước thuộc Vùng Một và Vùng Hai có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam có thể sử dụng các nước này như một vùng đệm trong quan hệ chiến lược với Mỹ (mà thực chất vẫn thực hiện từ trước tới nay). Bên cạnh các nước đã trở nên tin cậy và gắn bó với Việt Nam như Nhật Bản và Hàn Quốc, Ấn Độ chắc chắn là một đối tác đem lại nhiều lợi ích dài hạn cho Việt Nam trong bối cảnh mới.

Về chiến lược phát triển kinh tế trong nước, bên cạnh đường lối tiếp tục theo đuổi mô hình kinh tế thị trường mở, Việt Nam cần quyết tâm đảm bảo kiện toàn thể chế thị trường đầy đủ thông qua cải cách pháp luật và làm trong sạch bộ máy công quyền. Cải cách hành chính sẽ không có hiệu quả nếu không cải cách được chế độ tiền lương trong khu vực công theo hướng thị trường, đi liền với một bộ máy nhà nước có trách nhiệm giải trình. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo Việt Nam cần tìm ra một trọng tâm chiến lược mới để thúc đẩy về chất quá trình phát triển kinh tế. Trong hai thập niên qua, trọng tâm ấy là hội nhập quốc tế, đã đạt được nhiều thành tựu nhờ tự do hóa nguồn lực và cơ hội trong nước. Với thập niên tới và xa hơn, việc chuyển đổi số toàn xã hội và dịch chuyển nền công nghiệp từ nâu sang xanh có lẽ là hai trọng tâm thích đáng. Trong tháng 11/2021, tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) Thủ tướng Chính phủ đã chính thức công bố cam kết của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Đây chính là một bước đi có ý nghĩa chiến lược cho phép khởi động quá trình xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế của tương lai. Giống như các hiệp định thương mại tự do đã giúp Việt Nam vững bước trên con đường cải cách trong những thập niên qua, việc cam kết giảm phát thải ròng sẽ tạo động lực cho nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách kiên định và đúng đắn.

Thêm vào đó, nên cân nhắc phát triển một số ngành kinh tế đặc thù trong bối cảnh mới. Cụ thể là ngành công nghiệp quốc phòng nên được mở rộng và gắn với khu vực tư nhân trong nước, nhằm tăng tính cạnh tranh đồng thời kiến tạo năng lực kỹ thuật và tiềm lực sản xuất dài hạn cho các tổ hợp tư nhân. Bên cạnh đó, một Biển Đông tấp nập hơn có thể đem lại cho Việt Nam cơ hội mới trong lĩnh vực hậu cần cảng biển quân sự-dân sự phối hợp. Khi các cường quốc ngày càng can dự nhiều hơn ở Biển Đông, Việt Nam cần chủ động phát huy lợi thế địa lý để củng cố lợi ích kinh tế và do đó là an ninh cho chính mình

 

Nguyễn Đức Thành
Missouri, USA. Chỉnh sửa, ngày 01/2/2022

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 1-2-22



[*] Người sáng lập, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS), Hà Nội.


AN NINH KINH TẾ CHO VIỆT NAM


TRẦN VĂN THỌ/ theleader 2-1-2022


TheLEADERVài năm gần đây, vấn đề an ninh kinh tế của nước ta đã trở thành mối quan tâm lớn nhất của tôi. Cuối năm cũ, trực tiếp chứng kiến hai sự kiện thúc đẩy tôi viết ngay bài này.

Thứ nhất, ở Nhật, ông Kishida Fumio vừa nhậm chức Thủ tướng (ngày 4/10/2021) đã lập ngay Bản bộ An ninh kinh tế do một bộ trưởng phụ trách. Vấn đề an ninh kinh tế đã được Nhật quan tâm từ nhiều năm trước, lần này Thủ tướng mới đã thấy phải có riêng một cơ quan chuyên trách.

Không riêng gì Nhật, nhiều nước khác như Mỹ, Úc… cũng có những đối sách cụ thể để bảo vệ an ninh kinh tế trước tình hình thế giới ngày càng phức tạp, nhất là trong thời đại kỹ thuật số và trước những thay đổi lớn về đối ngoại ở Trung Quốc.

Thứ hai, tham dự một hội nghị về kinh tế Thái Lan vào giữa tháng 12, tôi rất ngạc nhiên biết được các doanh nghiệp Thái Lan gần đây đã đầu tư ồ ạt vào Việt Nam chủ yếu theo hình thái mua bán sáp nhập (M&A). Sự kiện Công ty Thái Beverage mua 54% cổ phiếu của Sabeco năm 2017 được dư luận chú ý nhưng ít người biết là chỉ trong 7 năm vừa qua, từ 2014 đến 2020, lũy kế kim ngạch FDI của Thái tại Việt Nam tăng tới 5 lần, từ khoảng 2 tỷ lên gần 10 tỷ USD, và trong 13 dự án lớn có tới 10 dự án theo hình thức M&A.

Đầu tư ồ ạt của Thái Lan chưa hẳn trực tiếp gây ra vấn đề an ninh kinh tế cho Việt Nam nhưng có hai điểm làm tôi quan tâm. Một là, trong tình hình Việt Nam đang hội nhập rất sâu vào kinh tế thế giới và FDI chiếm vị trí rất lớn trong nền kinh tế, ngoài Thái Lan chỉ là nước mới nổi còn nhiều nước khác, lớn hơn nhiều, cũng có hoạt động tương tự mà ta chưa tổng kết để phân tích mức độ ảnh hưởng, nhất là đã có tin công ty nước ngoài dùng nhiều biện pháp (như nhờ người Việt Nam đứng tên) để lách luật mua hoặc thuê đất ở cả những vùng nhạy cảm về quốc phòng. Hai là, nếu để cho nước ngoài tự do sáp nhập thâu tóm, doanh nghiệp Việt Nam sẽ như thế nào? Ta có thể thấy một nền kinh tế do doanh nghiệp nước ngoài chi phối hay là cần chính sách bảo vệ và nuôi dưỡng doanh nghiệp trong nước?

An ninh kinh tế cho Việt Nam
GS. Trần Văn Thọ

Tăng cường an ninh kinh tế đã trở thành mối quan tâm của các nước

Từ giữa thập niên 2010, ngày càng nhiều nước quan tâm đến an ninh kinh tế và đã đưa ra nhiều đối sách cụ thể, kể cả việc ban hành luật mới hoặc sửa đổi luật cũ. Những nước tiên tiến, đặc biệt là Mỹ, Úc, Nhật tìm cách bảo vệ công nghệ và doanh nghiệp quan trọng trong nước trước sự xâm nhập ngày càng mạnh của doanh nghiệp Trung Quốc.

Chẳng hạn, gần đây Quốc hội Mỹ đã soạn thảo nhiều luật liên quan đầu tư từ nước ngoài và có quy định đặc biệt thẩm tra kỹ các dự án để tránh trường hợp bí quyết về công nghệ hoặc thông tin về an ninh quốc gia được chuyển về Trung Quốc.

Tháng 9/2014, Mỹ cải chính Luật đầu tư nước ngoài và bảo vệ an ninh quốc gia (FINSA), đã có từ 2007, để tăng quyền hạn cho Ủy ban đầu tư nước ngoài (CFIUS) trong việc thẩm tra và quyết định về các dự án đầu tư từ nước ngoài. Tháng 6/2017, Quốc Hội Mỹ đưa ra dự thảo Luật cải thiện việc thẩm tra rủi ro đối với các dự án FDI, trong đó quy định sự cần thiết phải thẩm tra xuất xứ quốc gia của các dự án. Tháng 10/2020, Mỹ đưa ra quy định quản lý chặt chẽ việc xuất khẩu những công nghệ quan trọng…

Trước khi Thủ tướng Nhật Bản Kishida lập Bản bộ An ninh kinh tế như đã nói, năm 2017, Nhật đã có quyết định sửa đổi Luật tiếp nhận FDI trong đó tăng cường thẩm tra các dự án khả nghi để phòng công nghệ mũi nhọn bị di chuyển ra nước ngoài. Tháng 11/2019, Nhật ban hành Luật ngoại hối sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 5/2020, nhằm tăng cường kiểm soát đầu tư nước ngoài vào các lãnh vực xét ra có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Cụ thể, họ công bố danh sách 518 công ty (hầu hết là tư nhân) thuộc những ngành cốt lõi trong 12 lãnh vực, trong đó có hàng không, vũ trụ, nguyên tử lực, điện lực, gas, an ninh mạng. Theo Luật sửa đổi này, trong các giao dịch chứng khoán, khi nước ngoài chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu của các công ty thuộc danh sách này phải báo cáo với nhà nước (trước khi sửa đổi luật là 10%). Từ tháng 8/2021, Nhật bắt đầu bàn nội dung ngắn cấm công ty nước ngoài mua hoặc thuê đất ở những vùng được xem là ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Bối cảnh của trào lưu nói trên là sự trỗi dậy và chiến lược đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc không những trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới mà cách hội nhập, tiếp cận của họ đối với thế giới rất đặc biệt, gây lo ngại cho các nước.

Thứ nhất, các công ty của Trung Quốc trở thành đa quốc gia rất nhanh chóng, xâm nhập mạnh mẽ vào kinh tế, chính trị các nước. FDI ra nước ngoài của Trung Quốc mới chỉ 5 tỷ USD vào năm 2004 nhưng tăng lên trên 100 tỷ từ năm 2013 và trở thành quốc gia có FDI lớn nhất thế giới vào năm 2020. Trung Quốc cũng chủ trương tích cực thâm nhập thị trường các nước bằng hình thái M&A. Trong đại dịch từ năm 2020, Nhật Bản lo ngại nhiều công ty nhỏ và vừa của họ đa số có công nghệ cao có nguy cơ bị Trung Quốc thâu tóm sáp nhập nên đã bàn các biện pháp ngăn ngừa.

Thứ hai, từ thời ông Tập Cận Bình điều hành đất nước, Trung Quốc có phương châm mới, rất đặc biệt về doanh nghiệp, điển hình là chính sách “quân dân dung hợp” phát biểu năm 2015, và được cụ thể hóa bằng Luật Tình báo quốc gia tháng 6/2017 và được nhấn mạnh ở Đại hội toàn quốc lần thứ 19 (tháng 10/2017) của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo chính sách này, doanh nghiệp Trung Quốc, dù là quốc doanh hay tư nhân, đều có bổn phận cung cấp mọi thông tin về hoạt động của họ khi chính phủ yêu cầu. Theo đó, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi điều lệ, ghi thêm sự chấp nhận để cho Đảng Cộng sản Trung Quốc can dự vào các quyết định kinh doanh. Do đó trong hoạt động đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Trung Quốc, có thể có nhiều trường hợp không chú trọng mục đích kinh tế mà để phục vụ cho các mục tiêu khác do Đảng hoặc nhà nước Trung Quốc chủ trương.

An ninh kinh tế cho Việt Nam 1
Cần nhanh chóng soạn thảo Luật an ninh kinh tế.

Đối sách của Việt Nam để bảo vệ an ninh kinh tế

Việt Nam là nước hội nhập rất sâu vào kinh tế thế giới. Công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới khoảng 50% sản lượng công nghiệp và khoảng 70% xuất khẩu. Ở trên ta thấy khái lược bức tranh đầy ấn tượng của FDI Thái Lan tại Việt Nam. Nhưng Thái Lan chỉ xếp thứ 9 (tính theo kim ngạch lũy kế đến tháng 10/2021) và thứ 11 (tính trong 10 tháng đầu năm 2021) trong những nước đầu tư tại nước ta. Nếu có đầy đủ các dự án cụ thể của tất cả các nước đầu tư nhiều ở Việt Nam chắc chắn ta sẽ ngạc nhiên về sự hiện diện quá nhiều của doanh nghiệp nước ngoài. Dĩ nhiên cần tiếp tục thu hút FDI để phát triển nhanh nhưng đã đến lúc phải chọn lựa thật kỹ, chỉ chấp nhận những dự án thật cần thiết cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và giảm những FDI vào những lãnh vực mà doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh trên thị trường.

Mặt khác cần quan tâm đến an ninh kinh tế. Đặc biệt, không thể không lưu ý đến sự hiện diện ngày càng lớn của doanh nghiệp Trung Quốc với đặc tính mới là phục vụ nhà nước của họ. Tính theo lũy kế FDI đến tháng 10/2021, Trung Quốc xếp thứ 7, nhưng trong những năm gần đây, Trung Quốc vươn lên thành một trong 3, 4 nước đầu tư nhiều nhất (xếp thứ 4 theo FDI trong 10 tháng đầu năm 2021). Nếu kể cả Hồng Kông thì Trung Quốc xếp thứ 4 theo lũy kế và thứ 2 theo kim ngạch 10 tháng năm 2021. Ngoài FDI, trong lãnh vực xây dựng không có thống kê cụ thể nhưng tổng hợp các thông tin có thể biết được là tỷ lệ thắng thầu của doanh nghiệp Trung Quốc rất cao.

Những nước lớn, mạnh và ở xa Trung Quốc như Mỹ, Nhật mà phải cảnh giác và tăng cường cơ chế pháp lý để giữ an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích đất nước. Việt Nam nhỏ, yếu lại nằm sát nách Trung Quốc thì sự tỉnh táo phải lớn hơn gấp bội.

Theo tôi, cần nhanh chóng rà soát lại các chính sách kinh tế đối ngoại như thu hút FDI, quy định đấu thầu, quy định chặt chẽ về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước… Nên nghiên cứu ban hành các luật mới hoặc bổ sung bằng các điều lệ, các quyết định nhằm ngăn chặn các dự án FDI hay các vụ đấu thầu có ảnh hưởng đến an ninh kinh tế hay chính trị.

Cần nhanh chóng soạn thảo Luật an ninh kinh tế. Luật lệ hay quyết định thì áp dụng chung cho tất cả các nước có quan hệ nhưng khi soạn thảo nội dung cần ý thức đến sự hiện diện của một nước Trung Quốc vừa lớn mạnh vừa có các phương châm mới đối với doanh nghiệp của họ. Cần nhấn mạnh một điểm nữa là chiến lược đối phó hữu hiệu và lâu dài nhất là củng cố nội lực. Doanh nghiệp Việt Nam, doanh nhân dân tộc phải được nuôi dưỡng, được tạo điều kiện lớn mạnh. Mở cửa, hội nhập phải thực hiện từng bước, đồng tốc độ với sự lớn mạnh của doanh nghiệp trong nước. Lập đặc khu kinh tế, cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất lâu dài, hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chỉ để thoái được vốn mà không quan tâm đến khả năng chi phối của doanh nghiệp nước ngoài thì không phải là chính sách khôn ngoan trong thời đại hiện nay.

Mấy năm gần đây, nhiều doanh nghiệp nước ngoài rất tích cực triển khai hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) đối với doanh nghiệp Việt Nam. Tổng vốn đầu tư nước ngoài theo hình thức này tăng từ 6,2 tỷ USD năm 2017 lên 9,9 tỷ năm 2018 và 15,5 tỷ USD năm 2019 (mỗi năm tăng trên 50%). Gần đây, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn vì đại dịch Covid-19, họ sẵn sàng bán, và nhiều công ty nước ngoài có thể đang lợi dụng tình trạng này để mua giá rẻ.

M&A cũng là một hình thái của FDI nhưng có hai vấn đề cần lưu ý: Một là, khác với FDI thông thường, trong đó ta có thể dùng chính sách để định hướng, chỉ thu hút những dự án tốt (có công nghệ cao, phù hợp với nhu cầu phát triển), còn hình thái mua bán sáp nhập thường tự phát xảy ra giữa các công ty trong và ngoài nước. Kết quả có thể làm cho kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào tư bản nước ngoài. Thứ hai, việc mua bán sáp nhập có thể liên quan đến những ngành quan trọng của nền kinh tế hoặc trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến an ninh quốc gia. Như đã nói, ngay cả các nước tiên tiến như Nhật, Mỹ cũng đã đưa ra danh mục các công ty (dù là hoàn toàn tư nhân) trong đó có các quy định cấm hoặc hạn chế mua bán sáp nhập từ công ty nước ngoài.

Trước tình hình khó khăn vì đại dịch, Chính phủ cần cho nghiên cứu, thực hiện ngay một giải pháp để cứu một số doanh nghiệp quan trọng hoặc có tiềm năng nhưng đứng trước nguy cơ bị nước ngoài thâu tóm. Ngoài các chính sách hỗ trợ đã có, Chính phủ nên xem xét việc dùng vốn của Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) mua cổ phiếu (một phần hoặc toàn phần) của các doanh nghiệp tư nhân đang gặp khó khăn và đang muốn bán cho nước ngoài. Cho đến nay, trong quá trình cải cách kinh tế, ta cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp quốc doanh và tập trung vốn về SCIC. Bây giờ làm ngược lại là dùng vốn đó quốc hữu hóa một bộ phận doanh nghiệp tư nhân đang khó khăn. Trong tương lai gần, khi kinh tế ổn định trở lại và các doanh nghiệp đó hoạt động bình thường trở lại, nhà nước sẽ thoái vốn, trả lại cơ cấu sở hữu cũ cho doanh nghiệp. Giải pháp này chỉ có tính tình thế cho giai đoạn đặc biệt khó khăn hiện nay.

Các nguồn vốn khác, không phải từ SCIC, nếu có, mà chưa được sử dụng cũng có thể dùng cho trường hợp này. Ngoài ra, có thể thoái vốn ở những công ty đang lớn mạnh mà Nhà nước còn nắm giữ một phần để dùng tiền đó cho giải pháp này.

Đây có thể là giải pháp táo bạo, thoạt nghe có thể nhiều người nghĩ là đi ngược lại quá trình cải cách. Nhưng trong tình hình rất đặc biệt phải giải cứu doanh nghiệp trước ảnh hưởng của đại dịch, đây có thể giải pháp linh hoạt và áp dụng có điều kiện trong một thời gian nhất định.

BỊT LỖ HỔNG THỂ CHẾ ĐỂ CHỐNG 

THAM NHŨNG

NGUYỄN SĨ DŨNG/ NĐT 3-2-2022


Ưu tiên hàng đầu trong việc phòng chống tham nhũng phải là cải cách thể chế. Và ví dụ cụ thể được đưa ra trong bài viết này là cải cách thể chế liên quan đến đất đai. Thể chế về đất đai là những chế định của pháp luật về đất đai và việc thực thi chúng trong cuộc sống.

Chế định quan trọng nhất ở đây là: đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Xét về mục đích, đây là một chế định hết sức tốt đẹp. Có gì có thể tốt đẹp hơn khi mỗi người Việt chúng ta đều là chủ sở của tất cả đất đai, sông, biển?! Tuy nhiên, vấn đề làm thế nào hiện thực hóa được sự tốt đẹp này trong cuộc sống? Đây quả là câu hỏi rất khó trả lời.

Về mặt lý thuyết, chỉ thể nhân và pháp nhân (một cá nhân hoặc một tổ chức) mới thực thi được các quyền của chủ sở hữu. Toàn dân không phải là thể nhân, cũng không phải là pháp nhân nên chẳng có cách gì để thực thi các quyền của chủ sở hữu cả. Các quyền chủ sở hữu vì vậy phải giao lại cho Nhà nước. Thế nhưng, Nhà nước lại được cấu thành từ nhiều pháp nhân và cũng không thể trực tiếp thực thi quyền chủ sở hữu đối với đất đai. Chính vì vậy, Nhà nước đến lượt mình lại phải giao quyền chủ sở hữu đối với đất đai cho một số quan chức trong các cấp hành chính.

thamnhung_ctji

Vì vậy, nói đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, nhưng trên thực tế những người có quyền thực thi các quyền của chủ sở hữu chỉ là một nhóm rất nhỏ bé. Cách hiện thực hóa chế định đất đai thuộc sở hữu của toàn dân độc đáo này trước đây không gây ra tranh chấp và bất bình xã hội, vì chúng ta không có kinh tế thị trường. Đất đai không có thị trường chỉ là phương tiện sản xuất hoặc không gian vật lý để ở mà thôi.

Đó là chưa nói tới việc kinh tế hợp tác xã với phương thức “bán như cho, mua như cướp" lại còn triệt tiêu hơn nữa ham muốn có nhiều đất đai làm phương tiện sản xuất. Khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì đất đai “bỗng nhiên” trở thành tài sản. Mà tài sản thì không chỉ để ở, để trồng trọt, người ta còn có thể được hưởng rất nhiều lợi ích khác có được từ đất đai (kể cả từ vị trí của đất đai). Các giá trị tài sản của đất đai đã làm cho đất đai trở nên vô cùng quý giá.

Thực ra, trong quá trình đổi mới và cải cách, các quyền tài sản đối với đất đai về cơ bản đã được trả lại cho các thể nhân và các pháp nhân nhờ một sáng tạo pháp lý hết sức độc đáo. Đó là chế định quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất đã bao hàm gần như toàn bộ các quyền tài sản đối với đất đai. Trong thời gian qua, ở những mức độ nhất định, quyền tự do tài sản đối với đất đai đã được bảo đảm. Điều này đã giúp cho nền kinh tế có những bước phát triển khá ngoạn mục.

Tuy nhiên, các quyền tài sản đối với đất đai, đặc biệt của nông dân đang bị hạn chế nghiêm trọng bởi ba quyền năng mà Nhà nước ủy quyền cho một số quan chức thực hiện. Đó là quyền thu hồi đất, quyền cho phép chuyển đổi và quyền xác định giá đất. Đây là những quyền năng rất dễ bị thao túng. Lạm dụng 3 quyền năng nói trên để hưởng lợi chính là hình thức tham nhũng phổ biến nhất hiện nay và cũng gây ra bất bình lớn nhất hiện nay.

Trước hết về quyền thu hồi đất. Trong khi quyềnthu hồi đất được thực thi vì lợi ích công ít gây ra bất bình, thì quyền thu hồi đất được thực thi vì “các dự án phát triển kinh tế” thật sự là một vấn đề rất lớn. Các dự án như vậy chỉ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp và các chủ đầu tư. Tại sao người dân lại phải giao đất của mình cho những dự án chỉ vì lợi ích tư, lợi ích nhóm như vậy? Tại sao cũng là chuyện làm ăn cả, người dân lại không được thương lượng, không được mặc cả?! Cải cách thể chế quan trọng nhất ở đây là phải hạn chế tối đa, tiến tới chấm dứt hoàn toàn quyền thu hồi đất vì mục đích kinh tế. Làm được điều này, chúng ta sẽ loại trừ được một nguyên nhân thường xuyên làm phát sinh tham nhũng.

Thứ hai là quyền cho phép chuyển đổi. Quyền cho phép chuyển đổi thực chất là một thứ quyền hô “biến”. Đất nông nghiệp với giá thấp có thể được biến thành đất đô thị với giá rất cao chỉ nhờ một quyết định hành chính. Điều này khuyến khích mãnh liệt các doanh nghiệp, các chủ đầu tư tìm đủ mọi cách để được hưởng chênh lệch địa tô ở đây. Và tham nhũng cũng xảy ra tràn lan ở đây. Thực ra, đất đai chỉ có thể được chuyển đổi theo sự phát triển tự nhiên của kinh tế và xã hội. Mọi quy hoạch không đi theo sự phát triển tự nhiên này chỉ có thể gây ra vô tận những lãng phí. Đó là chưa nói tới việc làm như vậy sẽ tạo ra miếng đất hết sức màu mỡ cho tham nhũng chính sách. Cải cách thể chế quan trọng nhất ở đây là việc quy hoạch phải được thực hiện trên cơ sở sự phát triển tự nhiên của kinh tế, xã hội. Kiên quyết không để lợi ích nhóm tác động lên quy hoạch. Quy hoạch thế nào thì đất sẽ được chuyển đổi như thế ấy. Chấm dứt chuyện làm dự án rồi xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất là rất quan trọng để chống tham nhũng.

Thứ ba là quyền xác định giá đất. Quyền xác định giá đất có lẽ là thứ quyền đang gây ra nhiều khiếu nại, tố cáo nhất. Việc xác định giá đất hiện nay chủ yếu chỉ căn cứ vào loại đất (đất thổ cư hoặc đất nông nghiệp, đất rừng) như hiện nay đang gây ra những bất công vô tận đối với những người nông dân và đang làm cho toàn bộ chênh lệch địa tô rơi vào túi một vài doanh nghiệp bất động sản và các quan chức tham nhũng. Từ ngàn xưa, cha ông ta đã hiểu “Thứ nhất cận thị, thứ nhị cận giang”. Giá đất do vị trí đất xác lập. Đất ở Hàng Đào, Hà Nội đắt vì nó nằm ở trong phố cổ. Thế nhưng, chúng ta đến thế kỷ 21 rồi vẫn không chịu hiểu điều này.

Một số doanh nghiệp có thể sẽ phản biện lại rằng do họ đầu tư vào cơ sở hạ tầng nên giá đất mới lên. Cơ sở hạ tầng quả thực có thể làm cho giá đất tăng lên. Thế nhưng, không có vị trí thuận lợi, đắc địa của đất, giá đất không thể lên đến hàng chục, hàng trăm lần. Cứ lên Mù Cang Chải mà đầu tư vào cơ sở hạ tầng đi, xem giá đất có lên hàng chục lần không? Chúng ta không phản đối các doanh nghiệp làm giàu từ đất đai, nhưng hãy bảo đảm quyền thương lượng, quyền mặc cả cho những người nông dân bị thu hồi đất. Giá thị trường bao giờ cũng chỉ là giá thuận mua, vừa bán mà thôi! Không bảo đảm quyền mặc cả của những người nông dân sẽ không bao giờ có giá thị trường.

Cuối cùng, một số người sẽ cho rằng nếu Nhà nước không có quyền thu hồi đất cho các dự án động lực, thì kinh tế sẽ không thể phát triển nhanh chóng được. Nông dân mà cứ khư khư giữ đất thì mọi dự án đều sẽ thất bại. Mới nghe, ý kiến này có vẻ không phải là không có cơ sở. Tuy nhiên, con người ta ai cũng hành xử hợp lý (Đây là tiền đề quan trọng nhất của kinh tế học, luật học và nhiều chuyên ngành khoa học xã hội khác). Không ai đầu óc bình thường có lợi hơn mà lại không làm. Các doanh nghiệp chỉ mua lại quyền sử dụng đất của nông dân khi và chỉ khi điều đó mang lại lợi ích lớn hơn cho họ. Người nông dân chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình khi và chỉ khi điều đó cũng mang lại lợi ích lớn hơn cho họ. Sau mỗi lần giao dịch thì cả hai bên cùng có lợi chính là bí quyết đưa lại sự giàu có thần kỳ của quyền tự do tài sản. Quyền tự do tài sản, chứ không phải là sự sáng suốt nhất thời của bất kỳ một quan chức nào đó là tiền đề quan trọng nhất để chúng ta có được sự công bằng, thịnh vượng và giàu có bền lâu. Và bảo đảm quyền tự do tài sản về đất đai cũng là cải cách thể chế quan trọng hàng đầu để chống tham nhũng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét